"Tuyển tập II - Chân dung văn
học nghệ thuật và văn hóa" là một công trình mới của Nhà văn Ngô Thế
Vinh, giới thiệu 15 văn nghệ sĩ và nhà văn hóa thành danh thời trước 1975 ở
miền Nam Việt Nam. Những tác phẩm, chân dung và chứng từ trong tuyển tập này
minh chứng cho một nền văn nghệ nhân bản, năng động và đột phá đã bị bức tử sau
biến cố 30/4/1975. Do đó, tuyển tập là một nguồn tham khảo quý báu về di sản
của nền văn nghệ và giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa.
*
Để cảm nhận
đầy đủ ý nghĩa của Tuyển tập này, cần phải điểm qua diễn biến của nền giáo dục
và văn nghệ miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa trước và sau 1975. Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH) chỉ tồn tại vỏn vẹn 20 năm. Nhưng trong một quãng thời gian tương đối
ngắn ngủi đó, VNCH đã để lại một di sản quý báu về một nền giáo dục mà ngày nay
có người 'tiếc nuối vô bờ bến'. Nền giáo dục VNCH được xây dựng trên ba
trụ cột Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng. Nhân Bản là lấy con người làm gốc, là
cứu cánh chứ không phải phương tiện của đảng phái nào. Trụ cột Dân Tộc là nền
giáo dục đó có chức năng bảo tồn phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc.
Trụ cột Khai Phóng là nền tảng để nền giáo dục tiếp nhận những thành tựu và kiến
thức khoa học kỹ thuật trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ và các giá trị
văn hóa nhân loại, giúp cho Việt Nam hội nhập thế giới.
Ngoài giáo dục, VNCH còn
để lại một di sản đồ sộ về văn học - nghệ thuật. Người viết bài này cảm thấy
mình may mắn vì lớn lên và được thụ hưởng những tác phẩm trong nền văn học đậm
chất nhân văn đó, được tiếp xúc với những tư tưởng mới từ phương Tây qua những
sách dịch và sách triết học. Nếu phải mô tả một cách ngắn gọn nền văn nghệ đó,
tôi sẽ tóm tắt trong bốn chữ: nhân bản, tươi tắn, năng động, và đột
phá. Tính nhân bản và tươi tắn có thể thấy rõ qua những tác phẩm thơ và nhạc
được giới thanh niên yêu thích. Tính năng động và đột phá được minh chứng qua
những diễn đàn quan trọng như tạp chí Bách Khoa, từng làm say mê chúng tôi một
thời. Nhà văn Võ Phiến từng nhận xét rằng, "Trước
và sau thời 1954 - 1975, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được
phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy."
Tuy
nhiên, sau biến cố 1975, nhà cầm quyền mới với chủ trương “chuyên chính vô sản”
đã có nhiều biện pháp nhằm hủy diệt những di sản đó. Với sự phụ họa của một số
cây bút ngoài Bắc và một số người 'nằm vùng' trong Nam, họ kết án rằng nền văn
nghệ VNCH là "văn học thực dân mới" hay "văn học tư sản"
có mục đích phục vụ cho thực dân. Họ quy chụp cho các tác giả miền Nam là
"những tên biệt kích văn hóa", "phản động và suy đồi",
"thù địch với nhân dân", "phục vụ đắc lực nhất cho Mỹ
Ngụy". Không chỉ vu khống và quy chụp, nhà cầm quyền còn phát động nhiều
chiến dịch lùng sục tịch thu và tiêu hủy sách báo cũ, và bắt giam nhiều tác giả
nổi tiếng trong các trại tập trung để 'cải tạo tư tưởng'. Chiến dịch
tiêu diệt di sản của nền văn nghệ VNCH được thực hiện một cách có tổ chức và
kéo dài đến 20 năm.
Hậu
quả của sự vùi dập đó là một thế hệ người Việt hoặc là không hiểu biết gì về nền
văn nghệ VNCH, hoặc là hiểu biết một cách méo mó do chánh sách tuyên truyền gây
ra.
Tuy
nhiên, trong thời gian chừng 10 năm trở lại đây, quan điểm của giới cầm quyền về
nền văn nghệ VNCH đã thay đổi đáng kể. Theo thời gian, họ đã nhận thức rằng nền
văn nghệ thời VNCH là một di sản văn nghệ của dân tộc. Theo đó, nhiều tác phẩm
văn học và sách khảo cứu văn hóa thời VNCH đã được tái xuất bản, và khá nhiều
nhạc phẩm sáng tác từ trước 1975 đã được 'cho phép' lưu hành. Nhiều tác giả từng
bị vu cáo là 'biệt kích văn hóa' cũng được ghi nhận đúng đắn. Theo một ước tính
gần đây, đã có chừng 160 tác giả thời VNCH đã được 'phục dựng'.
Song
song với sự ghi nhận giá trị của nền văn nghệ VNCH, người ta cũng bắt đầu tìm
hiểu và đánh giá đúng hơn về nền giáo dục VNCH. Ở miền Bắc Việt Nam trước 1975
và Việt Nam sau 1975 nền giáo dục không có triết lý giáo dục. Người ta loay
hoay đi tìm một triết lý giáo dục cho Việt Nam, nhưng dù đã có nhiều cố gắng mà
vẫn chưa đi đến một sự đồng thuận, có lẽ vì sự chi phối quá nặng nề của thể chế
toàn trị.
Những
nhận thức mới đó và sự loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục hiện nay gián tiếp
nói lên rằng nền văn nghệ và giáo dục VNCH đã đi trước thời đại.
Trong
bối cảnh đó, Tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ của Nhà văn Ngô Thế Vinh là một
đóng góp có ý nghĩa. Tuyển tập I bao
gồm 'chân dung' của 16 tác giả và 2 nhà giáo: Mặc Đỗ, Như Phong, Võ Phiến, Linh Bảo, Mai Thảo,
Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn-Xuân
Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Nguyên Khai, Cao Xuân Huy, Phùng
Nguyễn, Phạm Biểu Tâm và Phạm
Hoàng Hộ. Trong Tuyển tập II, bạn đọc
sẽ 'gặp' 15 tác giả: Nguyễn
Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn
Trung, Hoàng Tiến Bảo, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần
Hoài Thư & Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, John
Steinbeck, và đặc biệt là Dohamide (Đỗ Hải Minh).
Viết
chân dung của những tác gia là một việc rất khó khăn, nhưng Nhà văn Ngô Thế
Vinh đã có một 'công thức' dung hòa giữa thông tin về cá nhân và thông tin về
tác phẩm của họ. Không giống như các tuyển tập văn học khác thường chú trọng
vào tác phẩm, Nhà văn Ngô Thế Vinh tập trung vào tác giả và hoàn cảnh sáng tác.
Do đó, mỗi tác giả được mô tả bằng một tiểu sử ngắn, những tác phẩm chánh, và đặc
biệt là những tâm tư cũng như hoàn cảnh ra đời của các tác phẩm. Qua những
thông tin đó, có thể dễ dàng phác họa các tác giả như sau:
· Nguyễn Tường Bách: nhà cách mạng gian truân
& Hứa Bảo Liên: nhà văn gốc Hoa mang tâm hồn Việt.
·
Tạ Tỵ: một họa sĩ tiên phong và một nghệ sĩ đa
tài.
·
Trần Ngọc Ninh: một đời mang ước vọng duy tân
cho Việt Nam.
·
Lê Ngộ Châu: linh hồn của diễn
đàn Bách Khoa khai phá những cái mới.
·
Nguyễn Văn Trung: lập thuyết gia cánh tả nhiều
lận đận.
·
Hoàng Tiến Bảo: một nhân cách lớn.
·
Lê Ngọc Huệ: điêu khắc gia làm tỏa sáng sự mầu
nhiệm Mân Côi.
·
Nghiêm Sỹ Tuấn: một tấm gương trí thức - y sĩ dấn thân thời chiến.
·
Đoàn Văn Bá: một tấm gương sáng về lòng dũng
cảm và y đức của một y sĩ.
·
Mai Chửng: một tượng đài của cây lúa miền
Tây.
·
Trần Hoài Thư & Ngọc Yến: người nâng niu
và bảo tồn di sản văn học nghệ thuật VNCH.
·
Phan Nhật Nam: một cây bút nhà binh sắc bén và phân
định chánh trị rạch ròi.
·
Dohamide: một nhà khảo cứu văn hóa Chàm ôn hòa và đầy trăn trở.
·
John Steinbeck: nhà văn cánh hữu với những
trang viết thật về cuộc chiến Việt Nam.
Một
trong những nhân vật mà tôi nghe nhiều trước đây, nhưng qua Tuyển tập này mới
biết hơn: đó là ông Lê Ngộ Châu, chủ
bút Tạp chí Bách Khoa. Có thể xem ông là một nhà báo. Có thể ông không lừng
danh như các tác giả Mai Thảo, Du Tử Lê, Doãn Quốc Sỹ, Tô
Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, v.v..., nhưng ông là người
giúp cho họ nổi tiếng qua tạp chí Bách Khoa. Đối với tôi, tạp chí Bách
Khoa là một diễn đàn trí thức quan trọng nhứt nhì ở miền Nam về
văn hóa, văn nghệ, xã hội, kinh tế, và cả chánh trị. Qua 426 số báo từ 1957 đến
1975, Bách Khoa đã giới thiệu hơn 100 tác giả đến công chúng, những người sau
này trở thành nổi tiếng. Những người tử tế ngoài Bắc trước 1975 nhận xét rằng
Bách Khoa là một tạp chí nghiêm chỉnh, ngôn ngữ đàng hoàng, và là diễn đàn giúp
họ hiểu các vấn đề ở miền Nam. Qua Tuyển tập II, độc giả sẽ biết rằng ông Lê
Ngộ Châu là ‘linh hồn’ của tạp chí Bách Khoa.
Nếu
ông Lê Ngộ Châu là người tạo ra di sản văn hóa, thì Nhà văn Trần Hoài Thư và phu nhân Nguyễn Ngọc Yến là người phục
hồi di sản đó. Nhà văn Trần Hoài Thư từng là một nhà giáo,
quân nhân, đi tù cải tạo, và khi sang Mỹ thì thành chuyên gia về điện toán.
Nhưng trước và trên hết, Trần Hoài Thư là người của văn chương. Ông khởi sự viết văn từ năm 1964, và từng có bài
trên tạp chí Bách Khoa. Dù bị chi phối bởi 'cơm, áo, gạo, tiền' trong đời sống ở
Mỹ, nhưng hai vợ chồng Trần Hoài Thư và Nguyễn Ngọc Yến dành nhiều thời gian cất
công sưu tầm, hệ thống hóa, điện toán hóa, và kết quả là một thư mục quý báu về
các tác phẩm văn học ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Ông thổ lộ rằng “... nhờ văn chương mà tiếng
chuông ngân vang, như những niềm vui lẫn tự hào kỳ diệu. Nhờ văn chương mà ta
quên đi thân phận nhục nhằn, nhờ văn chương mà ta thấy ta cao lớn hơn bao giờ.” Có thể nói một cách tự tin rằng so với những
bài viết về Trần Hoài Thư trước đây, bài viết về Trần Hoài Thư trong Tuyển tập
II là đầy đủ nhứt. Bài viết còn có những bức hình rất cảm động về đôi uyên ương
này trong tuổi xế bóng. Sự tận tụy cho văn học của họ thật đáng ngưỡng phục.
Một
học giả khác có nhiều đóng góp cho văn hóa học thuật trước 1975 là Giáo sư Nguyễn Văn Trung. Ông cũng là người có
nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của sinh viên thời trước 1975 như tôi. Tuy thời đó
(thập niên 1960 - 1970) ông còn tương đối trẻ, nhưng rất năng động trong các hoạt
động văn hóa và học thuật. Ở tuổi 28, ông cùng với các đồng nghiệp ở Đại học Huế
sáng lập ra các tạp chí nổi tiếng Đại Học (1958 - 1964). Sau đó, ông
sáng lập các tạp chí như Hành Trình sau này là Đất Nước (1964 -
1966) và Trình Bầy (1970 - 1972). Có thể nói ông là một trí thức thiên tả,
nên các tạp chí do ông phụ trách cũng mang màu sắc tả khuynh. Chẳng hạn như tạp
chí Hành Trình tuyên bố chủ trương 'làm cách mạng xã hội không cộng sản'.
Hành trình trí thức của ông khá lận đận trong một Việt Nam với nhiều chao đảo.
Nhưng những lận đận của một trí thức như ông là một bài học kinh nghiệm cho thế hệ
trí thức tương lai.
Một
nhân vật quan trọng được đề cập trong Tuyển tập là nhà văn người Mỹ John Steinbeck, người được trao giải
Nobel văn học năm 1962. Có thể xem John Steinbeck là một trí thức cánh hữu, vì
ông công khai ủng hộ sự
tham chiến của Mỹ ở Việt Nam. Ông tin rằng, “Nhà văn phải tin tưởng
rằng điều hắn đang làm là quan trọng nhất trên thế giới. Và hắn phải giữ ảo tưởng
ấy cho dù khi biết được điều đó là không thực.” Ông không tin vào những
bản tin về cuộc chiến Việt Nam của giới báo chí cánh tả, nên ông xung phong đi Việt Nam vào cuối năm
1966 để tận mắt nhìn thấy cuộc chiến và ghi lại cảm nhận cho riêng mình. Những
cảm nhận và nhận định đó sau này được sưu tập thành một cuốn sách ‘Dispatches
from the War’ (xuất bản 2012). Như Nhà văn Ngô Thế Vinh nhận xét rằng những trang ông viết là một bài học cho các
thế hệ tương lai.
Tuyển tập dành nhiều trang cho họa sĩ Tạ Tỵ, và hai nhà điêu khắc Lê Ngọc Huệ
và Mai Chửng. Những trang viết về Tạ Tỵ thật hấp dẫn, vì cuộc đời và sự nghiệp
đa dạng. Ông nổi tiếng là một họa sĩ, nhưng ông còn là người lính của hai chiến
tuyến khác nhau, là tù nhân, là người tị nạn, và cũng là nhà văn. Cá
nhân tôi biết đến Tạ Tỵ qua cuốn Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn xuất
bản trước năm 1975 và sau này là cuốn hồi ký Đáy Địa Ngục viết
về những năm tháng ông đi tù cải tạo. Đó là những tác phẩm viết ra bởi ‘người
trong cuộc’, nên chất chứa nhiều nỗi niềm về thân phận của người lính sau cuộc
chiến và thân phận lưu vong.
Tuyển tập
II có một tác giả mà tôi nghĩ rất mới đối với
nhiều người: Dohamide hay Đỗ Hải Minh. Dohamide là người gốc Chàm
(nay gọi là 'Chăm'), là một nhà khảo cứu về văn hóa và dân tộc Chàm. Từ năm
1962, ông là một trong những tác giả có nhiều bài viết khảo cứu về văn hóa Chàm
cho tạp chí Bách Khoa. Tác giả Ngô Thế Vinh nhận xét rằng "Dohamide với
suốt một cuộc đời đau đáu đi tìm về cội nguồn, chỉ mong sao phục hồi được nền
văn hóa Champa như một căn cước của dân tộc Chăm nhưng rồi cuối đời Dohamide
cũng phải đứng trước những 'Cộng đồng Chăm đôi bờ'." Tại sao đứng trước
đôi bờ? Tại vì cộng đồng Chàm bị giằng co giữa một bên là mối hận 'mất nước'
đòi ly khai và một bên là hòa nhập vào đại gia đình dân tộc Việt Nam. Dohamide muốn dùng văn hóa và
những thành quả khảo cứu của ông để thuyết phục giới trẻ không bị lôi cuốn vào
những trào lưu cực đoan. Trong bối cảnh căng thẳng giữa các sắc tộc, những học
giả độc lập và ôn hòa như Dohamide có thể giúp cho các sắc tộc hiểu nhau hơn, và nhà cầm quyền
hoạch định
những chánh sách đem lại công bằng và nhân văn cho các sắc tộc.
Những
trang viết về các nhân vật Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Trần Ngọc
Ninh, Hoàng Tiến Bảo, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, và Phan Nhật Nam cũng giàu
hàm lượng thông tin. Đó là những bài viết có nhiều dữ liệu mới chưa từng được
công bố trước đây, giúp cho người đọc hiểu hơn về những suy tư đằng sau các tác
phẩm của họ.
Một
đặc điểm độc đáo của Tuyển tập là những hiện vật, hình ảnh, và thủ bút của tác
giả. Những chứng từ mang tính lịch sử
này rất đáng để thế hệ sau sử dụng làm chất liệu cho các nghiên cứu về văn
học và văn hóa thời Việt
Nam Cộng Hòa. Trong thời gian gần đây,
một người cầm quyền chánh trị cao nhứt ở trong nước phàn nàn rằng Việt Nam thiếu
những tác phẩm hay và lớn, thì Tuyển tập này sẽ giúp cho người đó suy nghĩ lại.
Nhà
văn Ngô Thế Vinh là một bác sĩ, nên văn phong của anh mang dáng dấp khoa học:
trong sáng. Độc giả sẽ không tìm thấy những ngôn từ hoa mỹ hay những ví von
thái quá trong Tuyển tập; thay vào đó là những trang mô tả sự việc đã xảy ra
như thế nào, ở đâu, và lúc nào. Văn phong trong tuyển tập không có những mỹ từ,
nhưng là những chữ chính xác, và do đó, độc giả chỉ có thể hiểu theo logic đường
thẳng.
Nền văn nghệ và giáo dục
VNCH là tập hợp nhiều tác giả và tác phẩm. Qua hai tuyển tập chân dung văn nghệ
sĩ, Nhà văn Ngô Thế Vinh dìu dắt độc giả đi qua một hành trình văn học và
văn hóa, và gặp những tác giả tiêu biểu đã có những đóng góp mang tính khai phá
trong nền văn học nghệ thuật đó. Là một người trong cuộc và chứng nhân của cuộc chiến vừa qua, tác giả mô
tả hành trình văn nghệ đã qua như là người thư ký của thời cuộc. Nhưng là một
người lưu vong lúc nào cũng trăn trở về quê hương, tác giả nhìn lại hành trình văn nghệ đã qua bằng một lăng kính mới, một
cách hiểu mới, và đó chính là một đóng góp có ý nghĩa của Tuyển tập.
GS NGUYỄN VĂN TUẤN
Sydney, Australia 23/12/2021
***
Sách đã được phát hành tháng
2/2022
Việt Ecology Press
ISBN # 9781990434181
www.amazon.com, các hiệu
sách
P.O.Box 3893, Seal Beach, CA 90740