Văn Học Press
22 Agostino, Irvine, CA 92614 USA • vmail: +1-949-981-3978
email: vanhocpress@gmail.com • Facebook: Van Hoc Press
PR 10/15/2021
SÁCH MỚI
Trân trọng giới thiệu:
ĐÊM
tập thơ
NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021
Tựa:
Tô Thẩm Huy
Tranh bìa:
Phạm Cung
Ký họa chân dung Nguyễn Thị Khánh Minh:
Đinh Cường – Trương Thìn – Lê Thánh Thư
Bảo Huân – Trương Đình Uyên - Phan Tấn Hải
Viết về Nguyễn Thị Khánh Minh:
Phan Tấn Hải – Nguyễn Xuân Thiệp – Trần Thị Nguyệt Mai
Lê Lạc Giao – Hoàng Xuân Sơn – Hồ Đình Nghiêm
Trịnh Y Thư – Lê Giang Trần – Tô Đăng Khoa
Nguyễn Lương Vỵ
@@@
Sách đã có bán trên BARNES & NOBLE
Ấn phí: US$20.00
Xin bấm vào đường dẫn sau:
https://www.barnesandnoble.com/w/dem-nguyen-thi-khanh-minh/1140209036?ean=9781668553664
@@@
Lời của Thơ
–––––––––––––––––––––
Nguyễn thị Khánh Minh
và thi tập
ĐÊM
Bóng Sáng – Bóng Tối
Night, the shadow of light,
and life, the shadow of death.
A.C. Swinburne
- Sao gọi là lời?
- Thưa: logos
- Là?
- Là ẩn ngữ ân điển từ cõi trời Hy La uyên nguyên vọng về.
- Vọng về điều gì?
- Thưa: Có một lỗ thủng màu trắng trên nền trời đen tối.
Trăng buồn
Lỗ thủng trắng
Trời đêm
- Thật vậy sao? Làm sao nghe ra tiếng vọng ấy?
- Thưa ấy là từ thuở con người vẫn hiểu tiếng nói của chim muông, cây cỏ, biết nghe tiếng đêm, biết tan vào bóng tối mà ẵm bóng sáng vào lòng.
Dằng dặc đêm. Trăng hoài không rơi
Vắng trong tôi. Tôi hoài không lời
Chịu không nổi. Một cành cây đập gió
Nghe thấy không? Trong đêm dằng dặc, một cành cây đang đập gió. Mà trăng hoài vẫn cứ không rơi. Làm sao chịu nổi! Cây ơi, ngừng lại, đừng đập gió nữa.
Tôi không nói
Chỉ có hàng cây gió thổi
Và bóng. Tối
Tôi không ngủ
Chỉ có đêm đang trôi
Có lẽ sẽ một lời
Để đừng tan vào bóng
Thi sĩ là ai trong đêm đang trôi? Thưa là bức tường xôn xao ở lại cùng bóng sáng sau khi cửa sổ đã bay đi:
Bóng trôi ra ngoài cửa sổ
Như với theo
Cái gì đó vụt bay
Gió bay đi
Đêm bay đi
Giấc mơ bay đi
Chiếc cửa sổ bay đi
Nỗi chờ đợi cũng bay đi
Và:
Rưng trên tay
Bóng sáng
Người để lại
Thi tập “Đêm” gom lại những bài thơ tác giả viết đây đó những 20 năm thao thức, sắp xếp theo những chủ đề xoay quanh hai dòng ý tưởng: Bóng Sáng và Bóng Tối.
Sao gọi là bóng sáng? Đã bóng sao lại sáng?
Thưa nếu không thế thì làm sao có thể làm đầy những lỗ hổng của giấc mơ:
Bầu trời sâu
Kéo đêm lên là những chấm sao
Bóng tối sâu
Đang vực tôi lên là đường tròn
Một đường tròn
Chở bóng sáng trong
Một đường tròn
Đang dịu dàng tròn mãi
Dựa vào nó
Tôi đi trên con đường khúc khuỷu của mộng
Dựa vào nó
Tôi làm đầy những lỗ hổng của giấc mơ trong cuộc sống.
Sao là những lỗ hổng của giấc mơ? Từ nay liệu chúng ta có thể yên tâm để mơ về những giấc mộng không còn lỗ hổng chăng?
Thế bóng tối là sao? Đã bóng thì hẳn phải tối chứ?
Thưa chuyện ấy cũng còn tùy. Phải bật lên đã, thì đêm mới tối:
Bật đêm lên
Một điểm bất ngờ
Vành trăng úp mặt hổ ngươi
Rồi phải với lấy vầng trăng đang trôi nổi trong đêm:
Sợ xa thêm ánh sáng vì sao
Sợ chìm xuống trong khuya sâu
Tôi với lên một vừng trăng đang nổi
Sau đó phải đi vời áng mây trắng:
Tìm trong đêm, mây trắng
Hỏi xem nhà ta đâu
Đêm cúi nhìn im lặng
Cả ba buồn như nhau
Đã có ai trò chuyện với mây, lặng lẽ nhìn đêm, mà ngậm ngùi thương nhớ người thân?
Nếu cho ba điều ước
Tôi xin đừng nhìn ngược
Tôi xin đừng nghe xuôi
Và ước mơ lúc nào cũng chờ tôi phía trước
Ước chi ai ai lúc nào cũng nhớ ba điều ước ấy.
Khi tôi nắm vào trong tay
Ít nắng
Thì cùng lúc tôi nắm vào chút nhỏ nhoi của bóng tối
Khi tôi ôm vào lòng
Ít gió
Cũng là lúc tôi đầy trống không, im lặng
Khi tôi bắt đầu một giấc mơ
Cũng là lúc tôi đã chìm sâu
Giấc ngủ
Và để biết có giữ được gì không
Tôi bắt đầu hy vọng
Và từ niềm hy vọng ấy:
Tôi nhóm lên một ngọn lửa
Gió thổi tắt đi
Tôi nhóm lên một ngọn lửa nữa
Gió lại thổi tắt đi
Khi tôi không còn hy vọng
Thì gió
Lại làm những que tàn kia bắt lửa…
Và niềm hy vọng từ đấy sẽ mãi mãi phục sinh trên thân phận chúng ta:
Tôi hút vào bóng tối
Đôi mắt mù không hay
Ánh sáng trong tôi nói
Cái sáng từ tôi đây
Hãy dùng nó làm khiên
Hãy dùng nó làm đèn
Hãy dùng nó để tỏ
Với lòng ngươi đêm đen
- Sao gọi là Minh?
- Thưa Minh có thể là nhật giao thoa với nguyệt mà chan hòa ánh sáng:
Mặt trời
Trong phút giây thức dậy đẹp đẽ nhất
Trăng
Nơi cao lồng lộng
Nàng hỏi bằng ánh mắt thơ ngây nhất
Và đêm có đêm rằm
Từ đó, khi nghe gọi tên:
(Gọi Tên)
Mà Minh cũng có thể là tiếng hót đến từ chiếc lưỡi của cánh chim đang chao lượn trong gió mà nếu không có vầng trăng trầm mình dưới mặt giếng tĩnh lặng thì làm sao nó có thể hân hoan xao xuyến với về tấm lòng trong thanh tơ trắng của Tố Như Tử: Trạm trạm nhất phiến tâm, Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.
Không rộn lòng dâu bể
Tỉnh thủy vô ba đào
Nếu mà không hạt lệ
Thử tâm chung bất dao…
Nếu mà không trăng sáng
Làm sao nối xưa sau…
Và nếu không có bóng trăng lặng trên mặt giếng thì làm sao đêm có thể mọc lên từ bức tranh?
Đêm mọc lên từ bức tranh
Ứ đầy tĩnh lặng…
…Trên con đường ánh mắt đang đi
Đêm thiếu nữ. Òa vỡ…
Từ đấy, logos trong “Đêm” trở thành bức tranh chan hòa mầu sắc của lời thơ Khánh Minh:
Nếu bảo tôi vẽ bóng tối. Tôi sẽ vẽ
Những đôi cánh của chiêm bao mọc ra từ trái tim trong suốt. Vầng trăng trên gối ngủ bài thơ. Ngọn đèn cô đơn bên trang bản thảo.
Tôi sẽ vẽ cả tôi đang vượt qua đêm dài. Tôi sẽ vẽ làm sao để người xem tranh thấy được. Bóng tối chỉ là ảo ảnh…
Phải chăng vì đời sống chỉ là bóng hình của cái chết?
Và hỡi những họa sĩ thân yêu trên trần gian này, tôi xin được làm cậu Hoàng Tử Bé của St Exupery, yêu cầu quý vị vui lòng vẽ hộ tôi – không phải con cừu đang gặm cỏ trên tinh cầu xa xôi – mà làm ơn vẽ hộ tôi bức tranh của bóng khuya – không phải là bóng khuya lúc đang ngồi tỉ tê cạnh bóng đêm, mà là lúc đang lững thững đi dạo dưới trăng – để tôi có dịp được ngắm bức tranh vẽ lúc “bóng về” của họa sĩ Khánh Minh.
Ai vẽ được bóng khuya đi
Cho tôi đọ với bóng về. Của tôi
Lời của thơ trong “Đêm“ là tiếng nói của con người nguyên sơ mà chúng ta đã lâu ít còn được nghe thấy ai nói, đến gần như đã quên mất. Xin mời nghe lại mấy lời:
Gió vườn nhà êm ả
Ai nói gì qua lá
Mà khuya đầy trăng thơm
Đêm ngó trời. Cao quá
Hỏi trăng gần, trăng xa
Đâu là chốn quê nhà…
Sáu câu thơ tuyền những lời giản dị mà vang vọng một trời âm nhạc, êm đềm mà man mác thớ vị chua xót, ngân nga trong đêm u hoài tiếng ai thầm thì qua lá. Và chao ôi, sao hai chữ “cao quá” trong lời thơ ấy nghe thất thanh, lặng ngắt một nỗi sợ hãi bâng quơ, đơn côi, nhỏ bé!
Thế giới của “Đêm” trong thơ Khánh Minh trừu tượng những hình ảnh tươi mát ban đầu, chan chứa những ý tưởng tinh khôi, ẩn hiện những tâm tình thanh cao, diệu vợi. Thế giới ấy trước khi bước vào thật nên làm theo lời khuyên của Tagore mà tắm gội, tẩm mình bằng hương trầm, để đón vọng:
Một mảnh trăng vắt cong ngoài cửa sổ
Yên bình đến nỗi
Để thưởng thức nó
Tôi có cảm giác như mình đang phạm lỗi…
Tôi cũng thế. Tôi cũng nhiều khi có cảm giác như mình đang phạm lỗi – những lúc đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.
Bốn câu thơ trên là những lời sau cuối của “Đêm”. Những câu thơ “sau dấm chấm hết”. Vậy nên tôi xin được có thêm lời ước thứ tư: Rằng chúng ta sẽ còn được thêm nữa nhiều đêm hạnh phúc nghe lời Khánh Minh trò chuyện.
Thật may mắn những ai thường được gặp gỡ, gần kề với cái thế giới tinh khôi ấy.
– Tô Thẩm Huy
Houston, Tiết Đại Thử, tháng 7, 2021
Lê
Giang Trần
ÂM SẮC MỘNG CÒN LANG
THANG
GIẤC MƠ TRONG CUỘC SỐNG
“Mộng
còn lang thang giấc mơ trong cuộc sống” là câu thơ của thi
sĩ Nguyễn Thị Khánh Minh, bất ngờ tôi, như nốc ly rượu đỏ cất lâu năm ngây ngất
dịu dàng. Tập thơ đề tựa ngắn gọn: “ĐÊM”, có hai tiêu đề chính “bóng sáng” và
“bóng tối”, nên tôi gọi là “âm sắc”. Chữ “sắc” ngoài nghĩa giản dị màu sắc còn
chuyên chở vài ý nghĩa khác, như sắc thái, sắc hình, sắc tướng, sắc danh…, đặc
biệt trong ngôn ngữ Phật giáo, sắc còn tượng trưng cho vật chất. Khoa học vũ trụ
cũng dùng tiêu biểu cho “vật nhìn thấy được” để phân biệt với “chất tối” / dark
material, thứ vật chất mà trí người chưa biết tới, giống như không nhìn thấy được
tia tử ngoại hay X-Ray, hồng ngoại tuyến v.v… Như vậy, ánh sáng thuộc về vật chất.
Phật nói, vật chất thì sinh-hoại, không tồn tại vĩnh hằng. Ngày nay, hạt lượng
tử Quantum cho con người biết thêm, vật chất như chính nó, có lưỡng tính, một tính
(hiện ra) hạt và tính kia (biến thành) sóng. Sóng vô hình vì mắt người không
nhìn thấy. Kinh Phật có tả những thế giới “vô sắc” hay “vô hình” trong vũ trụ,
nhẫn đến xứ phi-tưởng, phi-phi-tưởng (ẩn dụ?).
Sơ lược để trở lại với bóng
sáng và bóng tối của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, ngầm mang một ý nghĩa khá
quen thuộc, là “ảo ảnh” [Bóng tối chỉ là ảo
ảnh – NTKM]. Từ ngữ mang ý nghĩa “không có thực” này đối với “tự ngã” con
người rất bị đố kỵ. Phật khẳng định “bản ngã là thứ không có thật”, con người
trở nên khủng hoảng trầm kha, bởi trí óc tự cho nó chính là chủ nhân ông cái
thân đựng nó, nên lý trí hách dịch tuyên bố “tôi
tư duy nên tôi hiện hữu” [Descartes].
Nếu nói một cách nghiêm túc, con người từ đó “biết buồn”.
**
Nguyễn Thị Khánh Minh ấn
hành tập thơ Ký Ức Của Bóng năm 2013. Bóng đã là một đối tượng tư duy của
thi-văn sĩ thơ mộng này. Bóng trở thành chữ mang dấu ấn nàng, Du Tử Lê bấy giờ,
viết về văn chương óng ả của nàng, như sau:
“Tôi nghĩ, một ngày nào, gặp lại Nguyễn,
tôi sẽ nói:
“Cảm ơn Khánh Minh. Cảm ơn những lượng
phù sa mà, Khánh Minh đã bù đắp cho những sạt, lở chữ nghĩa nơi dòng sông tản
văn của chúng ta, hôm nay.”
Từ đó, tôi thấy tôi đã cùng gió… bay
lên. Bay lên.
“Bay lên. Gió ơi.”
(DU TỬ LÊ)
I.
BÓNG
SÁNG
Bài đầu tiên mở ra cánh cửa
bóng sáng:
“Bóng trôi ra ngoài cửa sổ
Như với theo
Cái gì vụt bay
Gió bay đi
Đêm bay đi
Giấc mơ bay đi
Chiếc cửa sổ bay đi
Nỗi chờ đợi cũng bay đi
Không còn gì
Không còn ai còn tôi
Rưng rưng
Bóng sáng
Người để lại
…
Tôi đi trên con đường khúc khuỷu của mộng
Dựa vào nó
Tôi làm
đầy những lỗ hổng của giấc mơ trong cuộc sống”
Đoạn kết
bài thơ, nói một cách thơ mộng:
Ánh sáng trong
tôi nói
“Cái sáng từ tôi đây
Hãy dùng nó làm khiên
Hãy dùng nó làm đèn
Hãy dùng nó để tỏ
Với lòng ngươi đêm đen”
Và, ở bài “Mất Ngủ”, bóng
sáng chợt nhú mình bóng tối:
“Sợ bị bỏ lại một mình trong giấc ngủ
Không còn gì chở che
Bóng tối sẽ thò tay vào
Thổi tắt cái lấp lánh của giấc
mơ tôi vừa thắp lên”
Một nỗi khoắc khoải BÓNG TỐI
tràn về, MỘNG ẢO bước vào, nơi cuối bài “ý nghĩ lúc chờ xe”:
“Trong khúc khuỷu bóng tối
Tôi phải đi bao nhiêu lần giấc mộng
Để ban mai?”
Bóng và Mộng còn được nhận diện sắc
màu huyễn hoặc khi người cha từ nay chỉ hiện hữu trong giấc mộng người con, Hình
chỉ còn là âm sắc của Bóng, qua bài thơ “nhớ cha”, (trích đoạn):
“Cha đi vào giấc mộng
Trời mở cõi thong dong
Nhẹ rồi phương này bóng
Tàn tro một hư không”
Nhập mộng rồi cũng rời mộng, dù chỉ là
giấc mộng bí mật đang xảy ra trong không gian tỉnh thức, nơi một cảnh chùa, tàn
tro của người cha được gửi gắm vào huyền diệu Phật pháp, người con yêu cha thầm
thì từ giã và vỗ về lòng mình:
“Thôi con về. Khép cửa
Chùa yên. Một tĩnh ở
Tro tàn rồi bụi lạnh
Rồi quen dần. Nỗi nhớ...”
Thi thoảng chỉ cần “một nhịp dừng”, sát-na
thời gian đứng lại ấy chợt lóe lên giấc mơ hay những tiềm ẩn “ước mơ”:
“Biết đâu một nhịp dừng thơ dại
Tôi lại về kịp giấc tôi mơ...”
Nhà thơ cho biết ở bài thơ khác, “giấc
mơ cô gái nhỏ”, được trang bị đáng ngạc nhiên:
“Cô
bật những ngọn đèn. Mang rất nhiều ánh sáng đi vào giấc ngủ. Mang âm thanh trầm
trầm của cha đi vào giấc ngủ. Trong túi áo ngày ấy cha đã để vào ba hạt dẻ khô
cho mơ ước theo về...”
Câu thơ trên có một chi tiết làm tôi
nhớ đến bộ phim cổ trang Nam Hàn gần đây, dựa vào huyền thoại một vì vua trẻ
băng hà mà sau đó dân gian thấy chàng vua trẻ trung này là một anh hề lưu diễn.
Chất liệu để phim dựng thành cốt truyện một anh hề bị bắt làm vua giả, thế mà được
kính trọng như một minh quân. Rời bỏ vai tuồng làm vua, trên đường trở về đời sống
thường dân, anh ta bị xạ tiễn ám sát và mất tích. Trong đau khổ tận cùng sau đôi
năm chờ đợi mỏi mòn, người yêu chàng tin theo một tập tục cổ xưa trong dân gian
là cắn bể một vỏ hạt dẻ rồi cầu xin thành tựu mơ ước lớn nhất trong đời mình
thì sẽ được toại nguyện… và hai người đã sum vầy như một giấc mơ… Ba hạt dẻ khô
kỷ vật là của anh hề tặng cô gái con quan với lời kể sự tích dùng để cầu xin đạt
ước mơ, là chi tiết tình cờ trùng hợp thơ mộng thú vị. Điều này mang ý nghĩa
khi con người có một ý lực mãnh liệt, người ấy có thể đạt được ý nguyện của
mình.
Thơ đôi khi mang tính triết lý thơ mộng,
có khi là trăn trở khoắc khoải, có lúc bâng khuâng nỗi phù du ngắn ngủi kiếp đời…
Tựu trung, con người đều có tư duy về dòng luân hồi bất biến của SỰ SỐNG, quy
trình bốn KHỔ; từ tiền đề Tứ-Đế mà vang câu Bát Nhã: “Sắc tức thị Không / Không tức thị Sắc”, con người nên nhận chân lẽ
Vô Thường. Bởi vì cái “Đang Là” thật ra là cái “đang Diễn Biến”. “Niết bàn” là
“thái độ” chứ không phải “trạng thái”. Kinh Pháp Cú nói rằng “chúng ta là những gì chúng ta suy nghĩ”,
chính thái độ tư duy đó quyết định ta
mãi “địa ngục” hay trở nên “thiên đàng”. Thái độ bừng sáng là thái độ thiên đường.
Ngôn ngữ chỉ tượng sắc tượng
hình trong giới hạn, tuy nhiên ngôn ngữ thi ca chan chứa tính siêu thực, ngữ-độ
diễn đạt dồi dào trừu tượng, tạo cảm tưởng thưởng thức được hương vị hay mùi vị.
Người xưa đặt thơ lên đỉnh cao văn đàn không phải là tâng bốc hồ đồ.
II.
BÓNG TỐI
Bóng tối không thể tự NỞ ra bóng sáng.
Ánh sáng thì xóa tan bóng tối. Nhưng ánh sáng không trường tồn, mặt trời sẽ đến
lúc đốt cạn lửa, một tinh tú đủ tiêu chuẩn khi chết co rút thành hố đen. Lý
thuyết HỐ ĐEN bùng nổ sinh ra vật chất và ánh sáng, ngày nay đã được chứng minh
và công nhận. Tuy nhiên, vũ trụ mang một màu tăm tối chứ không chan hòa sáng,
thứ ánh sáng định nghĩa theo con người trong “chiều không-thời gian” dành cho
sinh vật sống ở trái đất.
Về mặt tâm linh, sự “bừng sáng tâm thức”
là mục tiêu của người tu hành đạo pháp để siêu việt ra khỏi cái gọi là “vô
minh”, bấy giờ “Tâm Linh” bừng sáng câu thông cùng vũ trụ, ví giống như hạt nước
hòa nhập vào đại dương nên trở thành đại dương. Như vậy, bóng tối là loại đối
tượng được nhìn ngắm một cách thi vị ẩn mật... Nguyễn Thị Khánh Minh phát biểu
thơ mộng như sau:
“Nếu bảo tôi vẽ bóng tối...
... Tôi sẽ vẽ tôi đang vượt qua đêm dài.
Tôi sẽ vẽ làm sao để người xem tranh
thấy được.
Bóng
tối chỉ là ảo ảnh...”
[người viết bài ghi nghiêng câu]
Bài thơ đầu tiên của tiêu đề “bóng tối”
như sau:
HAI BÓNG
1.
Ai vẽ được bóng khuya đi
Cho tôi đọ với bóng về. Của tôi
2.
Đừng bật thêm đèn nữa
Ngày đã sáng lắm rồi
(Xin lỗi) hay vì con mắt tôi
Đã quen rồi bóng tối...
Nhà
thơ KM quy cho “bóng tối chỉ là ảo ảnh”. Đây chính là mấu chốt tư duy chuyển tải
ẩn mật trong trong hai tiêu đề về bóng của thi tập ĐÊM. Nàng thơ có lý do sáng
tạo hai nhân vật bóng sáng và bóng tối chào đời từ các tố chất, như bài thơ “Lý
Do” dưới đây:
Mặt trời
Trong phút giây thức dậy đẹp đẽ nhất
Chàng mở mắt
Và trái đất có bình minh
Trăng
Nơi cao lồng lộng
Nàng hỏi bằng ánh mắt thơ ngây nhất
Và đêm có đêm rằm
Bóng tối
Trong lấp lánh hỏa mù
Hắn giấu mặt
Và đêm tràn ác mộng
Trong phút giây hạnh phúc nhất
Nàng nhắm mắt
Và. Đêm. Trăng mật
Trăng-mật hay mật trăng hay mật-quang,
“ánh sáng của đêm” là thứ ánh sáng mà giấc mơ chung tình chung thủy, không phải
ánh sáng của ngày; giấc mơ “mù lòa” trong bóng sáng và “rực rỡ” trong bóng tối:
“Bóng tối khiến giấc mơ thăng hoa
Im lặng khiến giấc mơ tràn đầy
Hiến dâng khiến giấc mơ rực rỡ
Từ đó
Giấc mơ không còn biết một thứ ánh
sáng nào ngoài đêm”
Còn Bóng-tối đêm thì dường như là chất
xúc tác nẩy mầm vươn lên nguồn sâu kín:
“Đêm đang đi qua giấc mơ của hoa
bằng những bước tự mãn
nuốt hết tinh túy sắc mầu
phủ dụ khát vọng chồi non
Mãn khai cảm xúc
…
Khi đi ngang mặt hồ phẳng lặng ngập
ánh trăng
Đêm mới vỡ ra
Ảo ảnh những thú vui điên rồ
Đã từng đồng lõa”
Âm bản của bóng là đêm, âm bản của
hình nhân là cõi mộng, âm bản của đời là bóng: tam đoạn luận này làm cho “con
bóng” [hay “con người?”] thảng thốt kêu lên: “bản lai diện mục con bóng là giấc
mộng ư? Hay bản lai diện mục của giấc mộng là con bóng?” “Trang Tử Bướm hay Bướm
Trang Tử?” Thơ bỗng hóa thân Triết:
ÂM BẢN
Đêm dày đêm
Con bóng đi đâu
Hun hút chiêm bao
Đòi hình nhân thế mạng
Cõi mộng du
Mù mịt đường về
Hình nhân thất lạc
Thảng thốt giấc mộng
Con bóng khóc
Một đời âm bản
**
Trong bài thơ “Giấc mơ Larung Gar”,
qua lăng kính “bóng tối ăn mòn ánh sáng”, nảy sinh một tâm trạng “nhớ”, hốt hoảng
vỡ ra:
“Đêm nay. Mảnh thời gian xô lệch
Bóng tối ăn mòn ánh sáng
Thềm gạch hốt hoảng dấu chân
Đau lòng tiếng vỡ
Từng lóng gỗ xương khô thiêm thiếp
Nhớ sớm hôm tắm lời kinh kệ
Nhớ áo vàng bay”
“Như tôi vừa nghe. Giấc mơ nào thời trẻ
Đêm nay khóc cùng vệt mầu dở dang nơi
phòng tối
Có tiếng gào
Ưng ức bầy tranh
Khóc nhớ...”
[Nhớ
Xanh Trong Tranh Người]
Nhớ, là tập quán của tâm hồn. Quên, là
chiêu thức của lý trí. Nhớ là từ bi, Quên là trí dũng. Qua sông quên thuyền,
lên đường đừng nhìn lại. Nhưng Tình yêu thì mơ trọn đời, Người yêu thì nhớ trọn
kiếp. Buồn thì hằng nhớ, Vui thì chóng quên. Thế giới nhị nguyên đối đãi, âm
dương cần nhau, bi-trí hỗ tương nhau, ngày-đêm gắn bó nhau; bóng sáng bóng tối
chẳng qua do “thời gian xô lệch” mà thành hiện tượng. Hiện tượng là “thái độ”
(hay “động thái” theo kiểu thời đại), hiện tượng không là trạng thái, mà động rồi
tĩnh, hiện rồi biến. Thế giới nhị nguyên bị gọi là thế giới vô thường, từ đó tâm
thức trở trăn. Ảo và Mộng trở thành sầu miên viễn của tự ngã.
Nguyễn Thị Khánh Minh qua văn chương
cho thấy tàng chữ nghĩa tâm hồn nàng thuần ròng chất liệu trong sáng, thiện
lành, óng ả tươi đẹp, xanh thắm hy vọng, lung linh sức sống; dù diễn tả một nỗi
buồn trầm trọng vẫn không bao giờ dìm buồn xuống “vũng lầy của chúng ta” như nhạc
Lê Uyên-Phương, mà thả buồn bay lãng đãng. Tâm tính chữ nghĩa nàng không bao giờ
đọc lên cảm thấy chán đời, thất vọng, bi quan; giống như một nàng tiên có bao
giờ thốt lên lời cay nghiệt với ai.
“Hãy đến đây. Và hát cùng nhau
Chuông đêm rung. Và. Người về. Dẫn lối
Ô. Cuối trời vừa bật một vì sao”
[Và. Trở lại]
“Vào gác hoàng hôn xin một chén
Tím mây bay uống cạn mộng mơ chiều
Mai thức giấc thấy mình thơm một đóa
Vào đóa hoa xin lòng mật ngọt
Nói ra lời hiền hậu như hương
Bay theo chim biết sum vầy tiếng hót
…
Vào hơi thở xin thêm ánh sáng
Cõi mộng người bóng tối tủa như tên
Cứ niệm và đi. Cứ nghe và lắng”
[Nương náu]
**
Tập thơ ĐÊM không thơ mộng dịu dàng
như “bóng bay, gió ơi” có lẽ chợt người thơ nhận ra Bóng đã Già. Cặp bóng sáng
và bóng tối trở thành “bóng tươi” và “bóng héo”, trưng ra trong lăng kính vạn
hoa phù trầm phù vân phù du phù dung, biến ảo trôi theo tư duy của người thơ, mà
sao tôi thấy như những áng mây trôi buồn lang thang, như trong bài thơ Tượng Bóng:
“Bóng cũ theo người già năm tháng
Lòng ai bấc lụn xuống đêm thâu
Khuya bốc mộ chiêm bao còn ảm đạm
Tội con mắt mấy đời lệ hạt
Hai dòng đi kéo nụ đười ươi
Bóng ngửa mặt xót hình nhân dị dạng
Cơn nhớ bao lần đau lột xác
Vết già kham nữa vết thương xanh
Hình vỡ bóng một niềm đau đã khác”
Và hai câu thơ thật buồn:
“Thảy vào cùng tận đêm khuya
Những đa đoan những mộng mê một đời”
[Phía bên kia]
Đương nhiên có bài thơ chủ đề ĐÊM, rồi
liền đó ĐÊM TÀN, cặp đôi Bóng Sáng/Bóng Tối, Sinh/Hoại, Nở/Tàn. Đêm nở ra:
“Phương đông im như ai vừa sập cửa
Ngày oằn vai cõng tối. Nắng theo đi
Để lại một trời đêm chết đứng”
Và đêm phai tàn:
“Đêm vừa tắt hết nhớ quên
Phù sinh chiếc lá bên thềm rớt vai
Nhớ nhau. Kia nắng một vài
Tìm nhau. Tiếng hót ở ngoài bình minh”
Nỗi buồn, đôi khi trớ trêu nghịch lý
nghịch pháp nghịch ngợm:
“Tôi nhóm lên một ngọn lửa
Gió thổi tắt đi
Tôi nhóm lên một ngọn lửa nữa
Gió lại thổi tắt đi
Khi tôi không còn hy vọng
Thì gió
Lại làm những que tàn kia bắt lửa...”
[Bắt Đầu]
Thi sĩ khép lại tiêu đề Bóng bằng bài
thơ “Sau dấu chấm hết”, như tự sự về mệnh hệ những chất xúc tác: Bóng, Giấc mơ, Ảo ảnh, Ánh sáng, Đêm, Hy vọng,
những thứ tôi gọi là âm sắc, âm bản của Hồn-Người:
“Dường như
Tôi viết bài thơ này trong bóng tối
Giấc mơ. Ảo ảnh sáng của người nhìn
trong đêm
Hy vọng. Ảo ảnh nước của người đi trên
đường nắng bỏng”
**
Nối những tư duy trăn trở nằm rời rạc,
như ghép những mảnh hình vụn ăn khớp kết thành một bức tranh, bức tranh “mộng còn lang thang giấc mơ trong cuộc sống”
âm sắc là gam màu của bóng sáng và bóng tối giao thoa chập chờn ảo ảnh. Cuối
cùng của một hành trình vật chất hoàn mãn, nó trở thành phế tích, nó tan thành ảo
ảnh, nó trở thành Không-tính, trở lại sóng Vô-âm, vô tướng vô bóng. Tàng ẩn
trong Không chờ phát sinh Có. Đó là bản lai diện mục của Tự-thể. Đó là câu thần-chú
rền sấm: “Sắc tức thị Không / Không tức
thị Sắc”. Đó là mạn-đà-la Không chợt tức thì thành Sắc / Sắc lại tức thì
thành Không. Đó là liên-khúc chủng-tử luân-hồi, là bốn mùa sinh-khí luân-vũ, sinh-lực
âm-dương hợp giao…
Tâm thức là đối tác của nhị nguyên.
Bóng đối tác với Hình. Thơ là ánh mắt ngắm nhìn vạn hữu diễn biến, trời đất
đóng kịch, gió nắng pha màu, tuyết mưa pha âm; bằng ống kính vạn-hoa, con tim ngắm
nhìn như thiền-quán. Thi sĩ Nguyễn Thị Khánh Minh thảng thốt kêu lên, “Mộng còn lang thang giấc Mơ trong cuộc sống”.
Thiền sư Mãn Giác thảng thốt kêu lên: “Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận / Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” [Cáo tật thị chúng, hai câu kết, Mãn Giác
(1052-1096)]
“Chớ bảo xuân tàn hoa rụng
hết
Đêm qua. sân trước. một
cành mai”
(Thích Thanh Từ, dịch)
Bukko Kokushi hay
Mugaku Sogen (Vô Học Tổ Nguyên)
(1226-1286) thì ngược lại, làm tôi thảng thốt khi đọc hai bài thơ thiền sư này:
LÂM ĐAO KỆ
Càn khôn vô địa trác cô
cung
Hỷ đắc nhân không pháp diệc
không
Trân trọng Đại Nguyên tam
xích kiếm
Điện quang ảnh lý trảm xuân
phong.
(Bukko Kokushi)
Vũ trụ không nơi đơm gậy
chiếc
Vui thay nhân pháp thảy đều
không
Nâng cao Đại Nguyên ba thước
kiếm
Phóng tia điện chớp chém gió
xuân.
(Đào Nguyên Minh
dịch)
Xếp lại tập ĐÊM khi đêm tàn. Bắt chước,
tôi thơ, đừng tưởng Bóng tàn, Hình tan mất
/ lìa Mơ, hình Mộng lượn trong tim. Bấy giờ trời đâm mây ngang. Tôi đâm
mình vào mộng.
BẮN VỚI CÂY CUNG GÃY
Cung đã gãy; tên đã hết.
Trong phút giây khẩn yếu này
Buông hết mọi nghi ngờ.
Bắn không chút ngần ngại.
(Bukko Kokushi,
Đào Nguyên Minh dịch)
Lê Giang Trần
(Little Saigon, ngày 15.9.2021.
Đọc tập thơ ĐÊM, Nguyễn Thị Khánh Minh)