Phạm
Thành Châu có hai sở thích đặc biệt đó là viết truyện và chăm hoa. Trước nhà của
ông có một khoảng sân rộng, ông xây một ao thả cá , có cây cầu nhỏ nhỏ, sơn mầu
đỏ bắc qua, chung quanh trông rất nhiều các loại hoa, hầu như hoa bốn mùa, mỗi
mùa có một loại ra hoa tạo hương sắc ngát thơm và thích mắt. Mùa Xuân, ông rủ mời
hết người này tới người khác tới chơi ngắm hoa, ai tới , ông lăng xăng giới thiệu
các loại hoa, các góc nhìn đẹp, rồi chạy vào nhà lấy máy chụp hình ra chỉ góc đứng
ăn ảnh, bấm ảnh, xong lại vào nhà mở máy in ra tấm hình, bỏ vào khuôn hình mà một
mua sẵn từng sấp đem ra tặng. Khách nào cũng vui mà không hiểu rõ ông yêu quý
mình chụp hình lưu niệm trao tặng, hay
ông trân quý những loại hoa mình trồng, muốn ghi dấu lại với khách để nhớ về hoa.
Trong khu vườn đó, tôi đến nhiều lần, và đặc biệt trân quý những cây hoa Trà. Những cây, vì ông có khoảng bốn cây, tất cả đều cao to, cây lớn nhất có lẽ trên sáu thước tây, vượt khỏi mái nhà, còn ngoài ra các cây còn lại cũng tròm trèm ba bốn thước. Bốn cây bốn mầu, Đỏ, Trắng, Cam và Hồng. Cây mầu Hồng cao lớn nhất, khi vào mùa, hoa nở từng chùm, mỗi bông hoa to bằng nửa bàn tay, mà một chùm hàng chục bông, nở trĩu cây và hồng cả một khoảng trời. Ông gọi đó là hoa Trà, hình dáng bông hoa giống như hoa Hồng (Rose) nhiều cánh xếp lớp quanh nhau duyên dáng, nhưng không thơm như hoa Hồng. Có lẽ vì cuống mỏng manh, mà hoa nở từng chùm nặng trĩu, cho nên khi mùa hoa nở, các cành hoa Trà rủ xuống, lả lơi trước gió. Hoa Trà còn gọi là Hải Đường, mà Nguyễn Du đã tả là : Hải đường lả ngọn đông lân, Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà. (“Truyện Kiều” 175 – 176). Theo tác giả Huỳnh CHương Hưng sưu tầm ghi lại là : “Hoa hải đường 海棠 là một trong những loài hoa thưởng ngoạn truyền thống có lịch sử lâu đời ở Trung Quốc. Từ thời Tiên Tần, Lưỡng Hán cho tới thời Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, trải các đời các triều, hoa hải đường có địa vị quan trọng. Hoa vốn được xưng tụng là “quốc diễm” 国艳, lại có mĩ xưng là “bách hoa chi tôn” 百花之尊, “hoa trung thần tiên” 花中神仙, “hoa chi quý phi” 花之贵妃, mọi người ví hoa với mĩ nhân giai lệ, ngày xuân tươi đẹp, vạn sự cát tường. Do đó, văn nhân thi sĩ, thư pháp gia, hoạ gia thường lấy hoa hải đường làm đề tài sáng tác.”
Tôi không biết chắc những sưu tầm
kia chính xác thế nào, nhưng do ở gần nhà nhau, và chơi với nhau thân thiện, mỗi
lần ghé qua thì thường xuyên bao giờ cũng gặp Phạm Thành Châu tong hai tư thế,
một là áo quần lam lũ đang lúi húi nhổ cỏ, bón phân, chăm lo cây cỏ, hai là ngồi
đăm đăm nhìn xa xôi trên cái ghế bành dưới côi hoa Trà. Trầm tư và suy nghĩ nhiều điều.
Phạm
Thành Châu sinh tháng 7 năm 1942 tại Hội An và sống suốt thời thanh thiếu niên ở
đó. Sau đó theo học khóa 14 Đốc Sự tại trường Quốc Gia Hành Chánh, tốt nghiệp
năm 1971, được bổ nhiệm làm Quận Phó Hành Chánh Quận Nam Hòa thuộc tỉnh Thừa
Thiên, liên tục chuyển qua Phó Quận Quảng Điền, Phó Quận Phú Vang đều thuộc Thừa
Thiên Huế. Sau 1975, Ông bị triệu tập đi
cải tạo 6 năm. Nghĩa là ngoài thời thanh niên, Phạm Thành Châu có 10 năm để sống
và thu thập vui buồn, hạnh phúc, xót xa, đắng cay, mật ngọt để khi định cư ở Mỹ, bình tâm và ghi nhận lại
được về cuộc đời. Truyện của Phạm Thành
Châu là những khắc họa mênh mang về Hội An ,về Thừa Thiên, về thời hoa bướm học
trò, thời cải tạo và suy nghiệm tuổi già.
Một
bạn học cũ của ông thời ở Hội An là Nguyễn Ngọc Cảnh P.D. viết về PTC như sau: “Vào năm ấy tôi còn nhớ rất rõ Phạm Thành
Châu là một học trò tinh nghịch nhứt lớp nhưng lại là làm Trưởng ban trật tự của
lớp! Tôi không nhớ thủ tục bầu bán như thế nào nhưng tôi được lãnh cái danh dự
làm Trưởng lớp còn PTC bị lãnh cái nợ làm Trưởng ban trật tự. Tình thật mà nói
nếu Trưởng lớp có quyền chọn các trưởng ban để làm việc hiệu đoàn với mình chắc
có lẽ tôi đã “bổ nhiệm” ông bạn quí hóa của tôi làm “Trưởng ban mất trật tự” Hoặc là : Đó là nói chuyện trong lớp khi có
thầy. Còn lúc lớp buổi sáng trước 8 giờ trong lúc ngồi chờ thầy vào lớp, Châu
thường cầm đầu diễu cô Thúy Quỳnh “xết xi” trẻ đẹp dạy ở Trường Nam Tiểu Học.
Sáng nào cô cũng ỏng ẹo đi bộ ngang trường chúng tôi. Mỗi khi thấy cô, Châu và
đồng bọn bắt chước mấy đứa nhỏ bán bánh mì buổi tối thường rao “Bánh mì nóng
dòn đây” và cùng la lớn ” Thúy Quỳnh nóng dòn đây”!
Thời tinh nghịch vô tình vô
tội của tuổi học trò đứng hàng ba sau ma quỉ ấy nay đã xa tịt mù trong quá khứ
dài hơn nữa thế kỷ.” (hết trích).
Có
lẽ những mô tả từ thời đi học đó về PTC mà ông bạn cũ ghi lại chính xác và bền
lâu tới độ bây giờ, bên cạnh tôi, ông bạn già PTC vẫn giữ nguyên cái chất nghịch
ngầm, đùa bỡn dễ thương đó. Gọi PTC là bạn già thì có hơi quá lố, anh chỉ lớn
hơn tôi 8 tuổi chứ mấy. Nhưng bản tính của anh là ý nhị nhẹ nhàng và vui vẻ xuề
xòa, nên anh Trẻ hơn tuổi thật rất nhiều, còn tôi đăm chiêu, hay nghĩ ngợi vẩn
vơ nên….Già hơn tuồi cũng khá nhiều. Có lẽ vì thế chúng tôi có thể trò chuyện
thân tình với nhau như kiểu...hai người bạn. Thôi thì cứ tạm coi như thế để dễ
nói chuyện đi.
Phạm
Thành Châu định cư ở Mỹ năm 1991, và bắt đầu viết lách, tập truyện đầu tay của
anh in năm 2008 là tập Nhớ Huế. Tập truyện này đầu tiên in 1.000 bản, sau đó
tái bản liên tục hai ba lần nữa vì độc giả gửi thư về đòi mua rất nhiều. Tập
truyện được phát hành trực tiếp, người muốn đọc, gửi thư và tiền về tác giả,
tác giả sẽ gửi sách đến người nhận, không qua một nhà sách hay hệ thống phát
hành nào. Tôi quen với PTC vào giai đoạn này. Khi đó, PTC thường xuất hiện vào
cuối tuần ở Phở Xe Lửa cùng với Đinh Cường. Đinh Cường được gọi là Đại Họa Gia, và người ta gọi PTC là Tiểu Thuyết Gia, PTC tóm lược là
Ông Đại và Ông Tiểu. PTC dáng người gày, cao, miệng luôn có nụ cười xã giao và
ít nói. Đinh Cường cũng vậy, nếu không ai hỏi thì ...không ai nói. Có lúc tôi để
ý, suốt nửa tiếng đồng hồ ngồi cạnh nhau, chúng tôi ( gôm hai ông đó và mấy người
nữa cùng bàn) hoàn toàn im lặng, mỗi người nhìn vu vơ một phía, đôi lúc nhìn
nhau nhưng chăng ai nói gì. Dường như ai cũng là người đi trên mây.
Sau này quen biết thân tình hơn, tôi hiểu rằng đúng là
PTC ít nói, nhưng không phải là người nói ít, ông cân nhắc và ngại nói chuyện
giữa đám đông vì sâu trong con người ông, có những suy nghĩ rất sâu xa và cũng
rất ngược đời, nên nói ra, dễ bị hiểu lầm. PTC dành thời gian cho ngòi bút rất
nhiều, và viết khá mạnh. Từ khi tập truyện đầu tay Nhớ Huế ( Gồm 16 truyện) ra
đời, Ông lần lượt tự xuất bản 7 tập truyện: Bức Họa Khỏa Thân (gồm 19 truyện).
Lý Lẽ của Trái Tim (gồm 16 truyện) Lời Tỏ Tình (Gồm 14 truyện) Chuyện Tiếu Lâm
(sưu tầm và sáng tác gần 200 truyện) The Spy Couple (truyện của Phạm Thành Châu, bản dịch qua Anh
ngữ của Nguyễn Ngọc Cảnh Ph.D.) và Vô Tình ( gồm 19 truyện). Gần hai trăm truyện
ngắn là gần hai trăm đoạn ký ức viết lại từ nhiều đoạn của cuộc đời, như chính
PTC tự thuật: “Đa số chuyện kể là chuyện
có thật, tôi chỉ tiểu thuyết hóa (Roman verite1, văn chướng ký sự) để người đọc
dễ cảm nhận, nhiều người tìm thấy chính mình trong hoàn cảnh, thân phận của
nhân vật, họ đã có được những giây phút hóa thân, chìm đắm trong đau khổ, hạnh
phúc, vui buồn cùng nhân vật...Đó chính là hạnh phúc của người viết.”
Nhưng khi từng trải qua đắng cay, khổ hận, hoặc có khi
lâng lâng hạnh phúc thì những điều kể lại thành ra kinh nghiệm sống đời và chứng
nhân cho một thời , một thời quá vãng.
Quen với Ông rồi, tôi mới quen với truyện của PTC. Đinh
Cường trong một bài viết, nói về PTC là : “
Không bày tỏ là một nhà văn, không thiết tha lời giới thiệu, không ra mắt sách,
chỉ là những người thân quen viết cho những dòng trng thực anh in ở bìa sau,
Tôi thấy lối viết của anh hay quá, anh khéo léo dẫn câu chuyện cho người đọc
không tài nào ngưng được. , ...thật vậy, tôi thích “Buổi Chiều ở Thị Trấn Sông
Pha”, một thị trấn có mối tình đẹp, thị trấn đìu hiu Sông Pha nhắc lại trong
tôi một thời Đơn Dương, Đà Lạt”
Tôi tìm đọc Buổi Chiều Ở Thị Trấn Sông Pha, và đúng như
Đinh Cường nói , một mối tình đẹp của một thị trấn đìu hiu, và một kỷ niệm gặp
lại mà bất cứ ai cũng đã từng xúc động nếu có một cơ duyên tái ngộ người
tình xưa như vậy. Và từ trong tập truyện
đó, tôi gặp rất nhiều các truyện ngắn khác của PTC, mỗi truyện là một hoàn cảnh,
mỗi chuyện là một số phận và mỗi truyện là sự kiện mà vào thời chúng tôi, ai
cũng từng đụng tới.Truyện của Phạm Thành Chậu chạm tới trái tim của mọi người,
cho nên nhiều chuyện làm chúng ta ứa nước mắt xúc động, nhiều chuyện làm chúng
ta lâng lâng cảm xúc hoặc bật cười sảng khoái. Với riêng cá nhân tôi, có một
câu chuyện làm tôi bàng hoàng, rung động tới choáng váng khi lần đầu được đọc,
đó là truyện Bí Ẩn Của Một Câu Kinh. Với
công dụng của hệ thống internet toàn cầu, tôi hoàn toàn có khả năng copy toàn bộ
truyện ngắn đó vào đây để các bạn cùng đọc, nhưng tôi không làm vậy, vì làm vậy
khác nào xúi các bạn đọc đây rồi, khỏi đi tìm đọc nữa. Cho nên tôi xin tóm lược
câu chuyện thôi:
Tôi (nhân vật chính trong chuyện) trong dịp nghỉ hè, cùng
nhóm bạn đi chơii qua tiểu bang khác gặp bạn bè cũ, tới một nhà người bạn ở
Canada, người bạn đó giới thiệu bà chị từ Việt Nam mới qua định cư bằng giấy tờ
bảo lãnh, và có câu chuyện khá lạ, muốn kể cho đám bạn cùng nghe. Bà chị đó kể về một chuyến vượt biên ở Cà Mâu
trước đó nhiều năm. Chuyến vượt biên bị
vỡ lở. Mọi người trên thuyền tuôn chạy vào bờ vào giữa đêm tối giữa một vùng đất
lày lội sình lầy chẳng biết nơi đâu. Cuối cùng ba tìm dược một ngôi nhà có ánh đèn để chạy vào. Ở đó bà gặp một người
đàn ông sống một mình, khuôn mặt như có thepo1 và đôi mắt như có lửa, nhưng nói
năng từ tốn hướng dẫn bà chỗ nghỉ qua đêm. Kêu bà đi tắm , ăn chen cơm ngươi=65
rồi đi ngủ, Sáng hôm sau, đưa bà ra ghe chở về xã , đón xe Lam cho bà về thị trấn
, dặn tài xế xe Lam mua vé để bà về
thành phố an toàn.
Vài năm sau, trước khi đi xuất cảnh chính thức, bất ngờ
bà nhận dược một phong thư không có địa chỉ người gửi, Trong thư cho biết đó là
người đàn ông đã giúp bà trong lần vượt biên mấy năm về trước. Thư viết như thế
này:
“Tôi cho bà rõ. Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón lỏng những người vượt
biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số,
dọc bờ biển, nơi thường có bến bãi vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn.
Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn
đâu đấy, thấy đèn là tìm đến, thế là nộp mạng cho chúng tôi. Tôi bảo rằng có vợ
ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đã được
bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa gia đình vào thành phố Hồ Chí Minh, vì chẳng ai
có thể ở nơi hoang vắng nầy. Mỗi công an chúng tôi đã chuẩn bị sẵn các tiện
nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt biên tìm đến
nhờ cứu giúp. Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói
là chở ra bến xe để họ về nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị
công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ. Thông thường, nếu nhiều
người tìm đến thì tôi bảo họ, có gì đem theo nên kê rõ, nhất là tiền bạc, quí
kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau. Nếu chỉ một người thì tôi chờ lúc người
đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra những gì đem theo. Tôi còn rình nhìn lúc họ
đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy những gì họ lận theo người?
Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ gì, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền
để bị công an chận bắt),ï công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất
trong sạch. Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về
thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ
hào đến của cải, vật chất của người bị bắt. Nhưng không ai biết rằng, hễ người
nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng.
Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người,
bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về. Vào rừng,
tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi
tay tôi, vì chung quanh toàn sình lầy, có bỏ chạy một
quãng là ngập người dưới sình, tôi chỉ rọi đèn pin, đi tìm và bắn họ rất dễ
dàng.Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh
hoàng chứ chẳng ích lợi gì. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về
quê chôn giấu. Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu... Nghĩa là vợ chồng tôi rất
giàu.
Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua máy móc để sản xuất hàng
hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh cũng không hết
của. Dĩ nhiên gia đình tôi ngoài Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác,
để tránh bị nghi ngờ.
Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi
ngành. Tính ra, tôi ở đó đã được bốn năm, cho đến cái đêm bà tìm đến nạp mạng
cho tôi.
Như mọi khi, lúc bà đi tắm, tôi rình xem bà cởi đồ (để biết của cải lận
theo người) rồi lên kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng
và đô la. Như vậy, số phận của bà đã được tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ
tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển kinh, khổ lớn hơn những
quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác thường đem theo. Quyển kinh lớn
đó khiến tôi tò mò.Theo thông lệ, tất cả kinh Phật của những người vượt biên,
tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người bạn đang trụ trì một ngôi
chùa lớn, gần chợ. Anh ta là công an, đi tu là công tác, vẫn lãnh lương công
an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà thỉnh những kinh
đó thì biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dõi. Vì tò mò và vì
nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi đọc một
cách tình cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh. Chỉ một câu thôi. Câu
duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người vì kinh sợ. Tôi sợ đến choáng váng, muốn
té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi không ngủ được...
Hiện nay tôi đã ra khỏi ngành công an. Tôi đã đi tu ở một vùng núi miền Tây
Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên
góc núi.Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những
người thuộc sắc tộc thiểu số. Mỗi buổi
sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau
quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi là
tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên tiếp tế
lương thực mà thôi. Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang
giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai bão lụt thì đem
cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già
lão, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi...
Tôi viết để bà rõ, nay tôi đã chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất
trên thế gian, nhưng còn các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ
cho chúng...
Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho
tôi sớm tìm được con đường giải thoát.
Chúc bà sức khỏe.
Câu chuyện không kết thúc sau bức thư đó, mà mà đoạn đám
bạn lái xe đi về, trên đường về, ghé thăm một ngôi chùa ở Philadelphia. Nơi có
một người bạn cũ đang đi tu. Họ đem câu chuyện kể lại, và hỏi vị tăng đó, liệu
câu kinh đó là câu kinh nào mà khiến một tên đồ tể buông dao, khiến một sát
nhân đột ngột quay về lương thiện, và câu trả lời của vị sư đó mới thấm thía:
"Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu
cả! Để nói về cái nghiệp báo thì kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi chỉ
nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh Đề Bà Đạt
Ma (Devadata-suta) có câu "Những việc ác mà ngươi đã phạm, không phải là tại
cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một
mình ngươi đã phạm, và một mình ngươi phải chịu quả báo". Trong kinh Pháp
Cú (Damma-pada) cũng có câu "Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển
sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm
về tội ác của ngươi"...
Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối "Rất tiếc, vì sự vô minh của tôi mà câu
kinh đó vẫn còn là một bí ẩn. Xin lỗi đã làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự
thống hối của ông ta quá thành khẩn, đã cảm động đến đức Phật, và Ngài đã ra
tay tế độ, đã khai ngộ cho ông ta.
Nhưng phải là người thật thành khẩn thì đức Phật mới làm được việc đó.
Câu chuyện làm tôi rúng động và bàng hoàng bởi vì tôi biết
chuyện Công An bố trí người chặn bắt những người vượt biên thất bại trốn chạy
là có thật, tôi biết chuyện rất nhiều người vượt biên không thoát vì vỡ ổ,
nhưng rồi mất tích không biết tin tức, mà những người mất tích thường là những
người có của, tôi biết và đã từng gặp những vị tăng chân tu, đức độ một cách hiếm
có, không cần tiền bạc lọi quyền chỉ chuyên tâm tu học và cứu giúp mọi người,
nhưng khi hỏi xuất xứ , thì có người thân thiết cho biết ông ta khi chưa đi tu
gọi là... ông Năm Bộ Đội, hoặc một vị khác sau khi tù cải tạo về xuống tóc đi
tu.
Tôi
yêu thích câu trả lời của nhà sư: “Rất tiếc, vì sự vô minh của tôi mà câu kinh
đó vẫn là một bí ẩn” Trả lời là vô minh nhưng lời nói lại minh triết biết bao,
ai trong cuộc đời chúng ta đọc được, hiểu được lẽ đúng sai trong suốt cuộc tử
sinh.
Tôi không cho đó là một giải đáp nào cho tôi, và cũng
không đặt nghi ngờ gì về những người tôi biết. Mà tôi hiểu rằng nghiệp chướng
con người nếu gieo thì phải trả, trả sớm hay trả muộn và trả bằng cách nào thì
là do duyên mà thôi.
Tôi
thú vị với những câu chuyện kể thời học
sinh, thời thanh niên đi làm Phó Quận. Tôi lặng người khi đọc những chuyện khi đi cải tạo về, đứng đầu đường bán bánh mì
thịt, xót xa với chuyện đứa bé tìm cha. Tôi thú vị với những câu chuyện tình rất
sạch, rất đẹp của tuổi trung niên của một người cầm bút trên xứ người và cảm
khái với rất nhiều tự sự tuổi già. Truyện của Phạm Thành Châu là những lời chân
chất mộc mạc, kể những chuyện bình thường xẩy ra cho ông và cho những người ông
biết. Chính vì thế truyện của ông gần gũi và hấp dẫn số đông. Và cũng chính vì
thế người đọc bỗng khám phá ra những bí ẩn của cõi nhân sinh mà chính mình tham
dự.
Có lần, Phạm Thành Châu gọi tôi qua nhà để lấy mấy cây Mồng
Tơi, Ớt Hiểm mà ông ương sẵn đem về trồng, anh em ngồi bên nhau dưới cội hoa Trà,. Tôi
hỏi anh về những kết cấu truyện để người ta cười và để người ta khóc, phải
chăng là kỹ thuật?
-Không có kỹ thuật nào cả, Người viết không cười người đọc
không cười, người viết không xúc động, người đọc không xúc động.
- Anh là một Nhà văn dược nhiều người yêu thích, điều đó
anh có cảm giác như thế nào?
- Câu hỏi đó sai một nửa. Truyện của tôi được nhiều người
yêu thích thì đúng theo con số sách bán ra, theo con số người đọc trên mạng có
ghi lại, nhưng tôi không phải Nhà Văn.
-Ủa, vậy anh là nhà gì?
- Chẳng là nhà gì, tôi hãnh diện khoe rằng: Sách của tôi
được rất nhiều người đón nhận. Lý do đơn giản là tôi viết toàn những chuyện đọc
để giải trí, chẳng hề chuyên chở, vận tải triết lý, ẩn dụ gì khiến người đọc phải
suy nghĩ mệt trí, Buổi tối lên giường, giở tập tập truyện của tôi, đọc một chuyện
nào đó rồi mỉm cười chìm vào giấc ngủ bình yên, là điều tôi hạnh phúc.
- Nhưng có những truyện mang tính triết lý trong đó thì
sao?
-Đó không phải là tôi đưa triết lý vào truyện, mà la
truyện tự nó mang triết lý
của đời.
Tất nhiên là tôi không tranh cãi gì với anh về thiên chức
Nhà văn. Bởi vì, Nhà văn không phải một
Văn Bằng để người ta được cấp phát, mà một một tôn vinh của người khác gửi vào,
còn có nhận hay không hoàn toàn chẳng liên quan gì tới chuyện người khác có muốn
gọi hay không. Tôi hỏi anh vậy bây giờ tôi gọi anh là Ông Cựu Phó Nam Hòa như
tên một nhân vật trong truyện Hoa Trang của anh, anh đồng ý không?
Đôi mắt Phạm Thành
Châu bỗng trở nên mênh mang, ông gật đầu lia lịa được chứ được chứ ...à mà ông bỏ bớt chữ Cựu
đi, Có lẽ suốt đời này, tôi vẫn là chàng thanh niên Phó Nam Hòa lang thang, và lãng đãng.
Hình như lúc đó là giữa tháng Tư, những cây cao to trổ thật
nhiều những bông hoa rực rỡ như hoa hồng, có cây hoa vàng, có cây hoa trắng, có
cây hoa đỏ và có cây hoa hồng, cành lá xum xuê những chiếc lá xanh đậm như lá
trà xanh, Nhớ đến hai mầu hoa TRắng và Đỏ của Marguerite Gautier, nàng kỹ nữ
xinh đẹp nức tiếng nhưng mắc phải bệnh lao phổi và Armand Duval, nhà tư sản trẻ
tuổi trong tiểu thuyết Trà Hoa Nữ của Alexandre Dumas con (1824 – 1895).
Nhưng đây là Hoa Trà ở Virginia, hoa Trà mầu Hồng ở sân một người viết thật nhiều,thật cuốn hút, thật hay mà nhất định không nhận mình là nhà văn, vậy gọi ông là Người Dưới Cội Hòa Trà.
GHI CHÉP THÊM: Khi bài này đăng trên facebook, có người nhắn tin hỏi tôi, Truyện này nằm trong tập nào trong 8 cuốn sách của Phạm Thành Châu. Tôi xin trả lời, Phạm Thành Châu vừa xuất bản trong năm nay tác phẩm Vô Tình, mà ông nói rằng, có lẽ đây là tác phẩm cuối thì không có truyện này.Tôi không nhớ rõ truyện này nằm trong cuốn nào, nhưng tôi nghĩ, bạn nên mua trọn bộ 7 cuốn , gíá đang on sale cả bộ chỉ có 70 đồng, lại được tặng thêm một CD đọc truyện do kịch sĩ Tú Trinh và Khánh Hoàng diễn đọc rất hấp dẫn, CD dài hơn 5 giờ, ngồi nghe khi lái xe là tuyệt diệu, hãy liên lạc với Phạm Thành Châu 7004 Beverly Lane, Springfield, VA 22150- Phone 571 480 3276.
Nguyễn Minh Nữu.
Virginia, tháng 1.2022