Chúng tôi ngồi, không
nói gì với nhau nữa, cả hai cùng đăm chiêu nhìn xuống dòng kênh Đôi chảy lờ lững
với những đám bèo giạt bám vào bờ, vào chân cây cầu sơn màu đỏ phía xa xa. Nơi
chúng tôi ngồi là một khu dân cư mới thành hình khoảng hai chục năm nay, một
khu dân cư đẹp vì thiết kế mới, những con đường cắt nhau vuông vức, các mảng
cây xanh bên cạnh những căn nhà cấu trúc mới và đẹp. Cái thích nhất là con đường
chạy ven dòng kênh, bên bờ là hàng cây cao, tỏa bóng mát xuống công viên thật
trữ tình. Bên kia dòng kênh là quận Tư. Quận Tư nằm gọn giữa hai con kênh là
kênh Tẻ và kênh Đôi. Bên kia kênh Tẻ là khu vực quận Năm. Chính xác là ngay chỗ
giao thoa giữa hai con kênh, là khu Nancy, với Cầu Chữ Y chia ra ba nhánh, Quận
Năm bên này, Quận Tám bên kia. Khu phố đó, tôi giữ trong lòng nhiều kỷ niệm khó
quên suốt thời niên thiếu.
Tôi vừa gặp lại Trần
Hoàng Hùng sau gần ba mươi năm biệt tung tích của nhau. Lần này về Saigon, khi
nhớ và ghé đến khu xóm ngày xưa ở Nancy, thật vui khi gặp Hùng ngồi uống cà phê
nơi quán cóc ngay đầu hẻm. Hùng không còn cư trú ở đó từ lâu lắm. Nghĩa là ngay
khi tôi còn ở đó, thì gia đình Hùng đã dọn đi chỗ khác, và dọn nhà tới hai ba lần
nữa, dẫu vẫn chỉ quanh quẩn trong Saigon, nhưng chúng tôi không có dịp liên lạc
được với nhau. Hùng nói: “Tao vẫn thường xuyên ghé lại chỗ này uống cà phê khi
có dịp, vẫn giữ mối dây liên lạc với bạn bè trong xóm. Cho nên dù không còn ở
Nancy, tao vẫn là dân khu đất Nancy.”
Gặp lại nhau, cả hai
đều không giấu được cảm xúc bồi hồi và chỉ kịp hỏi thăm nhau vài câu về gia
đình, vợ con và sinh kế. Tôi nói muốn gặp lại một lần nữa, chuyện trò lâu hơn.
Hùng đồng ý, trao đổi số điện thoại và hẹn nhau tại quán cà phê ven bờ kênh
này.
Tôi và Hùng cùng cỡ
tuổi. Khi gia đình tôi dọn về khu Nancy năm 1963, và ở cạnh nhà nhau, sau đó
cùng đi học chung ở trường Nguyễn Bá Tòng, cùng sinh hoạt phong trào Hướng Đạo
và hơn thế nữa, chúng tôi cùng lập một bút nhóm làm thơ viết văn từ lúc chúng
tôi còn ở tuổi mười lăm. Cho nên khi ngồi cạnh nhau, các kỷ niệm của thời niên
thiếu dồn dập trở về… Cả hai đều không biết bắt đầu câu chuyện từ đâu.
- Tao xa khu này quá
lâu, và thường xuyên lại không ở Saigon, nên không biết gì về những thay đổi của
xóm mình và những bạn hữu ngày xưa, mày có tin tức gì về tụi nó? Thằng Nhiều giờ
sao rồi?
- Nó có vợ, một con,
có một khách sạn nhỏ ở Vũng Tàu. Nó chết hai năm nay rồi. Có một thời gian dài
nó không uống nước mà chỉ uống bia, rồi không hiểu làm gì thành vỡ nợ, nó bỏ
Vũng Tàu vào sống trong núi, và khi tìm lại thì đã chết.
- Thằng Ngân thì sao?
- Chết rồi.
- Thằng Hải?
- Chết rồi.
- Thằng Đấu?
- Chết rồi.
- Thằng Tèo?
- Ung thư, sắp chết.
Tôi tròn mắt: Thôi
tao không hỏi nữa, hỏi thằng nào... chết thằng nấy. Bây giờ tao hỏi tới mày… e
rằng mày cũng nói...
Giữa thập niên 1960, ở
miền Nam có một phong trào rất rầm rộ của tuổi thiếu niên, đó là việc thành lập
các Thi văn đoàn, Bút nhóm. Không có một tư liệu nào ghi lại sự hình thành và
các sinh hoạt này.Tôi nhớ thì sau chính biến 01/11/1963, tại Saigon có khoảng
vài chục tờ nhật báo phát hành. Tờ báo nào cũng chứng minh báo mình là báo của
cả gia đình, cho nên trang bìa là tin tức chính trị, trang trong sẽ có một phần
làm trang Phụ Nữ, một phần làm trang Thiếu Nhi, một làm trang Thể Thao, và các
truyện dài. Báo thì nhiều quá, những tờ báo có tiếng tăm và được đọc nhiều như
Ngôn Luận, Đại Dân Tộc, Hòa Bình, Chính Luận, Saigon Mới, Đại Dân Tộc… đều có
trang Thiếu Nhi. Trong trang đó, đăng các bài thơ, truyện ngắn, tùy bút của tuổi
học trò, đặc biệt là hình thành các tổ chức như Gia Đình Mai Bê Bi (báo Chính
Luận), Gia Đình Tuổi Ngọc, Bạn với Bé Ngôn, Bé Luận. Đầu tiên, những bài thơ bài văn đề tên tác giả
và địa phương cư trú, sau đó dần dần tên tác giả có ghi thêm thi văn đoàn, bút
nhóm gì đó. Mới đầu thì ít, sau thì dường như tác giả nào cũng có dòng Thi văn
đoàn dưới tên của mình. Các anh chị phụ
trách các trang đó khuyến khích và tạo điều kiện để các nhóm có đất dụng võ và
tìm đến nhau làm quen, kết bạn, cùng học cùng viết với nhau.
Khoảng năm 1966 mà
tôi nhớ, thì tại Saigon xuất hiện hàng loạt tuần báo dành cho tuổi thiếu niên.
Trong đó rất nhiều nhà văn nhà giáo tâm huyết với tuổi thiếu niên thực hiện tờ
báo như một phương tiện giáo dục như Nhật Tiến (tuần báo Thiếu Nhi), Hà Mai Anh
(tuần báo Bạn Trẻ), Nguyễn Trường Sơn (bán nguyệt san Tuổi Hoa), Duyên Anh (tuần
báo Tuổi Ngọc), ABC (tuần báo Việt Sinh). Các tờ báo khác tôi không nhớ tên người
chủ trương, nhưng cũng là những tuần báo hấp dẫn thời đó như Tre Xanh, Ngàn
Thông, Trẻ, Măng Non và nhiều nữa. Từ môi trường đó, các bút nhóm, thi văn đoàn
lập nên ở khắp nơi, các nhóm tự tìm cách liên lạc với nhau, bằng thư, và bằng cả
cách tìm đến nhau trò chuyện kết thân.
Ngay trong cái xóm
Nancy nhỏ xíu mà tôi cư trú, có Bút nhóm Thế Hệ của các anh lớn (lúc đó họ học
khoảng lớp Đệ Nhất (12), Đệ Nhị (11) gì đó và nhóm chúng tôi, những đứa trẻ
đang học Đệ Ngũ (9), Đệ Tứ (10). Tôi đang học Đệ Tứ trường Nguyễn Bá Tòng, và
đang sinh hoạt Hướng Đạo. Ảnh hưởng từ Hướng Đạo nên tôi rủ Hùng và vài người bạn
trong xóm lập bút nhóm lấy tên là Họ Rừng Xanh, và ra tiêu chuẩn mỗi đứa phải lấy
bút hiệu là con vật. Tôi lấy tên là Linh Hồ và thay vì xưng là trưởng nhóm thì
xưng là Chúa Rừng. Hùng lấy tên Vân Hạc, Nhiều (Trần Thái Lực) lấy tên Thần Kim
Quy. Nhiều và Hùng rủ thêm bạn chung lớp tham gia, nhóm có thêm Đỗ Quyên, Ngọc
Thố, Chuột Nhắt… Cũng có họp mặt ăn bánh, cũng có làm thơ viết văn gửi đăng
báo, cũng liên lạc gặp gỡ người này người kia... tham dự các buổi sinh hoạt do
các tờ báo tổ chức họp mặt và nhờ đó kết nối khá nhiều bạn bè, trong đó, sau
này, tức là cả ba bốn mươi năm sau, rất nhiều người vẫn còn cầm bút.
Hùng là người ít nói
và cũng ít viết, thế mà anh chàng lại là người đầu tiên trong nhóm có tiền nhuận
bút từ một bài văn, tùy bút Hắn của Hùng được một tuần báo đăng, không nhớ báo
gì, tòa soạn đặt tại Chợ Lớn. Buổi trưa, tôi và Hùng chở nhau trên chiếc xe đạp
chạy tìm địa chỉ, thì đó là một nhà in nhỏ, máy chạy xập xình, phòng trước nhỏ
hẹp bừa bộn, ngồi đó là một người đàn ông đứng tuổi, hỏi các em kiếm ai? Hùng
đưa tờ báo ra, có lời nhắn tin ghé Tòa Soạn nhận nhuận bút. Người đàn ông gật đầu,
mở ngăn kéo ra đếm và đưa cho Hùng 70 đồng mà chẳng thèm hỏi tới cái thẻ học
sinh để biết đúng tên người nhận. Hai đứa mừng rỡ cám ơn và đi ra liền, ngu dại
và bất lịch sự tới nỗi chẳng biết hỏi tên người đưa tiền là ai.
Nhà tôi ở khu Nancy,
nằm bên này cầu chữ Y, bên kia là quận 8, Nhà Bè. Một buổi trưa, cả bọn đang ngồi
chuyện trò, thấy một chiếc xe đạp chạy vào xóm, ngơ ngác dòm số nhà, Hùng lên
tiếng bạn muốn kiếm nhà ai? Người kia trả lời kiếm nhà Linh Hồ, cả bọn ồ lên, bạn
là ai? – Kiều Linh Giang. A, biết rồi,
Kiều Linh Giang nhóm Hoa Tình Thương. Nhà Giang ở bên quận 8, nên bữa nay đi học
về, ngang qua khu này, tìm theo địa chỉ đến tìm nhau. Nhóm của Kiều Linh Giang
có khoảng ba bốn người, kết với nhau là do bạn cùng lớp. Giang đưa tôi đi gặp
những bạn trong nhóm, thân nhất là Trịnh Ngọc Minh, nhà ở ngõ nhỏ đường Phạm
Ngũ Lão. Minh rất đô con, hôm tới nhà chơi, Minh đang tập tạ. Sau này, cả mấy
chục năm gặp nhau ở California, tôi không nhận ra Minh bởi vì khuôn dáng bên
ngoài đã khác xưa, mà cái tên được giới thiệu cũng quá xa lạ, còn Minh lại dễ
dàng nhận ra tôi bởi cái tên không dễ bị trùng. Minh bây giờ là một nhà văn, dịch
giả nổi tiếng chẳng những về tác phẩm mà còn là chủ biên tạp chí Văn Học. Trịnh
Ngọc Minh bây giờ là Trịnh Y Thư. Kiều
Linh Giang thì ngay khi vừa đủ tuổi lính, nhập ngũ vào Biệt Động Quân, chúng
tôi đã không còn liên lạc được với nhau. Sau này mới biết Giang đã mất, tôi có
dịp gặp được con trai của Giang, là một kiến trúc sư thành đạt.
Cuộc họp mặt các thi
văn đoàn đầu tiên do Tuần báo Việt Sinh tổ chức vào năm 1966, kết hợp với việc
trao giải viết văn làm thơ. Giải nhất về văn trao cho Hà Thúc Khánh, lớp Đệ Ngũ
trường Nguyễn Bá Tòng, giải nhất về thơ trao cho Đoàn Văn Khánh, thi văn đoàn
Hàn Mặc Tử. Đoàn Văn Khánh đang ở Việt Nam, đã xuất bản 3 tập thơ, 1 tập truyện
và đang trong ban biên tập tạp chí Quán Văn. Hà Thúc Khánh thì đi du học Mỹ từ
trước 1975, sau đó ở lại và là một nhà văn người Mỹ gốc Việt nổi tiếng với bút
hiệu Khanh Ha, đoạt khá nhiều giải thưởng văn chương của Mỹ.
Sau buổi họp mặt đó,
các nhóm liên lạc với nhau rồi tùy theo chuyện hợp ý với nhau hay không để kết
thân, vòng quen biết mỗi ngày càng rộng ra, các nhóm có thành viên còn tiếp tục
cầm bút tới giờ cũng khá đông đảo, như nhóm Hoa Đông Phương có Lâm Quốc Trung;
nhóm Động Đất có Linh Phương, Vũ Trọng Quang; nhóm Hồn Quê Quy Nhơn có Võ Chân
Cửu, Hồ Ngạc Ngữ; nhóm Hàn Mặc Tử có Đoàn Văn Khánh, Lê Hồng Thái; nhóm Hoa
Tình Thương có Kiều Linh Giang, Trịnh Y Thư… còn nhiều nữa mà tôi không nhớ hết.
Nhóm Trai Việt có Quốc
Việt sau đó không cầm bút mà ôm đàn. Dù gặp nhau trò chuyện vài ba lần, nhưng
Việt nhớ mặt tôi và cứu tôi một lần nguy hiểm. Sau 1975, tôi trở về nhà sau nhiều
năm nhập ngũ xa nhà, để cố hòa mình vào đời sống mới, nên tôi ra sinh hoạt
thanh niên với phường. Thanh niên miền Nam quen sống tự do, nên các buổi sinh
hoạt bó buộc do phường tổ chức thường rất khô khan làm cho họ nản chán. Có lần,
sinh hoạt trong một hội trường lớn là một rạp chiếu phim, khi họp xong, bừa bộn
dưới đất là rác của kẹo bánh, giấy gói. Bí Thư Đoàn kêu gọi mọi người lượm rác
dưới chân mình mà không hiệu quả, mọi người ào ào đứng lên bỏ về mặc kệ ban tổ
chức quét dọn. Đến lần sinh hoạt sau, tôi bước lên tạo ra một trò chơi. Đề nghị
mọi người bước lên dàn hàng ngang trước sân khấu, rồi yêu cầu quay lưng lại sân
khấu, bước tới phía trước, cứ mỗi bước thì yêu cầu cúi xuống lượm rác dưới
chân, sau đó lại đứng lên đi tới bước nữa, chỉ trong chớp nhoáng, khi mọi người
đi đến cuối hội trường bỏ rác vào thùng để sẵn là hội trường đã sạch sẽ. Không
ngờ trò chơi đó tạo thành phản cảm với Bí Thư Đoàn, anh ta không thể điều động
thanh niên làm theo ý mình, và khi người khác làm được anh ta ganh ghét. Có lần,
anh ta tập họp thanh niên lại để dạy hát và mời một người bạn từ xa đến để dạy.
Người anh ta mời là Quốc Việt. Tôi và Việt gặp nhau mừng rỡ chào hỏi. Sau khi dạy
hát xong, trước khi ra về, Việt nói nhỏ vào tai tôi, đi ra cuối đường Nguyễn Biểu
đợi tao, có chuyện cần. Tôi gật đầu và nhanh chóng đi ra cuối đường, thuộc phạm
vi một phường khác. Chút xíu sau Việt ra tới, hai đứa ghé uống cà phê. Việt nói
nhanh: “Mày ngưng mọi sinh hoạt thanh niên ở phường này liền đi. Thằng Hải (bí
thư Đoàn) nó rất ghét mày, và nghi ngờ mày được CIA huấn luyện để lôi cuốn
thanh niên. Bây giờ là lúc luật pháp nằm trong tay tụi nó, một lời báo cáo và
mày tiêu đời.”
Thời sinh hoạt văn
nghệ học trò đó kéo dài khoảng vài năm, rồi chúng tôi lớn lên. Không còn là các
tuần báo nguyệt san thiếu niên nữa, các sách báo tìm đọc là tạp chí Văn, Bách
Khoa, Văn Học... mà Nguyễn Lệ Uyên trong bài viết về Trần Phong Giao đã ghi nhận:
“Có thể nói, thập
niên 60 là thời kỳ “nở rộ” của các tạp chí văn học miền Nam, với những tên tuổi
lớn như Sáng Tạo của nhóm Thanh Tâm Tuyền; Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong, Dương
Nghiễm Mậu; Hiện Đại của Nguyên Sa và trước đó là Chỉ Đạo của Nguyễn Mạnh Côn,
Mặc Đỗ… Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau các tạp chí này lần lượt tự đình bản.
Duy nhất chỉ còn ba tờ “sống lâu” là Bách Khoa, Văn và Văn Học. Sau đó là những
Vấn Đề, Nghệ Thuật, Tiếng Nói, Tin Văn, Thời Tập, Khởi Hành, Đối Diện, Ý Thức…
nhưng cũng chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn.
Bách Khoa có lối đi
riêng: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội; phần văn học chỉ chiếm một số trang
khiêm nhường. Văn Học cũng vậy. Sau khi Dương Kiền ra đi, Phan Kim Thịnh thay
thế thì Văn Học trở thành chuyên san về các nhà văn nhà thơ Việt Nam một thời
ghi dấu ấn đậm nét cho dòng văn học Việt Nam với những bài nghiên cứu, phê bình
và đăng tải lại các tác phẩm của họ.”
Khoảng cuối năm 1968,
chúng tôi đã lớn lên, các Thi văn đoàn và Bút nhóm đã lụi tàn. Thời gian chắt lọc
đi những ham vui của một thời mới lớn, đọng lại là những người vẫn đam mê chữ
nghĩa và tiếp tục viết xuống những điều mình yêu, những điều mình nghĩ, và cảm
thấy hạnh phúc khi được chia sẻ với nhiều người.
Nhưng điều có thật là
những tình bạn nảy sinh từ văn nghệ thiếu niên đó, vẫn luôn là chất kết dính để
tín cẩn và thương quý nhau đeo bám suốt đời.
Tôi hỏi Hùng, sau này
mày có còn viết được gì không? Hùng lắc đầu, với tay lấy gói thuốc lá, châm
hút, nhìn đăm đắm về xa rồi đột ngột hỏi: “Mày có liên lạc gì với Thái không?”
- Thái?
- Thái, với Thức với
Duyên …
- Ồ, Thức thì không
có tăm hơi gì, Thái đang làm về truyền thông và là một ký giả nổi tiếng ở Nam
Cali. Tao có gặp Thái vài lần mỗi khi hắn lên Washington DC công tác.
Năm 1977, khó khăn
trong đời sống gần như vào đỉnh điểm. Thiếu thốn và tuyệt vọng. Từ một người bạn
trong xóm, tôi đồng ý tham gia một tổ chức chống cộng, tổ chức yêu cầu anh em
tham gia ghi danh vào bưng chiến đấu. Tôi từ chối vì có mẹ già. Tổ chức đó có đầy
đủ nhóm bạn bút nhóm của tôi như Hùng, Nhiều, Hải, Đấu… và từ đó quen biết thêm
những người bạn khác ở xa hơn như Thái, Thức, Duyên. Qua thời gian rất ngắn, một
đêm công an đồng loạt tới nhà bắt đi trọn bộ. Đêm đó, tôi không ngủ nhà. Sáng
hôm sau, đứa cháu gọi bằng cậu chạy tới cây xăng là nơi tôi đang làm công nhân
rửa xe, báo tin bạn của cậu trong xóm như Hùng, Nhiều, Đấu, Hải, Ngân, Thành đã
bị bắt hết đêm qua. Bà nói lên báo với cậu, nếu có dính dấp gì thì đừng về nhà.
Lại một lần nữa, tôi
bỏ nhà chạy lên Bình Dương tạm trú với Phùng Xuân Mai. Đợi êm êm cả tháng mới về
lại nhà. Mấy tháng sau, nhóm bạn đó được thả về. Câu chuyện họ kể trong tù nghe
xót ruột: - Mới vô, công an kêu từng đứa lên tra hỏi. Rồi một tuần sau, thay vì
kêu từng đứa lên, công an kêu luôn cả đám 8 đứa lên và nói các anh khỏi cần
khai gì hết mất công, tôi sẽ khai giùm các anh. Anh này tên này, bí danh là
..., anh kia tên này, bí danh là ... tham gia tổ chức ngày này, quen biết với
người tên này, và ghi tên vào bưng vào ngày… Có gì không đúng thì các anh nói
đi…
Cả 8 đứa tròn mắt
nhìn nhau, không có điều gì để chối. Nghĩa là tổ chức đó đã bị công an gài người
nên biết hết, hay nói khác hơn, tổ chức đó do chính công an lập ra, và họ không
nhắm vào đám lòng tong cá chốt chúng tôi, mà nhắm vào những con mồi cao hơn…
Thái, Thức không phải là con mồi lớn, nhưng lại tiếp cận những con mồi lớn hơn
nên Thái, Thức bị giữ lại lâu hơn cho đến lúc họ tìm được cái họ muốn tìm.
Giai đoạn đó, tôi gặp
Bảy Thâu. Những ngày còn chiến tranh, sống giữa bom đạn và ranh giới mỏng manh
của sống chết, hy vọng thật nhiều vào hòa bình, khi quê hương không còn tiếng
súng đã đạt được, thì cuộc sống mới đã không an lạc như ao ước từ bấy lâu nay.
Những áp lực đè nặng vào cơm áo đã đành, mà còn tạo ra hàng loạt những khó
khăn, bất trắc. Con người như nhão ra, như sống trong lòng con sóng dữ.
Cô gái cùng xóm là một
người Nam bộ chính gốc. Cô sinh viên Văn khoa quê ở Kiên Giang này không có những
lời lãng mạn yêu thương, không có cái dịu dàng khéo léo lấy lòng, những tình cảm
được bày tỏ bằng hành động chăm sóc lẫn nhau. Những câu nói đơn giản, chất phác
lại là một bến bờ mà tôi đang thiếu thốn. Bên cạnh Bảy Thâu tôi tìm thấy cảm
giác an lành như đang hít thở được hương đồng lúa chín miền Tây. Trò chuyện với
em, tôi như thấy mình rời bỏ được những vòng vây ràng buộc, như đang nhẹ nhàng
trôi lênh đênh giữa trùng khơi Rạch Giá. “Em chia tay Đại Học, Chân chim lạ bước
đời, Chiến trường thôi bom súng, Ta về hồn tả tơi, Lao đao dòng Định Mệnh,
Buông tay ngước nhìn trời, Rã rời tim bối rối, Chắt chiu tình em thôi.”
Cái gọi là đám cưới tổ
chức đơn giản với những gì chúng tôi có được. Nhóm họ bên nhà gái là bánh và nước
ngọt, rước dâu về chỉ có một mâm cơm trên bàn thờ và chưa tới một chục người
khách là các bậc trưởng thượng. Chụp được 5 tấm ảnh màu với lời dặn dò kỹ lưỡng
nhiếp ảnh gia, chỉ 5 tấm thôi nhé, nhiều hơn không có tiền trả đâu, còn hình
đen trắng thì một người bạn có nhã ý chụp giùm. Tiếc thay máy ảnh bị hở ánh
sáng, nên chỉ còn lác đác mươi tấm còn nhìn được. Buổi chiều thì dành cho bạn
bè tôi, cũng khoảng mươi người, thức ăn không đầy mâm, một người bạn thân trong
xóm chạy ra đầu ngõ mua thêm một con vịt quay tiếp tế. Cái áo màu hồng tôi mặc
là do Trần Hoàng Hùng (Vân Hạc) cho mượn. Áo đó, Hùng may hai năm trước để dành
cưới vợ, ai ngờ, sau 75, cô dâu đã đi nước ngoài, Hùng treo cái áo trong tủ để
dành, và cho tôi mượn mặc trong ngày đám cưới.
Ngày hôn lễ, Nhiều
(Thần Kim Quy) tặng bài thơ như xem tử vi:
Trời xanh gọi khúc
Ngưu hành Hỏa (Kỷ Sửu - Tích Lịch Hỏa)
Đất vàng hòa nhịp Mã
hành Kim (Giáp Ngọ - Sa Trung Kim)
Hỏa Kim tương khắc
tâm vô ngại
Quý tử Thủy thành tự
duyên may. (Có thể là Nhâm Tuất - Đại Hải Thủy)
Trần Dzạ Lữ chép tay
bài thơ trên giấy hồng kẹp vào cái thiệp:
Một điều thú vị nhất
Là lúc hết chiến
tranh
Có người lấy vợ hiền
Hát tràn câu ân ái
Chàng lên ngôi chú rể
Mộng dàn như trời cao
Nàng môi hồng mắt biếc
Săm se tình cô dâu
Mặn nồng ôi ngày cưới
Mùa xuân của đôi hồn
Rất nhiều hoa hạnh
phúc
Nở rộ đời tân hôn
Ôi ngày bạn cưới vợ
Ta không có gì hơn
Làm một bài thơ nhỏ
Chúc mừng ngày tân hôn.
45 năm rồi đó, nhìn lại
mảnh đất ngày xưa, nghĩ về bạn hữu của thời niên thiếu, nuối tiếc và nhớ thương
đến xót lòng.
Hùng bất chợt quay lại
hỏi tôi - Lần này mày về, ghé qua xóm mấy lần rồi? Có ăn cơm tấm con của thằng
Thành bán không?
- Ồ mày nhắc mới nhớ,
thằng Thành sao rồi?
Hùng buông thõng, Chết
rồi.
Tôi không hỏi nữa, im
lặng leo lên xe gắn máy của Hùng, mày chở tao về khu xóm ngày xưa, ăn dĩa cơm tấm
đi…
Không biết là trong
quán đang mở nhạc, hay là văng vẳng đâu đó từ trong trái tim tôi bài “Giọt Buồn
Không Tên” của Lê Minh Bằng:
Bạn bè của ta mỗi đứa
tha phương một nơi
Khu phố ngày xưa nay
vắng nhau không còn vui
Và hàng cây me trút
lá khô trên vai tôi
Càng nhớ thương bạn
ơi…