Carlos
Fuentes Macias (1928-2012)
Tiểu
thuyết và tiểu luận gia. Tác phẩm nổi tiếng như
The
Death of Artemio Cruz (1962),
Aura
(1962),
Terra
Nostra (1975),
The
Old Gringo (1985),
Christopher
Unborn (1987).
New
York Times mô tả Fuentes “Một trong những nhà văn được ngưỡng mộ nhất trên
thế giới ngôn ngữ Tây Ban Nha.” Người mang ảnh hưởng đến cách mạng văn
chương bùng nổ ở Châu Mỹ Latin trong thập niên 1960. Tờ Guardian gọi ông là tiểu
thuyết gia hàng đầu ở Mễ.
Giải
thưởng Miguel de Cervantes cũng như giải thưởng cao nhất của Mexico, Huân
chương Danh dự Belisario Domínguez (1999).
Chac Mool
(Chacmool
là một dạng điêu khắc đặc biệt của giống người Mesoamerican thời tiền Colombo.
Là một nhân vật nằm chống khủy tay. mặt nhìn nghiêng. Bưng cái bát hoặc một cái
đĩa trên bụng. Những hình vẽ này có thể tượng trưng cho những chiến binh bị giết
mang theo lễ vật dâng lên các vị thần; cái bát trên ngực được sử dụng để đựng
các lễ vật hiến tế.
Trong truyện này là thần mưa của giống dân Maya.)
Cách
đây không bao lâu, Filbert chết đuối ở Acapulco. Chuyện xảy ra trong tuần lễ “Tất
cả các thánh”. Mặc dù đã bị sa thải khỏi chức vụ trong Bộ nội vụ, Filbert không
thể cưỡng lại sự cám dỗ của bộ máy quan quyền. Giống như mọi năm, ông đến khu nhà
nghỉ hưu ở Đức, để ăn món dưa cải ngọt từ bếp nấu vùng nhiệt đới, khiêu vũ đêm
thứ bảy sung sướng ở La Quebrada, rồi biến mình thường trực vào cõi vô danh bí ẩn
trong một buổi tối trên bãi biển Hormos. Rõ ràng, chúng ta biết lúc còn trẻ.
Ông bơi rất giỏi, nhưng bây giờ, đã bốn mươi, vẻ bên ngoài của người chết trông
rất tệ hại, phải cố gắng che giấu xác trong một khoảng đường xa, vào lúc nửa
đêm. Ông là khách hàng cũ, Frau Muller không thể tổ chức buổi đọc kinh cầu hồn
tại nhà hưu trí. Ngược lại, đêm hôm đó, bà tổ chức một buổi khiêu vũ trên sân
thượng nhỏ đông người, trong khi Filbert nằm chờ chiếc xe vận tải chuyên chở đến
nơi cuối cùng. Ông trải qua đêm đầu tiên
cuộc đời mới, bị bó cứng trong những lớp giỏ. Khi tôi đến trông coi việc vận
chuyển quan tài, Filbert đang nằm giấu dưới một đống trái dừa, người tài xế
nói, chúng ta nên sắp xếp cho ông ấy lên trên mui, phủ kín bằng vải dầu, để
hành khách không sợ hãi và để bảo đảm chúng tôi không chở theo lời nguyền trên
chuyến đi.
Rời
Acapulco, gió mát vẫn nhẹ nhàng. Hướng Tierra Colorada, sức nóng và ánh sáng trở
nên sống động. Sau bữa ăn sáng, trứng và xúc xích, mở chiếc cặp của Filbert, lấy
từ hôm trước, cùng một số đồ tùy thân của ông từ nhà hưu trí Muller. Hai trăm
peso. Một tờ báo cũ; biên nhận vé số; cùi vé đi một chiều, chỉ một chiều? Cuốn
sổ rẻ tiền bên trong các trang giấy kẻ ô vuông và bìa màu cẩm thạch.
Tôi
tò mò đọc thử, bất kể những nếp gấp, mùi hôi thối chất nôn mửa, và tình cảm tự
nhiên để tôn trọng đời sống riêng tư của người bạn đã qua đời. Đúng vậy, tôi bắt
đầu với ý nghĩ đó, cuốn sổ ghi lại công việc mỗi ngày chúng tôi làm trong văn
phòng. Có lẽ, tôi sẽ tìm ra lý do, tại sao bạn tôi sa sút, bỏ bê nhiệm vụ; tại
sao anh xem các giấy tờ chính thức mà không hiểu rõ, hoặc những con số, hoặc “quyền
bầu cử có hiệu lực.” Cuối cùng, lý do gì khiến anh bỏ đi, từ chối một tài khoản
hưu trí, không quan tâm đến lương bổng.
“Hôm
nay, tôi đi giải quyết tất cả mọi việc liên quan đến tiền hưu. Luật sư rất thân
thiện. Khi xong việc, tôi cảm thấy sung sướng đến mức quyết định chi tiêu năm
peso trong quán cà phê. Nơi quen thuộc chúng tôi thường đến thời còn trẻ. Lúc
sau này, tôi không đến nữa, vì nghiệm ra, có thể mua nhiều thứ xa xỉ hơn ở tuổi
hai mươi so với khả năng khi tôi bốn mươi.
Thời
trẻ đó, tất cả chúng tôi đều ở trong cùng một tình thế, có thể bác bỏ mọi ý kiến
tiêu cực về các đồng bạn một cách năng nổ; Trong thực tế, chúng tôi gây chiến với
người nhà, ngay cả những ai đề cập đến việc giáo dục kém tiêu chuẩn hoặc kém
thanh lịch. Tôi biết nhiều người (có lẽ những ai kém cỏi nhất) còn tiến xa hơn
nữa, ở đây trong trường học, họ giả tạo
tình cảm lâu dài với những bạn đồng hành, cùng băng qua những đại dương hoang dữ.
Không, không phải như vậy. Không có quy tắc gì. Nhiều người trong số kém cỏi đã
ở lại đó, nhiều người đi xa hơn cả chúng tôi dự đoán trong những buổi họp thân
thiện và sôi nổi. Những người khác, chúng tôi, những người có khả năng, dừng lại
giữa đường, moi ruột trong bài kiểm tra thêm về chương trình giảng dạy, bị cô lập
bởi một chiến hào vô hình từ những ai chiến thắng và nhưng kẻ vô tích sự.
Cuối
cùng, lúc này, tôi trở lại ngồi vào chỗ ngồi đã hiện đại hóa, giống như chướng
ngại vật cho cuộc xâm lược, một đài phun nước ngọt, giả vờ đọc những báo cáo
tóm tắt. Tôi thấy nhiều người trong bọn họ đã thay đổi, mất trí nhớ, được điều
chỉnh bằng ánh đèn neon, trở nên thành công. Với quán cà phê mà gần như tôi
không nhận ra, với chính thành phố, họ tự lừa gạt vào một nhịp điệu khác với
tôi. Không, họ không còn nhận ra tôi hoặc không muốn nữa. Nhiều nhất, chỉ một
hoặc hai, bàn tay mập mạp, nhanh nhẩu vỗ lên vai. Tạm biệt, ông già, đừng lo lắng
quá.
Giữa
họ và tôi cách nhau 18 lỗ sân gôn ở Country Club. Tôi tán tôi vào những bản tóm
tắt. Ở đó, quá khứ đã diễn hành tôi qua
nhiều tháng năm với những giấc mơ lớn, với những dự đoán vui sướng, và tất cả
những khiếm khuyết cản trở việc thực hiện. Tôi cảm thấy đau khổ khi không thể đặt
các ngón tay của mình vào quá khứ để ghép các mảnh đố lắp hình đã bị bỏ rơi;
nhưng cái rương chứa đồ chơi đã bị lãng quên. Về lâu dài, không biết nơi nào họ
yên nghỉ, tất cả những người lính bằng thiếc, những chiếc mũ sắt, gươm gỗ. Những
cải trang đáng quý trọng như vậy, chúng ta chẳng có gì hơn. Dù sao, đã có sự
quyết chí, kỷ luật, tận tâm với nhiệm vụ. Như vậy, đã đủ rồi hay chưa? Đôi khi,
tôi bị ấn tượng bởi hồi ký của nhà thơ Rilke. Sự đền đáp kỳ diệu cho cuộc phiêu
lưu của tuổi trẻ phải là cái chết; những thanh thiếu niên, chúng ta nên loại bỏ
những bí mật. Ngày nay, tôi sẽ không quay lại nhìn những thành phố muối (tiểu
thuyết của Abdul Munif). Năm peso? Còn hai pese cho tiền boa.
Pepe,
ngoài niềm đam mê về luật thương mại, anh còn thích lý thuyết. Thấy tôi rời khỏi
nhà thờ, đã cùng tôi đi đến lâu đài. Anh là người không có niềm tin, nhưng chưa
đủ: Đi nửa khoảng đường, anh ngụy tạo một lý thuyết: nếu tôi không phải là người
Mễ, tôi sẽ không tôn thờ chúa Giê Su. – À không, nghe này, gần như hiển nhiên,
khi người Tây Ban Nha đến đây, họ rao giảng cho bạn tôn thờ Chúa, chết vì máu
đông lại bởi vết đâm bên xương sườn, bị đóng đinh trên thánh giá. Một hy sinh lớn.
Một hiến dâng. Còn gì tự nhiên hơn là chấp nhận một cảm nghĩ rất huyền bí cho
toàn thể nghi lễ và toàn thể cuộc sống của mình? … Hãy tưởng tượng, nếu Mexico
bị chinh phục bởi người theo đạo Phật hoặc đạo Hồi, Khó mà có thể nghĩ ra người
địa phương chúng ta sẽ tôn kinh một cá nhân, chết trong một trường hợp khó hiểu.
Vì một vị Chúa, không đủ để họ hy sinh bản thân vì ngài, còn phải xé nát trái
tim ngài; Trời ạ! chiếu bí thần chiến tranh rồi!” Theo Thiên Chúa giáo, có cảm
tình ấm áp, thích thú của lòng hy sinh và phụng sự, biến thành sự nối dài tự
nhiên, mới lạ cho tôn giáo bản địa. Rồi đến, các mặt ngoài của bác ái, tình
thương, và đưa má bên kia, theo thứ tự, bị từ chối. Tất cả niềm tin trong xứ Mễ
là: bạn phải giết người đó để có thể tin để có thể tin những lời nói.
Pepe
biết mối liên hệ của tôi, từ khi còn trẻ, đối với một số loại nghệ thuật địa
phương nào đó ở Mễ. Đã sưu tập các tượng
nhỏ, tượng thần, đồ gốm. Cuối tuần tôi thường đi Tlaxcala, Teotihuacan, (những
nơi tập trung văn hóa và nghệ thuật Mễ.) Có lẽ vì vậy, anh ta gom góp tất cả lý
lẽ để tạo thành lý thuyết cho tôi về chủ đề này. Trong thời gian qua, tôi đã cố
tâm tìm kiếm một tượng sao lại tượng thần mưa Chac Mool.” Hôm
nay, Pepe cho biết một nơi trong La Lagunilla, có bán tượng đó bằng đá, dường
như rẻ tiền, Chủ nhật này, tôi sẽ đi mua. “Một số người đùa giỡn đã pha nước
lạnh trong văn phòng thành màu đỏ, hậu quả, việc làm bị gián đoạn. Tôi phải báo
cáo với giám đốc, ông ta cười quá chừng. Đám phá phách lợi dụng tình trạng này
để đưa ra những lời bình biếm chế giễu tôi suốt ngày, tất cả đều liên quan đến
nước.
Hôm
nay, Chủ nhật, lợi dụng ngày nghỉ tôi đi La Lagunilla. Tìm thấy tượng Chac Mool
trong một cửa hàng tạp nhạp do Pepe chỉ dẫn. Một món hàng quí, kích thước vừa
phải, tuy người bán khẳng định những điều độc đáo, tôi vẫn nghi ngờ. Điêu khắc
bằng đá bình thường, nhưng không ảnh hưởng đến tư thế thanh lịch và toàn bộ vững
chắc. Người bán điêu ngoa đã bôi nước sốt cà lên bụng tượng để thuyết phục du
khách về sự chân thực đẫm máu của tác phẩm.
Tiền
gửi tượng về nhà đắc hơn tiền mua. Bây giờ tượng đã đến, nằm dưới hầm chứa,
trong khi tôi sắp xếp lại căn phòng, tạo ra chỗ trống. Tượng cần điều kiện, có
nắng trực tiếp và nóng ấm. Sẽ hư hao trong bóng tối dưới hầm. Giống một khối
đơn giản mà khốn khổ, vẻ mặt nhăn nhó như trách móc tôi không cho đủ ánh sáng.
Chủ bán đặt một bóng đèn ngay trên tác phẩm điêu khắc, đã được cắt bỏ bớt các cạnh
sắc nhọn, Chac Mool của tôi nhìn rất thân thiện. Tôi nên noi gương theo.
Buổi
sáng, thức dậy, đường ống nước bị hư. Do bất cẩn, để nước chảy trong bếp, tràn
ra ngoài, chảy xuống sàn nhà, thấm xuống tầng hầm, nhưng tôi không để ý. Tượng
Chac Mool chống lại độ ẩm, nhưng vali bị ướt. Chuyện này xảy ra trong ngày thường,
khiến tôi đi làm muộn.
Cuối
cùng, họ đến sửa ống nước. Những vali uốn cong và tượng Chac Mool bị mốc bám
vào bệ chân.
Lúc
một giờ sáng, giật mình thức giấc vì nghe tiếng rên khủng khiếp. Tôi nghĩ, có
thể mấy tên trộm. Hoàn toàn tưởng tượng.
Những
cơn than vãn trong đêm vẫn tiếp tục. Không biết từ đâu, tại sao, tôi rất căng
thẳng. Chỉ làm hoàn cảnh tồi tệ thêm, ống nước hư trở lại, mưa nhỏ giọt trong
phòng, ngập dưới tầng hầm.
Tôi
hết đường xoay sở, thợ sửa ống nước không đến kịp. Đối với Bộ địa hạt liên
bang, tốt hơn không nên nói gì. Đây là lần đầu tiên mưa không chảy theo ống
máng xối mà chảy xuống hầm. Những tiếng rên rỉ dừng lại. Nếu không có chuyện
này, sẽ có chuyện khác.
Thợ
đến sấy khô tầng hầm, tượng đá bám đầy rêu mốc, nhìn thấy kỳ cục, toàn bộ tác
phẩm điêu khắc trông giống như đang nổi sảy xanh, ngoại trừ đôi mắt vẫn còn thấy
đá. Tôi để dành ngày Chủ Nhật để cạo rêu mốc. Pepe khuyên tôi nên chuyển qua
chung cư khác, phòng trên cao nhất, để tránh tai nạn bị ngập nước. Nhưng tôi
không thể rời ngôi nhà cũ kỹ này, tuy quá lớn cho chỉ một mình tôi. Nhà trông
buồn rầu bởi kiến trúc kiểu Porfirian, nhưng là di sản kế thừa duy nhất của cha
mẹ. Tôi nghĩ, mình có thể hài lòng với một đài phun nước ngọt, máy hát tự động
dưới hầm và ngôi nhà trệt một tầng khang trang.
Tôi
dùng dao trộn sơn vẽ cạo rêu mốc trên tượng. Dường như rêu ăn sâu vào đá, khiến
công việc kéo dài hơn một tiếng đồng hồ, đến sáu giờ chiều mới xong. Trong tình
cảnh nửa sáng nửa tối, khó nhìn thấy rõ. Khi hoàn thành công việc, tôi rà tay
theo hình thù của đá. Mỗi khi cạo một khối rêu, dường như tượng mềm hơn. Tôi
không muốn tin như vậy: rêu gần giống miếng cao dán. Người bán hàng ở La
Lagunilla đã đưa tôi đi dạo. Tác phẩm điêu khắc thời tiền Colombia của ông bằng
thạch cao nguyên chất và độ ẩm ướt sẽ làm hỏng tượng. Tôi phủ lên tượng Chac
Mool một số giẻ lau, ngày mai, sẽ chuyển lên lầu, trước khi bị hư hao hoàn
toàn.
Không
thể tưởng tượng. Những mảnh giẻ vụn đã rơi xuống trên nền nhà. Một lần nữa, tôi
chạm vào Chac Mool. Nó cứng lại, nhưng không trở thành đá. Thậm chí, tôi không
muốn viết: Ở phần trên bán thân, có một thứ gì giống da thịt, bóp như cao su, cảm
thấy có cái gì đang chạy quanh hình dáng nằm nghiêng … Đêm đó, tôi quay trở lại. Không nghi ngờ gì
nữa, Chac Mool mọc lông trên cánh tay.
Chuyện
chưa bao giờ xảy ra trước đây. Trong văn phòng đang thực sự lộn xộn nhiều vấn đề:
Tôi đưa ra những đơn đặt hàng chưa được ủy quyền, giám đốc cảnh báo, yêu cầu
tôi lưu ý. Rồi tôi gần như thả lỏng mình, ăn nói gay cấn với bạn đồng nghiệp.
Phải đi khám bác sĩ, xem thử có phải do trí tưởng tượng, hay mê sảng, hay là thứ
gì, để tôi thoát khỏi bùa mê của Chac Mool.”
Cho
đến chỗ này, chữ viết tay của Filbert là chữ viết cũ, rộng và có hình bầu dục,
tôi đã nhìn thấy nhiều lần trên sổ ghi nhớ và các đơn từ. Bắt đầu ngày 25 tháng
Tám, dường như do người khác viết. Có lúc giống chữ đứa trẻ siêng năng viết gò
từng chữ. Lúc khác, sự lo lắng căng thẳng đến mức chữ lí nhí đọc không rõ. Mất
đi một đoạn ba ngày, rồi câu chuyện tiếp tục:
“Mọi
thứ rất tự nhiên, những gì là sự thật để có lòng tin … nhưng chuyện xảy ra có thật,
thật hơn những gì tôi tin. Máy làm nước lạnh có thật, rồi thật hơn vì chúng ta
chú ý đến sự tồn tại và hiện diện của máy, rồi thật hơn nữa, nếu có kẻ đùa dai
nhuộm nước màu đỏ … Sự thật kéo ra từ một
điếu thuốc phù du. Hình ảnh thực sự thấy méo mó trong gương soi hài hước. Có thật,
phải không? Tất cả người chết, hiện tại và bị quên lãng …? Nếu một người ngủ mơ
thấy mình đi quanh thiên đàng và ai đó tặng cho anh ta một bông hoa để làm bằng
chứng anh đã ở trên đó, rồi khi anh thức dậy, anh thấy bông hoa đó trên tay …
Như vậy là sao? Thực tế: Một ngày nào đó, nó vỡ ra ngàn mảnh vụn. Đầu nằm nơi
này. Đuôi ở đàng kia. Chúng ta không biết gì nhiều hơn một mảnh rời bị tách lìa
ra khỏi khối sự thật vĩ đại. Một đại dương tự do và hư cấu chỉ có thật khi nó
bao vây, giam cầm con ốc sên. Cho đến ba ngày trước đây, mức độ tin vào sự thật
của tôi bị xóa bỏ: Ví như hành động phản xạ, thói quen, cặp da. Rồi, bỗng dưng,
một ngày nào đó, mặt đất rung chuyển, nhắc chúng ta nhớ lại sức mạnh của nó, hoặc
cái chết tìm đến, khiển trách tính hay quên của tôi trong suốt một đời. Một thực
tế khác tự hiện diện mà chúng ta đã biết, đó là vô gia cư, điều đó cần đánh thức
chúng ta để trở nên sống động và hiện diện. Một lần nữa, tôi nghĩ, đó là trí tưởng
tượng: Chac Mool, mượt mà và thanh lịch, đã đổi thành màu vàng trong một đêm, gần
giống vàng khối. Dường như Chac Mool muốn cho tôi biết, ông ta là một vị thần. Lúc
này, đang thoải mái, đầu gối bớt cứng ngắt hơn trước, nụ cười nhân từ hơn. Sau
cùng, ngày hôm qua, một người thức giấc, thật tình sợ hãi vì có hai nhịp thở
trong đêm. Chìm bóng tối, nghe ra nhiều nhịp đập hơn nhịp tim của mình. Đúng vậy,
nhiều bước chân giẫm lên cầu thang. Ác mộng! Ngủ tiếp thôi … Không biết mình đã
giả vờ ngủ bao lâu. Khi mở mắt ra, vẫn thấy trời chưa sáng. Không khí trong
phòng đầy kinh dị, mùi nhang và máu. Bằng ánh mắt đen thui, nhìn lướt qua khắp
phòng ngủ, dừng lại trên hai lỗ nhỏ nhấp nháy, sáng lập lòe, màu vàng, dữ tợn.
Nghẹt
thở, tôi mở đèn.
Thấy
Chac Mool, đứng thẳng, mỉm cười, vàng màu đất sét, với cái bụng màu thịt tươi.
Đôi mắt tôi sửng sốt, gần như lé, nhập lại gần lỗ mũi. Hàm răng dưới cắn môi
trên, bất động, chỉ ánh sáng từ chiếc mũ nồi vuông trên cái đầu to tướng gợi
lên sự sống. Chac Mool tiến đến gần giường; ngoài trời bắt đầu mưa.”
Tôi
nhớ lại vào cuối tháng Tám, Filbert đã bị sa thải khỏi Bộ nội vụ, bị giám đốc
công khai chỉ trích, với lời đồn về sự điên rồ, thậm chí là trộm cắp của ông.
Tôi không tin điều này. Đúng, tôi có thấy một số bản ghi nhớ kỳ lạ, bạn tôi hỏi
quan chức cao cấp có ngửi được mùi nước, đề nghị làm việc cho Bộ Tài nguyên Thủy
lực để làm mưa trên sa mạc. Tôi không thể nào tự giải thích; nghĩ rằng những
cơn mưa ngoại lệ quá độ từ mùa hè đã làm ảnh hưởng sinh lực đến anh ta. Hoặc một
suy thoái đạo đức nào đó phải được tạo ra trong căn nhà cổ kính, rộng lớn kia,
với một nửa số phòng khóa kin, phủ đầy bụi, không có người giúp việc, không có
đời sống gia đình. Những ghi chép tiếp theo bắt đầu từ cuối tháng Chín:
“Chac
Mool có thể trở nên tử tế nếu ông muốn …, thích thú uống nước kêu ừng ực … Ông
biết nhiều chuyện lạ lùng về gió mùa, mưa xích đạo, cách sa mạc trừng phạt, mọi
cây cối đều bắt nguồn từ mối liên hệ phụ tử huyền thoại: Cây liễu, con trai thất
lạc từ lâu của ông; hoa sen, đám con hư hỏng; mẹ vợ là cây xương rồng. Tôi
không chịu nổi mùi hôi vô nhân đạo, phát ra từ thịt da nhưng không phải thịt thật,
từ đôi giày rực lửa rách rưới của thời cổ đại. Bằng nụ cười the thé, Chac Mool
tiết lộ nhà khảo cổ Le Plongeon đã phát hiện ra ông như thế nào, về mặt thực tế
đã đặt ông vào chung với những vị thần mang biểu tượng khác. Còn hồn ông, một
cách tự nhiên, sống trong vỏ bọc và bão tố. Đá dùng tạc tượng là một chuyện
khác, đục đá ra khỏi nơi nó ẩn náu là việc tàn nhẫn do người làm ra. Tôi nghĩ,
Chac Mool không bao giờ tha thứ. Ông biết về sự bất tử của những thành tích lớn.
Tôi phải đưa xà phòng cho ông có thể rửa bụng,
nơi mà người bán đã phết nước cà chua vào vì lầm tưởng ông là thần Aztec. Hình
như ông không thích khi tôi hỏi về mối quan hệ với thần mưa Tlaboc. Khi tức giận,
ông nhe răng, gớm guốc, mọc nhọn dài ra và sáng quắc. Những ngày đầu, ông ta xuống
ngủ dưới hầm. Từ hôm qua, ngủ trên giường tôi.
Hôm
qua, mùa khô đã bắt đầu. Bây giờ, tôi ngủ trong hành lang, lại nghe tiếng rên rỉ
khàn khàn như lúc trước, tiếp theo là những tiếng động khủng khiếp. Đi lên mở
tung cửa phòng ngủ: Ông Chac Mool đang đập vỡ cây đèn, đồ đạc; dang rộng hai
tay, lao mình về phía cửa, tôi gần như không đủ thời giờ đóng lại, vội núp vào
phòng tắm … Một lát sau, ông đi xuống thở hổn hển, hỏi nước uống; suốt ngày ông
để nước chảy, toàn nhà không còn chỗ nào khô. Tôi phải tự quấn mình để ngủ. Rồi
yêu cầu ông đừng làm ướt hành lang.
Hôm
nay, ông làm cả hành lang ngập nước, Bực tức, tôi nói sẽ mang ông trả lại La
Lagunilla. Tiếng cười ông khủng khiếp, khác biệt một cách dễ sợ so với bất kỳ
tiếng cười nào của con người hoặc một động vật, rồi vang lên tràng pháo tay
dành riêng cho tôi với hai cánh tay đeo đầy những chiếc vòng nặng trĩu. Đành phải thừa nhận: Tôi là tù nhân của ông. Ban
đầu, tôi có ý khác: sẽ chế ngự Chac Mool, như quản trị món đồ chơi; có lẽ, đó
là cách kéo dài sự an toàn trẻ con của tôi; dù sao tuổi thơ đó như một trái cây
đã bị thời gian ăn mất, mà tôi không nhận ra – Ai nói điều này … Ông dùng áo quần
của tôi, mặc áo ngủ khi bắt đầu bị rêu mốc. Chac Mool đã quen luôn luôn nghe lệnh;
còn tôi, chưa bao giờ cần chỉ huy, chỉ có thể phục tùng. Miễn là trời đừng mưa
- sức mạnh ma thuật của ông? – ông sống giận dữ và cáu kỉnh.
Hôm
nay, tôi phát hiện Chac Mool ra khỏi nhà vào ban đêm. Luôn luôn vào lúc chạng vạng,
ông hát, giọng lạc điệu, bài ca xưa cổ, xưa hơn chính bài hát. Sau đó, ngưng hẳn.
Tôi gõ cửa phòng nhiều lần, ông không trả lời, tôi mới dám bước vào. Căn phòng
ngủ mà tôi chưa thấy lại kể từ ngày bức tượng muốn tấn công tôi, trông thảm hại,
bốc mùi nhang và máu, từ nơi này tỏa ra khắp nhà. Nhưng, sau cánh cửa, thấy đống
xương chó, xương chuột, và xương mèo. Đây là những gì Chac Mool bắt được trong
đêm để nuôi bản thân. Điều này giải thích tại sao nghe nhiều chó sủa lúc bình
minh.
Tháng
Hai, khô ráo, Chac Mool theo dõi rừng bước tôi đi; bắt tôi gọi điện thoại cho
nhà hàng để mỗi ngày họ mang cơm và thịt
gà đến tận nhà. Nhưng tiền trợ cấp thôi việc từ văn phòng sắp cạn. Điều này
không thể tránh khỏi. Ngày đầu tháng họ cắt nước và điện vì không trả tiền.
Nhưng ông đã khám phá một đài phun nước công cộng cách đây hai dãy nhà; mỗi
ngày tôi phải đi lấy nước 10 đến 12 lần, ông lên mái nhà theo dõi. Nói rằng, nếu
tôi bỏ trốn, ông sẽ tìm bắt lại; ông cũng là thần sấm sét. Nhưng không biết tôi
rình rập hành động của ông về đêm … Không có điện, tôi đi ngủ lúc tám giờ, Chac
Mool đã quen như vậy, nhưng cách đây không bao lâu, trong bóng tối, tình cờ gặp
ông trên cầu thang, cảm thấy cánh tay ông lạnh giá, mới thay một lớp da, tôi muốn
hét lên.
Nếu
trời không mưa sớm hơn, Chac Mool sẽ biến trở lại thành đá. Tôi nhận thấy, gần
đây, ông di động khó khăn. Đôi khi, ông
nằm liệt hàng giờ, một lần nữa, dường như có thể trở về bức tượng. Nhưng những
nghỉ ngơi này, lại cho ông sức mạnh để hành hạ tôi, cào xé lên người như thể muốn
rút ra chất lỏng từ da thịt tôi. Những thời gian thân thiện nghe ông kể nhiều
chuyện xưa cũ đã không còn nữa. Tôi nhận thấy một sự phẫn uất đang vần vù. Có
những dấu hiệu khác khiến tôi đoán: ông ta sắp uống cạn hầm rượu, nâng niu những
áo ngủ bằng lụa; muốn mướn người giúp việc, đòi hỏi tôi bày ông sử dụng xà
phòng và kem dưỡng da. Chac Mool đang rơi vào những cám dỗ của con người; thậm
chí, thấy một thứ gì già đi trên khuôn mặt trước đây tưởng chừng như vĩnh cửu. Có
thể tôi được cứu rỗi: nếu Chac Mool hóa thành người, có thể tất cả thế kỷ đời
ông sẽ dồn lại trong một khoảng thời gian ngắn và ông sẽ qua đời như mọi người.
Nhưng, đây cũng có thể là cái chết của tôi: Chac Mool không muốn tôi thấy ngày
ông gục ngã, có thể sẽ giết tôi trước.
Hôm
nay, tôi sẽ tận dụng chuyến đi đêm của Chac Mool để chạy trốn. Tôi sẽ đến
Acapulco; sẽ tìm công việc làm và chờ Chac Mool chết: Vâng, đó là giải pháp;
ông ấy xám xịt, sưng phồng. Tôi cần phơi nắng, bơi lội, phục hồi sức khỏe. Trong
túi còn 400 peso. Sẽ đến khu hưu trí của Muller, nơi vừa rẻ vừa thoải mái. Bỏ lại
mọi thứ cho ông Mool, xem thử ông còn sống được bao lâu, nếu không có các thùng
nước tôi xách về.”
Nhật
ký của Filbert chấm dứt ở đây. Không muốn suy nghĩ nhiều về chuyện của anh ta.
Tôi ngủ một giấc dài cho đến Cuervaca. Từ đó đến Mễ, tôi cố gắng sắp xếp bài viết
cho mạch lạc, liên hệ với công việc quá độ, với vài động cơ tâm lý nào đó. Lúc
chín giờ sáng, chúng tôi đến nơi đã định, tôi vẫn không thể tưởng tượng sự điên
rồ của bạn mình. Mướn xe tải chở quan tài về thẳng nhà Filbert rồi mới tổ chức
việc chôn cất. Trước khi tôi có thể tra chìa khóa vào ổ khóa, cửa đã mở ra. Một
người Ấn Độ vàng xuất hiện, mặc áo choàng trong nhà với khăn quàng cổ. Vẻ bề
ngoài nhìn thấy không thể không ghê sợ; ông phát ra mùi kem dưỡng da rẻ tiền, đắp
phấn lên mặt cố che giấu những nếp nhăn; đôi môi bôi son một cách cẩu thả; mái
tóc tạo ra cảm tưởng mới nhuộm.
“Xin
lỗi … ông có biết Filbert đã …”
“Không
thành vấn đề; tôi biết hết rồi. Nói những người kia mang xác chết xuống hầm.”