Hợp
tác và đối đầu
Trong
chương Những ngày sóng gió, chúng tôi đã trình bày vấn đề: Ngày vua Bảo
Đại thoái vị là 23-8-1945, nhưng bị đổi thành 30-8-1945.
Còn
lại hai sự kiện quan trọng không kém, cần được tìm hiểu:
1-
Ai là người chủ động việc đánh điện tín yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị?
2-
Tại sao có hai văn bản điện tín (yêu cầu vua thoái vị) khác nhau: bản in trên
báo Cứu Quốc không giống với bản in trong hồi ký Con rồng Việt Nam
của cựu hoàng Bảo Đại?
Chúng
tôi muốn giải đáp hai câu hỏi này trước khi đi vào nội dung của chương Hợp
tác và đối đầu giữa hai bên quốc cộng trong năm 1945-1946.
Ai
chủ trương việc đánh điện tín yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị?
Khi
đọc tài liệu, chúng tôi ngạc nhiên nhận thấy:
-
Có hai nơi nhận đã đánh điện về Huế yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị, là nhóm
Đại Học Xá Hà Nội (theo Đoàn Thêm)[1] và Uỷ ban Nhân dân cách mạng Bắc
bộ (theo Phạm Khắc Hoè).
-
Bản điện tín vua nhận được và bản điện tín vua trả lời in trong sách Con
rồng Việt Nam hoàn toàn khác với hai bản đăng trên báo Cứu quốc.
Đọc
hồi ký Giọt nước trong biển cả của Hoàng Văn Hoan, mới thấy hé lộ một
chút ánh sáng về việc này.
Trong
đoạn viết về hai hội nghị quan trọng đầu tiên, mang tính cách lịch sử của Đảng
Cộng Sản, tại Tân Trào (Tuyên Quang) trong hai ngày 13 và 16 tháng 8-1945,
Hoàng Văn Hoan còn cho thêm một số thông tin quan trọng khác liên quan đến ngày
lễ thoái vị ở Huế, giống những điều cựu hoàng Bảo Đại viết và khác hẳn báo chí
chính thống thời bấy giờ.
Về
Hội nghị thứ nhất, tức Hội nghị toàn quốc, ông viết:
"Ngày
13-8-1945, Hội nghị nghị toàn quốc của Đảng họp do bác chủ tọa. Những người
tham gia hội nghị ở Bắc có các anh Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng; ở Trung có
anh Nguyễn Chí Thanh; ở Nam có anh Hà Huy Giáp, ở Việt Bắc có anh Võ Nguyên
Giáp và tôi; ở Thái Lan và ở Lào về có các anh Dương Trí Trung, Trần Đức Vịnh;
ngoài ra còn một số đồng chí khác nay không nhớ rõ tên.
Hội
nghị toàn quốc của Đảng họp ở nhà một người dân trong làng Tân Trào."[2]
Về
hội nghị thứ hai, tức Quốc dân Đại hội, họp ngày 16-8-45, ở đình Tân
Trào, do Tổng Bộ Việt Minh triệu tập, có khoảng 60 đại biểu các đoàn thể nhân
dân tham dự, ông viết:
"Ở
Quốc dân Đại hội, với danh nghiã là người lãnh đạo của Việt Minh, Bác phân tích
tình hình thế giới và trong nước cũng như đã phân tích ở Hội nghị toàn quốc của
Đảng. Đồng thời giới thiệu những chủ trương lớn của Việt Minh là đoàn kết tất
cả các lực lượng nhân dân để đánh Pháp, đánh Nhật, xây dựng nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. (…)
Quốc
dân Đại hội kết thúc, mọi người gấp rút chuẩn bị về địa phương. Các đồng chí
Trung ương ở miền xuôi đã về ngay sau Hội nghị toàn quốc của Đảng. Anh Võ
Nguyên Giáp và một số cán bộ quân sự chuẩn bị mang bộ đội về chiếm Thái Nguyên "[3].
Hoàng
Văn Hoan còn cho biết, ông được lệnh ở lại Tân Trào để "củng cố địa
phương làm căn cứ cho cuộc khởi nghiã do Việt Minh lãnh đạo đương chuẩn bị bùng
nổ".
Bỗng
mấy hôm sau, ông được tin:
"Quân
Nhật ở Thái Nguyên đã giao cho ta một số vũ khí và để cho quân ta tự do đi qua
Thái Nguyên về xuôi. Tiếp đó là tin mừng liên tiếp dội đến.
Ngày
19-8-45, nhân dân Hà Nội vùng dạy giành chính quyền, đó là ngày mà sau này
chúng ta gọi là ngày "Cách mạng Tháng Tám".
Ngày
21 tháng 8, Việt Minh điện vào Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị. Bảo
Đại đánh điện mời Đại biểu Việt Minh vào Huế tiếp thu chính quyền.
Ngày
24 tháng 8, Bảo Đại tuyên bố xin làm công dân nước Việt Nam độc lập.
Ngày
25 tháng 8, tại Hoàng cung Huế, Bảo Đại làm lễ trao ấn kiếm cho cán bộ Việt
Minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận.
Ngày
30 tháng 8, Bác về đến Hà Nội. Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ
Cộng hoà được thành lập (chúng tôi in đậm)[4].
Ngày
mồng hai tháng chín (2-9-1945) hơn năm mươi vạn quần chúng họp mít tinh ở vườn
hoa Ba Đình. Cờ đỏ sao vàng tung bay ngập trời. Đúng ba giờ chiều, Bác bước lên
lễ đài với tư cách là Chủ tịch Chính phủ lâm thời, đọc bản Tuyên ngôn độc lập,
tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà."[5]
Hoàng
Văn Hoan viết ngắn gọn và đầy đủ, ngày tháng ăn khớp với những điều cựu hoàng
Bảo Đại ghi trong hồi ký Con Rồng Việt Nam.
Riêng
về ngày vua thoái vị, Hoàng Văn Hoan ghi 25-8 theo ngày ghi trên Chiếu thoái
vị như Hoàng Văn Đào và Nghiêm Kế Tổ. Nhưng, như ta đã biết, cựu hoàng giải
thích về chi tiết này: ngày 23-8 ông đọc chiếu thoái vị, được viết trong đêm 22,
nhưng đề ngày 25-8[6].
Hoàng
Văn Hoan còn cho biết: "Ngày 30 tháng 8, Bác về đến Hà Nội. Chính phủ
lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập."
Như
vậy, mọi việc đều sáng tỏ: Khi thoái vị, vua trao ấn kiếm cho hai đại diện
Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận, vì lúc đó chưa có Chính phủ Lâm
thời. Điều này cũng được Hoàng Văn Hoan xác nhận: Bảo Đại làm lễ trao ấn
kiếm cho cán bộ Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận.
Nội
dung bức điện tín yêu cầu vua thoái vị, được ghi lại trong Con rồng Việt Nam
như sau:
"Trước
ý chí đồng nhất của toàn thể dân chúng Việt Nam, sẵn sàng hy sinh tất cả để cứu
vãn nền độc lập quốc gia, chúng tôi thành kính xin đức Hoàng đế hãy làm một cử
chỉ lịch sử để từ bỏ ngai vàng."
Bức
điện này được ký dưới là: "Ủy ban Nhân dân Cứu quốc" đại diện cho tất
cả mọi đảng phái, và tầng lớp dân chúng."[7]
Phạm
Khắc Hoè trong Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, kể lại rằng:
"Sáng
24 tháng 8, tôi vào gặp Bảo Đại thì ông ta với vẻ mặt lo buồn đưa cho tôi một
bức điện nhận được trong đêm 23 tháng 8 do Uỷ ban Nhân dân cách mạng Bắc bộ từ
Hà Nội đánh vào, nhưng dưới lại ký tên:
Nguyễn
Xiển, Nguyễn Văn Huyên, Ngụy Như Kontum và Hồ Hữu Tường.
Toàn
văn bức điện như sau: "Một Chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời đã được
thành lập. Chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu đức vua thoái vị ngay để củng cố
và thống nhất nền độc lập nước nhà".[8]
Phạm
Khắc Hoè chép lại nội dung bức điện tín in trên báo Cứu Quốc số 32 (27-8-1945).
Ta thấy ngay bức điện tín này khác hẳn bức được in trong hồi ký của cựu hoàng.
Đặc biệt hai câu: "Một Chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời đã được
thành lập. Chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh." Lúc đó chưa có Chính phủ lâm
thời và Hồ Chí Minh còn ở Tân Trào, chưa về Hà Nội, theo như lời Hoàng Văn Hoan
ghi "Ngày 30 tháng 8, Bác về đến Hà Nội. Chính phủ lâm thời của nước
Việt Nam dân chủ Cộng hoà được thành lập". Không có lý do gì khiến
Hoàng Văn Hoan viết sai về việc này; nhất là các chi tiết khác ông đều viết
giống cựu hoàng Bảo Đại.
Hoàng
Văn Hoan dùng những chữ "đại biểu Việt Minh", "cán bộ
Việt Minh" để chỉ Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận, mà không dùng chữ
"đại diện Chính phủ Lâm thời" như báo Cứu Quốc. Và ông cũng
không nói đến sự hiện diện của Nguyễn Lương Bằng, đúng như trong hồi ký của Bảo
Đại.
Ngoài
ra, đoạn văn: "Một Chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời đã được thành
lập. Chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu đức vua thoái vị ngay…" in
trên báo Cứu Quốc, còn có ý nói chính Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu nhà vua thoái
vị. Điểm này, ngược hẳn với những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với cựu hoàng
Bảo Đại, khi ông ra Hà Nội:
"Thưa
Ngài, tôi không liên quan gì đến bức điện mà ngài nhận được ở Huế, yêu cầu
thoái vị. Riêng cá nhân tôi, như đã từng nói hôm 22 tháng 8, tôi vẫn nghĩ vẫn
để Ngài lãnh đạo quốc gia, và đặt tôi vào địa vị Thủ tướng, lãnh đạo chính phủ
mà thôi. Tôi không đồng ý với những người đã ép ngài đến chỗ thoái vị".[9]
Lời
này xem ra thành thực chứ không phải là lời ngoại giao. Vậy:
1-
Việc đánh điện vào Huế yêu cầu vua thoái vị, do ai chủ trương?
2-
Việc viết hai bức điện tín "giả":
Bức
thứ nhất, nhân danh chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu vua thoái vị và bức thứ hai,
nhân danh vua Bảo Đại, trả lời và yêu cầu ông Chủ tịch Chính phủ nhân dân
cách mạng lâm thời về Thuận Hoá để ngài giao chính quyền, in trên báo Cứu
Quốc số 32 (27-8-45) do ai chủ động?
3-
Việc thay đổi ngày vua thoái vị, để phù hợp với việc vua trao ấn kiếm cho
"đại diện Chính phủ Lâm thời", do ai quyết định?
Theo
T.L. trên báo Việt Nam số 56 (19-1-46), trong vụ "cướp chính
quyền" hai ông Trần Huy Liệu và Võ Nguyên Giáp có công đầu. Theo Hoàng Văn
Hoan, sau Quốc dân Đại hội (16-8) Võ Nguyên Giáp ở lại Tân Trào để hành quân
lên Tuyên Quang. Không thấy Hoàng Văn Hoan nhắc đến Trần Huy Liệu trong cả hai
buổi Đại hội, có thể ông Liệu ở lại Hà Nội không lên Tân Trào, vì thế mới chủ
động mọi việc để có mặt ở Huế ngày 23-8 nhận ấn kiếm vua trao chăng?
Tất
cả những câu hỏi này cần phải được khảo sát lại, bởi vì lịch sử không thể là
những ước đoán, phỏng chừng.
***
Hợp
tác và đối đầu
Tình
hình chính trị trong hai năm 1945-1946 cực kỳ phức tạp, không thể diễn tả được
trong một chương sách. Ở đây chúng tôi chỉ cố gắng tìm hiểu những nét chính
trong giai đoạn khó khăn, hai bên quốc cộng đã từng hợp tác rồi đối đầu, có
nhiều thông tin bị bưng bít, qua cái nhìn của một số chứng nhân, đặc biệt một
người thuộc gia đình Nguyễn Tường đã tích cực góp phần hoạt động, đó là Nguyễn
Tường Bách và của François Guillemot, sử gia Pháp.
Nguyễn
Tường Bách, nhân chứng
Nguyễn
Tường Bách, em út của Nhất Linh, lúc đầu không trực tiếp tham gia hoạt động
cách mạng, dù đã được Nhất Linh rủ vào Đảng Hưng Việt từ năm 1938.
Năm
1944, tốt nghiệp y khoa, tháng 5-1945, ông thực sự "dấn thân", nhận
đứng tên làm Giám đốc báo Ngày Nay kỷ nguyên mới cho tới tháng 8-1945
khi tờ báo đình bản. Tháng 10-1945, ông làm tờ Việt Nam thời báo với
Khái Hưng, tháng 11-45, Việt Nam thời báo đổi thành tờ Việt Nam, Cơ
quan ngôn luận của Việt Nam Quốc dân Đảng.
Tháng
2-1946, Nguyễn Tường Bách được gọi về Tổng bộ Quốc Dân Đảng, giữ Bộ Tổ chức.
Khái Hưng giữ Bộ Tuyên truyền, một mình trông coi tờ Việt Nam[10].
Sau
hiệp định Sơ bộ 9-3-1946, sự liên kết giữa hai khối bắt đầu tan rã. Tháng 5-46,
Hội nghị Đà Lạt thất bại, tình hình căng thẳng. Cuộc nội chiến xẩy ra. Nguyễn
Tường Bách được lệnh lên Vĩnh Yên cùng với Vũ Hồng Khanh, tổ chức lại Đệ Tam
chiến khu Quốc Dân Đảng. Nhưng cuộc chiến mở rộng, Quốc Dân Đảng thua trận, rút
dần lên Yên Bái, rồi Lào Cai. Vũ Hồng Khanh ở lại cầm cự với Việt Minh; tháng
6-1946, Nguyễn Tường Bách được phái sang Vân Nam tìm cứu viện, rồi lưu vong ở
Trung Quốc. Tháng 3-1949, ông quyết định ở lại Quảng Châu và thoát ly Quốc Dân
Đảng.
Nguyễn
Tường Bách là người duy nhất trong gia đình Nguyễn Tường, kể lại hành trình
cách mạng của mình và đồng bạn cùng những biến đổi của thời cuộc. Ông viết làm
hai lần.
Lần
đầu, khi còn ở Trung Quốc, ông viết cuốn Việt Nam những ngày lịch sử, khoảng
1979-1980, gửi nhóm Nghiên cứu lịch sử của Nguyễn Khắc Ngữ ở
Monréal, in năm 1981[11].
Năm
1988, gia đình ông di dân sang Mỹ. Năm 1995 ông cho in cuốn sách đầu tiên viết
ở Mỹ: tiểu thuyết Trên sông Hồng cuồn cuộn.[12]
Sau
đó, Nguyễn Tường Bách soạn bộ Việt Nam một thế kỷ qua, hai cuốn, phần 1,
in năm 1998, và phần II, năm 2000, đều do Thạch Ngữ xuất bản.
Ngoài
ra còn phải kể đến cuốn hồi ký Nguyễn Tường Bách và tôi (2005)[13] của Hứa Bảo Liên, vợ ông, lai
Hoa-Việt, sinh ở Hà Nội; quen Nguyễn Tường Bách từ khi còn là học sinh. Tháng
7-1946, Bảo Liên sang Vân Nam du học, rồi gặp lại Tường Bách, cưới nhau cuối
năm 1946. Tác phẩm của Bảo Liên viết về cuộc đời trôi nổi của hai người gắn
liền với thời cuộc chao đảo của hai nước Việt-Hoa, điểm những thông tin giá trị
về nhóm cách mạng lưu vong.
Việt
Nam một thế kỷ qua, của Nguyễn Tường Bách, Tập 1, chính là
Việt Nam những ngày lịch sử được viết lại và bổ sung. Tập 2, viết
tiếp giai đoạn từ cuối năm 1946 đến năm 2000.
Việt
Nam một thế kỷ qua, chi tiết hơn, giọng cân nhắc hơn,
nhưng một số đoạn trong Việt Nam những ngày lịch sử bị lược bỏ, có lẽ vì
e không thích hợp với độc giả di tản ở Mỹ, phần đông chống cộng.
Đối
với người nghiên cứu, ngược lại, Việt Nam những ngày lịch sử, vì viết
trước, nên đã ghi được những tình cảm sống động, chân thực của tác giả trước
thời cuộc 1945-1946, nhất là những suy nghĩ của tác giả về đối phương là Việt
Minh lúc bấy giờ.
Tùy
trường hợp, chúng tôi sẽ trích dẫn cả hai bộ sách này.
Ngoài
ra, xin giới thiệu bộ sách giá trị của François Guillemot Đại Việt,
indépendance et révolution au Việt Nam, L’échec de la troisième voie
(1938-1955) (Đại Việt, độc lập và cách mạng ở Việt Nam, Sự
thất bại của con đường thứ ba (1938-1955), Nxb Les Indes Savantes, Paris,
2012, mà chúng tôi sẽ gọi tắt là Đại Việt.
Đây
là một công trình nghiên cứu khoa học, một tác phẩm công phu, hơn 700 trang khổ
lớn, phối hợp thông tin ba phiá: Quốc gia, Việt Minh, và những tin tình báo của
Pháp. Một bộ sách lịch sử đáng tin cậy, không những về các đảng Đại Việt mà
còn soi sáng những điểm quan trọng khác trong thời kỳ cận đại này.
Thông
tin đầu tiên: Nhất Linh còn sống
Năm
1943, lần đầu tiên gia đình Nguyễn Tường nhận được tin Nhất Linh, sau hơn hai
năm biệt vô âm tín. Tin quan trọng này đem một nguồn hy vọng mới cho Khái Hưng,
Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí, vừa ra tù, biết rằng người lãnh đạo và bạn thân của
họ vẫn còn sống, và có lẽ cũng là động cơ thúc đẩy Nguyễn Tường Bách thay đổi
chí hướng, tham gia tích cực hơn vào hoạt động cách mạng.
Nguyễn
Tường Bách viết:
"Một
hôm [đầu năm 1943], tại địa điểm liên lạc bí mật, một anh em ở ngoài về
đưa cho tôi một lá thư nhỏ viết trên giấy mỏng. Đúng là chữ của Nhất Linh,
những chữ viết lăn tăn nhỏ tý như dính với nhau. Trong thư chỉ có mấy hàng: anh
vẫn được yên ổn khoẻ mạnh, buôn bán làm ăn khá hơn trước, đừng lo. Nhưng thế là
đủ rồi, sau khi biệt tích hơn hai năm. Mọi người trong gia đình, các bạn hữu
đều vui mừng khi biết anh còn yên ổn."[14]
Tóm
lại, Nhất Linh "mất tích" trong hơn hai năm, từ cuối 1940, đến
đầu 1943 gia đình mới nhận được lá thư đầu tiên xác nhận Nhất Linh còn sống.
Tiếp theo đó, lại một tin mừng khác:
"Lúc
ấy, lại thêm một tin mừng: các anh Long, Khái Hưng, Gia Trí và một số anh em
khác được tha về; nhưng vẫn bị quản thúc. Có lẽ bọn Pháp thấy không nên quá ư
hà khắc, cần phải lấy lòng giới trí thức người Việt."[15]
Khái
Hưng từ khi chia tay cũng không nhận được tin gì của Nhất Linh. Sau này, năm
1945, ông thể hiện trong truyện Xiềng Xích, lúc đi trốn[16], niềm nhớ và nỗi lo sợ cho bạn:
"Bản
chương trình mà bọn mật thám lai vừa tóm được ở nơi trụ sở của đảng, như người
ta đã báo cho Ái [Khái Hưng] biết. Nhưng Lực [Nhất Linh] người
thảo ra bản chương trình ấy thì chàng bặt hẳn tin tức. Lực hiện giờ ở đâu? Liệu
có trốn thoát không? Ái lo lắng buồn phiền nghĩ đến Lực, linh hồn của sự hành
động, nhất là trung tâm điểm của sự thù ghét người Pháp"[17]
Tại
sao có sự lo sợ ấy? Bởi vì, như chúng ta đã thấy qua truyện ngắn của Hồ Lễ và
Đỗ Tốn[18], những thanh niên trốn Pháp sang
Tàu, năm 1941-42, rất ít người sống sót trở về. Như Băng, vợ Đỗ Tốn, cũng kể
chuyện Vinh, người bạn gái, trung uý, làm việc với bà tại dinh tướng Trương
Phát Khuê, đã giúp bà đào ngũ về nước: Vinh trốn sau, bị giết ở dọc đường.
Những
điều trên đây giải thích tại sao gia đình Nguyễn Tường và Khái Hưng lo lắng
trong hơn hai năm bặt tin Nhất Linh.
Những
chuyển biến lịch sử
Trong
ba người bị bắt cuối năm 1941, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí và Khái Hưng; Khái
Hưng được về sớm nhất[19], tiếp đến Nguyễn Gia Trí, và sau
cùng, Hoàng Đạo được về vào mùa thu 1943[20].
Nguyễn
Tường Bách ghi lại: "Nghỉ ngơi một thời gian, anh em lại bắt tay vào
việc. Anh Khái Hưng chuyên trông coi nhà xuất bản, nhà in. Còn anh Hoàng Đạo và
tôi kiêm về việc liên lạc trong ngoài"[21]
Rồi
họ chờ đợi. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Ngày 17-4-45, chính phủ Trần
Trọng Kim ra đời. Ngày 5-5-1945, Tự Lực văn đoàn cùng một số nhà văn nhà thơ,
xuất bản tờ Ngày Nay kỷ nguyên mới, ủng hộ triệt để chính phủ Trần Trọng
Kim, như ta đã biết[22].
Ba
tháng sau.
Ngày
15-8-1945, Nhật Bản đầu hàng. Ngày 19-8-1945, Việt Minh lên nắm chính quyền.
Nguyễn
Tường Bách thuật lại bối cảnh và tình cảm của Khái Hưng và ông lúc bấy giờ:
"Sáng
ngày 18 tháng 8, 1945, Khái Hưng và tôi ngồi ở toà soạn phố Quan Thánh, thì làn
sóng người biểu tình mỗi ngày [lúc] một đông, đổ về phía bờ hồ. Có người
cầm cờ nhỏ và hô khẩu hiệu. Thỉnh thoảng có vài người đi kèm. Họ vào các nhà
xua mời ra đường. Lần đầu tiên chúng tôi tiếp xúc với sức mạnh của quần chúng
và không khỏi ngạc nhiên tại sao lại có nhiều người tham gia như thế. Ngay ở
tòa báo, có hai người vào yêu cầu mọi người tham gia. Ở tầng dưới cũng có một
số người theo ra. Họ định lên gác khiến chúng tôi thấy khó nghĩ vì khó tìm lý do
gì thuận tiện để tạ tuyêt. Nhưng sau không hiểu vì sao họ không lên.
Dù
sao chúng tôi cũng tự thấy cô độc trong lúc ấy, tuy chúng tôi chưa có cảm giác
là đối lập với Việt minh, nhưng ít ra cũng không phải cùng một phe. Hai nữa, họ
vẫn gán cho chúng tôi là thân Nhật tuy rằng sự thật không phải thế. Với đầu óc
chính trị non nớt tôi cảm nghĩ rằng mọi người đều ái quốc, đều muốn cho dân tộc
độc lập cả, không nên có sự thù hận hay đối địch. Nhưng dù sao Khái Hưng và tôi
đều cảm thấy không an toàn nên bàn với nhau nên tạm lánh vào một làng ở ngoại
ô. Phiền nỗi lúc đó toàn thành đã đầy cờ đỏ sao vàng. Phan Kế Toại đã đầu hàng.
Ở đó cũng không phải là kế lâu dài. Vả lại, sự thực cũng không có gì đáng sợ
lắm.
Đâu
cũng là Việt minh cả… Khái Hưng vừa đi vừa nói. Tại sao? Đó là câu tôi tự hỏi.
Họ tài thật. Chúng tôi không khỏi khâm phục."[23]
Lúc
bấy giờ Phan Kế Toại, Khâm sai Bắc bộ xin từ chức, Trần Trọng Kim muốn mời
Nguyễn Tường Long thay thế, nhưng ông Long đang bị bệnh thương hàn.[24]
Hoàng
Đạo bị bệnh từ cuối tháng 7-1945[25], trong lúc tình hình sôi động. Nhất
Linh chưa về. Đại Việt Dân Chính gần như tan rã. Nguyễn Tường Bách viết:
"Riêng
về phía các đảng viên Đại Việt Dân Chính cũ, tôi thấy có một điều đáng buồn là
số còn hoạt động VNQDĐ rất ít, một phần nằm im, một phần đã chạy sang với Việt
Minh, có người đã tham gia vào "Nội Các" Hồ Chí Minh"[26].
Nhóm
Tự Lực làm gì trong tình cảnh ấy?
Nguyễn
Tường Bách mô tả đời sống mới:
"Báo
Ngày Nay [Kỷ nguyên mới] tạm đình bản vì phương châm và nội dung cần
biến đổi. Tuy nhiên chúng tôi vẫn sống yên ổn và mỗi ngày vẫn cà-phê, cờ tướng
hay belote. Vẫn duy trì nhà xuất bản Đời Nay và nhà in làm kế sinh nhai cho mấy
chục anh em.
Ngày
2 tháng 9, chính phủ Hồ Chí Minh làm lễ tuyên thệ độc lập ở quảng trường Ba
Đình. Tôi đã biết từ lâu Hồ Chí Minh ngày nay là Nguyễn Ái Quốc mà chúng tôi
vẫn khâm phục như một nhân vật thần kỳ thời niên thiếu. Éo le là vận mệnh đã
làm cho tôi đứng vào hàng ngũ đối lập (…)"[27]
"Mọi
người đều chờ đợi quân đội Đồng minh đến tước khí giới quân đội Nhật (…)
Vài
hôm sau bỗng có một người trong đảng Xã hội Pháp đến đưa cho tôi một bức thư
của anh Tam từ Côn Minh, nhờ đại uý Patterson, tổ trưởng, mang sang và cho biết
Đại uý muốn gặp chúng tôi.
Bức
thư này đại ý nói quân đội Trung Hoa sắp tiến vào Bắc Việt và nhiều anh em cũng
sẽ đi về nước. Bên trong cần chuẩn bị để đón tiếp. Còn anh Tam vẫn cần ở lại
Côn Minh một thời gian nữa. Vì không có anh phụ trách nào khác có mặt, tôi phải
đến gặp Patterson trong một tòa nhà ở Hàng Trống, trông ra hồ Hoàn kiếm.
Ông
ta còn rất trẻ, người hòa nhã và vui vẻ. Ông nói tiếng Pháp rất thạo. Chúng tôi
trao đổi một số ý kiến về thời cục trong lúc ở dưới đường có nhiều toán mang cờ
đỏ, hô khẩu hiệu đương đi biểu tình. Có lẽ họ cố ý để cho Đại biểu Đồng minh
xem.
Patterson
bảo anh Tam vẫn khoẻ mạnh. Quân Đồng minh sẽ giúp đỡ cho Việt Nam độc lập,
nhưng cuối cùng, ông ta chỏ [trỏ] xuống đường một cách thâm trầm
nói bằng tiếng Pháp: Tout est rouge… (Cái gì cũng đỏ cả…) Nhiệm vụ của ông chỉ
là liên lạc và xếp đặt việc tiếp thu khí giới của Nhật. Những việc khác sẽ do
quân Trung hoa và quân Anh xử lý. Tạm thời họ chưa công nhận chính phủ nào ở
Đông Dương, kể cả chính phủ Hồ Chí Minh"[28].
Quân
Trung Hoa vào Việt Nam
Ngày
9-9-45, quân đội Trung Hoa bắt đầu tới Hà Nội giải giáp quân Nhật. Tổng số sẽ
là 180.000 người thuộc hai lộ quân: Vân Nam, dưới sự điều khiển của Lư Hán và
Quảng Tây, dưới sự điều khiển của Tiêu Văn. Một phần bộ đội Việt Nam Quốc Dân
Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Việt Cách) cũng từ Trung
Hoa về nước. Ngày 18-9-45, đại tướng Lư Hán, Tổng tư lệnh quân đội Trung Hoa
đáp máy bay đến Hà Nội[29].
Hoàng
Văn Đào viết: "Nguyễn Hải Thần, cụ đã cùng quân đội Trung Hoa trở về
nước từ đầu tháng 9, được "Đại Việt Quốc Xã Đảng" [của Nguyễn
Xuân Tiếu] tôn lên địa vị lãnh tụ tối cao, thành lập hai trụ sở công khai:
số 21 đường Quan Thánh và ở đường Lò Lợn, Hà Nội, kéo lá cờ VNCMĐMH. Nhượng
Tống được mời làm Bí thư, Nguyễn Triệu Luật làm Chánh trị Uỷ viên, Tạ Nguyên
Hối làm Kinh tài Ủy viên…"[30]
Vũ
Hồng Khanh, lãnh tụ Việt Quốc, khởi hành từ Côn Minh ngày 1-9-45, đến 15-9 về
tới Lào Cai, gặp nhiều trở ngại, ngày 20-10-45 mới về tới Hà Nội. Kể từ tháng
10-45, Việt Quốc thiết lập trụ sở Trung ương công khai tại trường Tiểu học Đỗ
Hữu Vị[31].
Nguyễn
Tường Tam và Nghiêm Kế Tổ về tới Hà Nội cuối tháng 11-45, sau khi bản cam kết
"Tinh Thành đoàn kết" được ký kết, sẽ nói đến sau.
Ngày15-12-45,
Việt Nam Quốc Dân Đảng (Vũ Hồng Khanh), Đại Việt Quốc Dân Đảng (Trương Tử Anh)
và Đại Việt Dân Chính (của Nguyễn Tường Tam) áp dụng nghị quyết thống nhất ba
đảng đã ký tháng 5-1945 ở Trùng Khánh, dùng một tên chung là Quốc Dân Đảng.
Đảng bộ chia hai bộ phận: bí mật và công khai. Từ nay Đại Việt nằm trong phần
hoạt động bí mật, lãnh tụ Trương Tử Anh không ra mặt trên chính trường. Về mặt
công khai, cơ quan đấu tranh chính trị của Quốc Dân Đảng là nhật báo Việt
Nam và tuần báo Chính nghiã[32].
Hoàng
Văn Hoan lo ngại:
"Ở
miền Bắc hai mươi vạn quân Tưởng do tướng Lư Hán chỉ huy từ Vân Nam vào để giải
giáp quân Nhật, và một đơn vị do tướng Tiêu Văn chỉ huy từ Quảng Tây vào với
danh nghiã là đại biểu Trương Phát Khuê giúp cho Việt Nam Cách mạng Đồng Minh
Hội thành lập chính phủ. Đây mới là vấn đề cực kỳ phức tạp"[33].
Và
ông giải thích sự khôn khéo của chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hoàn cảnh:
"Nắm
được dân, tích cực chuẩn bị chiến đấu nhưng không nóng nảy trước sự khiêu
khích, đồng thời khôn khéo làm công tác với Tôn Văn và Lư Hán đó là bí quyết để
phá tan cái ảo tưởng ngông cuồng "Diệt cộng sản, bắt Hồ Chí Minh" của
Tưởng Giới Thạch"[34]
Việc
"khôn khéo làm công tác với Tiêu Văn và Lư Hán" mà
Hoàng Văn Hoan nói ở đây chính là việc chủ tịch Hồ Chí Minh bị bắt, và
lo liệu để ông được tha, xảy ra vào cuối tháng 9-45.
Theo
Đoàn Thêm: "Ngày 29-9-45, quân đội chính phủ Trung ương Trung Hoa,
chiếm đóng Vân Nam phủ, buộc tướng Long Vân[35] tỉnh trưởng Vân Nam về Trùng
Khánh đợi lệnh, và ngày 30-9-45, theo nhiều tin đồn, tướng Tiêu Văn và tướng Lư
Hán nhận nhiều quà tặng như bộ đồ hút thuốc phiện bằng vàng"[36]
Những
tin đồn này, không phải là vô bằng cớ.
Francois
Guillemot, ghi lại tin tức của tình báo Pháp:
"Tướng
Lư Hán, Tư lệnh quân đội Trung Hoa tại Việt Nam, trước ở dưới quyền Long Vân,
kẻ thù của Tưởng Giới Thạch. Sau khi quân đội quốc gia chiếm Vân Nam, Tưởng
Giới Thạch ra lệnh cho Lư Hán bắt Hồ Chí Minh, và thay thế chính phủ của Hồ Chí
Minh bằng chính phủ của Nguyễn Hải Thần. Sau những thương lượng mờ ám (Hồ Chí Minh
trước đã ra lệnh quyên "tuần lễ vàng", sau biếu Lư Hán một lư hương
và hai con hạc, tất cả cân nặng 25 kg), Hồ Chí Minh được tha và các tướng Tàu
gửi một bản báo cáo lên Tưởng Giới Thạch nói rằng Việt Minh rất được lòng dân
và đề nghị một giải pháp trung hạn là lập một chính phủ trong đó có đủ các
thành phần chính trị Việt Nam."[37]
Tình
hình nguy hiểm của Hồ Chí Minh, cũng được cựu hoàng Bảo Đại kể lại:
"Hoàn
cảnh mỗi ngày một khó khăn cho Hồ Chí Minh. Tự cảm thấy bất an, ông ta thay đổi
chỗ ở hàng đêm, để ngủ ở những ngôi nhà trưng dụng rải rác khắp trong thành
phố. Ông ta vẫn đặt tín nhiệm hoàn toàn nơi tôi và chỉ riêng một mình tôi được
biết chỗ ngủ của ông ta.
Ông
tỏ ra lo ngại rất nhiều cho sự an ninh của tôi, hơn cả chính tôi nữa."[38]
Hoàng
Văn Hoan viết tiếp:
"Để
Tiêu Văn và Lư Hán bớt lo ngại, ngày 11-11-1945, Hồ Chủ Tịch công khai tuyên
bố: "Đảng Cộng Sản Đông Dương tự giải tán", người cộng sản sẽ là
những hội viên của "Hội nghiên cứu chủ nghiã Mác". Về việc này, tôi
được phái vào các tỉnh Khu bốn để giải thích cho các Đảng bộ biết, vì thời cục
chúng ta phải tuyên bố như vậy, nhưng Đảng vẫn tồn tại, vẫn bí mật hoạt động để
lãnh dạo nhân dân đấu tranh.
Viêc
tuyên bố Đảng Cộng sản tự giải tán đã làm cho tình hình bớt căng thẳng.
Ngày
19 tháng 11, Tiêu Văn lấy danh nghiã đại biểu Trương Phát Khuê đứng ra tổ chức
một cuộc hội nghị hoà giải có Quốc dân đảng, Việt Nam cách mạng đồng minh hội
và Việt Minh tham gia. Sau khi bàn bạc, cả ba phái đều thoả thuận thành lập một
Chính phủ liên hiệp, quân đội các bên không dùng vũ lực giải quyết các vấn đề bất
đồng, đồng thời chấm dứt việc công kích nhau trên báo chí."[39]
Hoàng
Văn Hoan cũng không quên nhắc lại công lao của Tiêu Văn đối với Việt Minh:
"Trong
việc đấu tranh với Việt Quốc, Việt Cách, nếu Tiêu Văn không đóng một vai trò
dàn xếp đắc lực, không công nhận vai trò quan trọng của Hồ Chủ tịch trong Chính
phủ liên hiệp, thì tình hình Việt Nam lúc đó có thể phát triển theo chiều hướng
khó khăn cho cách mạng nhiều hơn"[40]
Tất
cả những điểm này đều đúng như sự việc đã xảy ra, và giải thích tại sao Hồ Chí
Minh chấp nhận dễ dàng việc lập chính phủ Liên hiệp và việc ông giải thể Đảng
Cộng sản.
Ngày
11-11-45: Đảng Cộng sản Đông dương tuyên bố tự giải tán, trở thành Hội Nghiên
cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương.
Ngày
19-11-45, một văn kiện thứ nhất, ký giữa ba bên: Việt Quốc, Việt Cách và Việt
Minh, đồng ý một nguyên tắc chung tối cao của cuộc hợp tác giữa ba đảng
do Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh và Hồ Chí Minh đồng ký.
Ngày
24 tháng 11 năm 1945, một văn kiện thứ nhì, được gọi là Tinh thành đoàn kết,
mở rộng hơn với sáu đại biểu ký nhận: Nguyễn Hải Thần, Hồ Chí Minh, Vũ Hồng
Khanh, Lê Tùng Sơn, Cù Huy Cận, Phan Trâm.
Ngày
1-1-46 Chính phủ Liên hiệp Lâm thời ra mắt tại nhà Hát Lớn Hà Nội.[41]
Chính
phủ Liên hiệp Lâm thời, chỉ có ba ghế dành cho đối lập là: Nguyễn Hải
Thần, Nguyễn Tường Long và Trương Đình Trí.
Trên
báo Việt Nam, đối lập đòi một Chính phủ Liên hiệp đúng nghiã.
Ngày
24-2-46, thỏa hiệp thành lập Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được ký tại
sứ quán Trung Hoa[42].
Ngày
2-3-1946, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến ra mắt tại nhà Hát Lớn[43].
Chính
phủ Liên hiệp Kháng chiến thực sự có các thành phần đảng phái khác nhau.
Theo
François Guillemot:
"Ngày
10-2-1946, Việt Nam Quốc Dân Đảng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm thứ 16 ngày
VNQDĐ khởi nghiã ở Yên Bái với diễn binh và biểu tình. Trong không khí tưng
bừng, Nguyễn Tường Tam, nhà văn mà hào quang không hề giảm trong quần chúng,
chính thức về tới Hà Nội ngày 12-2-1946 cùng với Nghiêm Kế Tổ. Sự trở về của
ông được chào mừng bằng một buổi đại hội của Việt Nam Quốc Dân Đảng"[44]
Vẫn
theo François Guillemot, một note của tình báo Pháp [Trung tá Reption-Preneuf,
Chủ nhiệm Phòng nhì (deuxième bureau)] cho biết sắp có cuộc đảo chính đưa
Nguyễn Tường Tam lên nắm chính quyền. Một nguồn khác nói đến Trần Trọng Kim hay
cố vấn Vĩnh Thụy. Nhờ Tiêu Văn, giải pháp lật đổ Hồ Chí Minh được bỏ qua, nhưng
vị trí của Hồ Chí Minh lúc đó khá bấp bênh[45].
Một
mặt khác, Tưởng Giới Thạch bước vào tình thế phải đương đầu với Mao Trạch Đông,
đang mạnh dần, nên đã điều đình với Pháp, để rút quân về: Ngày 28-2-46,
Pháp-Hoa ký hiệp ước Trùng Khánh: Pháp trả lại Tàu một phần lãnh địa đã chiếm
và Tàu thừa nhận chủ quyền Pháp ở Đông Dương. Quân Tưởng sẽ rút lui từ ngày 1
đến 15-3-46 để cho quân Pháp tiến ra Bắc. Có thể cả hai bên quốc cộng ở Việt
Nam lúc đó, nhiều người chưa biết có hiệp ước Trùng Khánh.
Chính
phủ Liên Hiệp Kháng Chiến
Ngày
6-1-46, bầu cử quốc hội. Tất cả có 356 ghế. Các đảng phái quốc gia chống tổng
tuyển cử, không tham dự.
Ngày
2-3-1946, Quốc hội họp khoá đầu ở nhà Hát Lớn Hà Nội, chấp thuận dành 70 ghế
cho khối quốc gia (do điều đình), nhận sự từ chức của Chính phủ Lâm thời (thành
lập ngày 1-1- 46) và xác định thành phần Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Đồng
thời thành lập:
-
Ban Cố vấn tối cao do Vĩnh Thụy làm Chủ tịch.
-
Uỷ ban kháng chiến gồm 9 uỷ viên, Chủ tịch Võ Nguyên Giáp, Phó Chủ tịch Vũ Hồng
Khanh – Uỷ ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch là Nguyễn Văn Tố.
Thành
phần Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến gồm có:
Chủ
tịch: Hồ Chí Minh; Phó Chủ tịch: Nguyễn Hải Thần; Ngoại giao: Nguyễn Tường Tam
(Việt Quốc); Nội vụ: Huỳnh Thúc Kháng (Trung lập); Kinh tế: Chu Bá Phượng (Việt
Quốc); Tài chính: Lê Văn Hiến (Việt Minh); Quốc phòng: Phan Anh (Trung lập); Y
tế: Trương Đình Trí (Việt Cách); Giáo dục: Đặng Thai Mai (Việt Minh); Tư pháp:
Vũ Đình Hoè (Đảng Dân chủ); Công chính: Trần Đăng Khoa (Đảng Dân Chủ); Canh
nông: Bồ Xuân Luật (Việt Cách)[46].
Đây
là một chính phủ liên hiệp đúng nghĩa.
Theo
Nguyễn Tường Bách, quốc hội giữ lại cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ và bài Tiến
quan ca làm quốc ca, ông phân tích tình hình lúc bấy giờ:
"Việc
làm trước nhất là phải hô hào các đảng phái đình chỉ xung đột… Ở một vài khu,
xung đột võ trang đã tạm ngưng… Nhưng ở nhiều nơi thì họ vẫn choảng nhau như
thường… Báo Việt Nam thì vẫn bút chiến với những báo của nhà nước… Thống nhất
quân đội vẫn là việc hắc búa nhất. Kết quả hiển nhiên là anh Vũ Hồng Khanh và
vài người khác đều ngồi ở bàn giấy Bộ Quốc Phòng bên cạnh anh Giáp (…)
Việc
thành lập Chính phủ Liên hiệp đáng lẽ phải là một bước lớn trong việc [đoàn
kết] này. Nhưng trong lúc ấy cả phe Việt Minh lẫn phe Quốc gia đều cảm thấy
có hai địch thủ trước mặt, một là phe bên kia và một là Pháp. Nhưng Pháp thì
hãy còn xa[47] mà phe bên kia thì ở ngay sát
nách. Việc đoàn kết thuần tuý không thể có và không bao giờ tồn tại. [Chúng
tôi in đậm] Phe Quốc gia vẫn muốn dựa vào quân Tưởng để đoạt lấy quyền hay
ít ra cũng chiếm lấy một địa bàn rộng làm căn cứ (…) Còn Việt Minh đã dùng một
sách lược vô cùng khôn khéo, lợi dụng sự triệt thoái của quân Trung Hoa, tiêu
diệt địch thủ trước khi quân Pháp mở cuộc tấn công lên miền Bắc. Vả lại lực
lượng của họ mạnh hơn phe Quốc gia quá nhiều nên làm thế không phải là khó
khăn."[48]
Theo
François Guillemot, về phía đảng bộ Việt Minh, một bản thông cáo của Uỷ ban
Trung ương, được phát hai ngày trước khi khi ký hiệp định Sơ bộ. Khoản VIII,
nhấn mạnh:
"Giải
pháp "đánh đến cùng" không những làm yếu sức và cô lập chúng ta, mà
còn có cơ giúp cho bọn Nguyễn Hải Thần, bọn phản động Việt Quốc nắm được chính
quyền thực sự để bán nước cho thực dân Pháp". Khoản IX, điều 2,
ghi:
"Dùng
thời gian hoà hoãn với Pháp để tiêu diệt bọn phản động ở trong nước – tay sai
của Tàu Tưởng – và trừng phạt những hành động khiêu khích nhằm gây chia rẽ giữa
ta và Pháp"[49]
Báo
Việt Nam
Từ
ngày Việt Minh lên nắm chính quyền ngày 19-8-45, nhóm Tự Lực không động tĩnh gì
trong gần hai tháng, có lẽ còn chờ tin tức Nhất Linh và Hoàng Đạo đang ốm
thương hàn.
Nhưng
đến giữa tháng 10-45, họ có quyết định ra báo, đó là tờ Việt Nam thời báo,
số 1 ra ngày 22-10-45, do Nguyễn Trọng Trạc, một đảng viên Đảng Xã hội (ôn hoà)
làm Giám đốc, Trần Khánh Giư, chủ bút. Tờ báo này có tính cách thăm dò, chưa ra
mặt chống đối Việt Minh, Nguyễn Tường Bách viết:
"Về
mặt công khai, chúng tôi với anh Nguyễn Trọng… [Trạc] quyết định ra một
tờ báo hàng ngày lấy tên là Việt Nam [thời báo]. Chủ yếu là đăng tin tức
và hô hào bảo vệ độc lập, chống đế quốc, phong kiến"[50].
Việt
Nam thời báo ra đến số 20 (14-11-45), đột nhiên ngày
hôm sau trở thành tờ Việt Nam, Cơ quan của Việt Nam Quốc Dân
Đảng. Số 1 (15-11-45), in hai văn bản quan trọng là Tuyên Ngôn của Việt
Nam Quốc Dân Đảng và Lời kêu gọi các anh em cách mệnh trong Việt Minh,
trên trang nhất.
Nguyễn
Tường Bách giải thích:
"Việc
ra công khai của đảng tại Hà Nội và nhiều tỉnh đòi hỏi tăng cường công tác
tuyên truyền. Ngoài việc truyền thanh và rải truyền đơn ra, cần phải có một tờ
báo để phổ biến cương lĩnh chính trị và đường lối của đảng, cùng mọi tin tức về
hoạt động các nơi. Đứng trước nhu cầu và sau khi bàn luận với anh Hoàng Đạo,
tôi và Khái Hưng liền thực hành ngay một hành động rất cách mạng: đổi ngay tờ
Việt Nam thời báo sang tờ "Việt Nam Cơ quan ngôn luận của VNQDĐ" mà
không báo trước cho ông chủ nhiệm là Nguyễn Trọng Trạc biết, vì sợ nếu Trạc
phản đối thì sẽ kéo dài thời giờ."[51]
Dĩ
nhiên là Nguyễn Trọng Trạc phản đối và đòi bồi thường thiệt hại.
Tờ
Việt Nam, không đề tên chủ bút, chủ nhiệm, và trị sự. Tuy nhiên, theo
Nguyễn Tường Bách, ông được "Trung ương đặt làm chủ nhiệm kiêm chủ bút",
và ông viết:
"Làm
báo Việt Nam, quả là một cuộc đấu chọi rất găng hàng ngày. Luôn luôn phải tìm
ra những vấn đề gay go, phải công kích những luận điệu xuyên tạc của tờ Cờ Giải
Phóng hay tờ Độc Lập"[52]
Nội
dung tờ báo đối lập đầu tiên
Tờ
Việt Nam phản ảnh tình trạng gay go lúc bấy giờ giữa hai bên quốc-cộng.
Việt
Nam số 1 (15-11-1945) in Bản Tuyên Ngôn của Việt Nam Quốc Dân
Đảng lên đầu, đây là một bản "hiệu triệu quốc dân", ý nói: sau
bao nhiêu năm tranh đấu bí mật "hôm nay Việt Nam Quốc Dân Đảng mới được
đường hoàng công khai ra mắt quốc dân". Gợi lại sự hy sinh của những
vị anh hùng trong quá khứ: Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Ký Con, Xứ Nhu, Lê
Hữu Cảnh và các anh em khác; và giới thiệu hai lãnh tụ mới: Nguyễn Hải Thần và
Vũ Hồng Khanh (lúc đó Nguyễn Tường Tam chưa về); chỉ trích Việt Minh "trong
hai tháng qua [tháng 9 và tháng 10-45] đã thi hành một chính sách sai
lầm", "đã khủng bố các chính đảng"… Và đề nghị một
"chính sách đoàn kết dân tộc của Việt Nam Quốc Dân Đảng"…
Tiếp
đó là bài Lời kêu gọi các anh em Cách mệnh trong Việt Minh, với chủ đích
"chiêu hồi", kéo người "bên kia" về với mình. Bài thứ ba,
đóng khung, bên phải, tựa đề: "Chủ trương của Việt Nam Quốc dân
đảng", nêu ra chín điểm kêu gọi đoàn kết giữa các chính đảng để đánh
Pháp.
Việt
Nam số 2 (17-11-45), giọng đặc biệt công kích, với hai cái tựa:
"Cần phải đả đảo chính sách khủng bố" và "Những thủ
đoạn phát xít của Việt Minh".
Việt
Nam số 4 (18-11-45), giọng hòa hoãn: "Thế nào là một chính
phủ liên hiệp quốc gia chân chính", vì lúc đó Tiêu Văn đã bắt đầu
"buộc" hai bên hoà giải.
Việt
Nam số 10 (25-11-45) số đặc biệt về tinh thần đoàn kết, với
những cái tựa: Ý nghiã sự đoàn kết của đại biểu VNQDĐ; Ngày đoàn kết; Các
đảng phái hãy đoàn kết… Đặc biệt in lại hai văn bản quan trọng, có tính
cách lịch sử:
-
Văn bản thứ nhất, ký ngày 19-11-45, giữa ba bên: Việt Quốc, Việt Cách và Việt
Minh.
Bản
ký kết ngày 19-11-45.
Nguyên
tắc chung tối cao của cuộc hợp tác giữa: Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội, Việt
Nam Quốc dân đảng và Việt Minh do Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh và Hồ Chí Minh
là đại biểu của ba đoàn thể kể trên:
1-
Thành lập một chính phủ nhất trí, tổ chức quân sự tối cao (bao quát: danh xưng,
tổ chức hệ thống, sắp đặt nhân sự và quốc huy quốc kỳ, vân vân).
2-
Định rõ chính cương, chính sách, phát biểu, tuyên ngôn liên hợp (bao quát:
nguyên tắc kiến quốc tối cao, ngoại giao, nội chính và chính sách đối với Hoa
kiều, vân vân).
3-
Hết thảy quân đội phải thuộc về quốc gia (bao quát: các đảng, các phái phải đem
võ lực của mình ra, chớ không có thể tự kiến quân riêng).
4-
Chỉ nói đến sự sinh tồn của quốc gia chớ không được nói đến những sự tranh dành
của đảng phái (bao quát: hết thảy các đảng phái phải y theo quy tắc được tự do
phát triển, hỗ tương báo chứng, không được dùng thủ đoạn phi pháp để phá hoại
đối phương).
5-
Triệu khai hội nghị quân sự (bao quát: thương thảo việc tiến quân vào Trung Nam
bộ và vấn đề kiến quân về hết thảy mọi phương diện.
6-
Quyết không đổ máu giữa người Việt Nam với người Việt Nam.
7-
Kiên quyết huỷ diệt các xí đồ [mưu kế] thực dân của đế quốc Pháp
để dành lấy sự độc lập hoàn toàn của Việt Nam.
Ký
tên:
Nguyễn
Hải Thần
Hồ
Chí Minh
Vũ
Hồng Khanh."
-
Văn bản thứ hai là Tinh thần đoàn kết, tức Tinh thành đoàn kết,
là bản cam kết ngày 24 tháng 11, có sáu đại biểu ký nhận:
"Ngày
24 tháng 11 năm 1945 sáu đại biểu là:
Nguyễn
Hải Thần
Hồ
Chí Minh
Vũ
Hồng Khanh
Lê
Tùng Sơn
Cù
Huy Cận
Phan
Trâm [Nguyễn Tiến Hỷ]
Khai
hội thảo luận việc đoàn kết để cứu quốc. Trong cuộc thảo luận, các đại biểu đều
khai thành bố công rất là thắm thiết.
Lúc
khai hội rồi các đại biểu đồng ý mấy điều sau này:
1-
Hai bên đều đăng báo không được công kích lẫn nhau bằng lời nói và bằng hành
động.
2-
Hai bên đều kêu gọi đoàn kết.
3-
Hai bên đều kêu gọi ủng hộ kháng chiến ở Nam bộ
4-
Hai bên đều phụ trách thực hiện ba điều trên đó.
Những
việc thảo luận hai bên sẽ đồng thời tuyên bố sau.
Ký
tên:
Nguyễn
Hải Thần Hồ Chí Minh
Phan
Trâm Vũ Hồng Khanh
Lê
Tùng Sơn Cù Huy Cận"
Hai
văn bản này đánh dấu sự cộng tác đầu tiên giữa hai bên quốc cộng. Tiếc rằng sự
đoàn kết và những điều hứa hẹn trong hai văn bản lịch sử này chỉ mấy tháng sau
là bị bỏ qua.
Việt
Nam số 20 (7-12-45), trở tại trở lại giọng bút chiến, đả phá chương
trình Tổng tuyển cử do chính phủ Hồ Chí Minh đề ra, với bài Một cuộc
tổng tuyển cử giả mạo.
Cuối
tháng 12-45, khi việc thành lập Chính phủ Liên hiệp Lâm thời, sắp hoàn tất, Việt
Nam số 36 (26-12-45), đăng bài: Một kết quả đáng mừng cho dân tộc – Việc
thành lập một chính phủ liên hiệp sẽ thực hiện. Và Việt Nam số 40
(30-12-45) có bài góp ý với chính phủ mới: Chính sách của chính phủ cần phải
thay đổi- Vấn đề tự do dân chủ.
Việt
Nam số 41 (1-1-46) đăng tít lớn: Sáng hôm nay 1-1-1946 đúng
tám giờ tại nhà Hát Lớn toàn thể Chính phủ Liên hiệp quốc gia lâm thời Việt Nam
sẽ làm lễ tuyên thệ tựu chức. Xin mời dân chúng đến dự thực đông để làm tôn
phần long trọng cho cuộc lễ. Và Việt Nam số 42 (3-1-46) có bài tường
thuật: Lễ tựu chức của Chính phủ Quốc gia Liên hiệp Lâm thời
Buổi
lễ "long trọng" này không khoả lấp được những đòi hỏi của Việt Quốc
và Việt Cách, tựu trung họ chỉ có ba ghế: Nguyễn Hải Thần (Phó Chủ tịch),
Nguyễn Tường Long (Bộ trưởng Kinh tế) và Trương Đình Trí (Bộ trưởng Y tế),
trong một chính phủ 16 ghế.
Nửa
tháng sau, báo Việt Nam số 53 (16-1-46), in chân dung Nguyễn Tường Tam,
với lời giới thiệu long trọng:
"Báo
Việt Nam trân trọng báo cáo để anh chị em đồng chí và quốc dân đồng bào biết
rằng anh Nguyễn Tường Tam, một đảng viên V.N.Q.D.Đ. sau 5 năm hoạt động cách
mệnh ở hải ngoại đã trở về nước để phụng sự tổ quốc trong công cuộc dành độc
lập và kiến thiết quốc gia".
Báo
Việt Nam giới thiệu chân dung nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam, lưu vong 5
năm, nay đã trở về để phụng sự tổ quốc. Thực ra, theo Nguyễn Tường Bách,
cuối tháng 11-45, Nguyễn Tường Tam đã về đến Hà Nội, nhưng đến ngày 16-1, mới
ra mắt công khai.
Báo
Việt Nam số 60 (24-1-46), giới thiệu Nghiêm Kế Tổ, với những lời nồng
nhiệt không kém: "Báo Việt Nam trân trọng báo để quốc dân biết đồng chí
Nghiêm Kế Tổ, Uỷ viên ngoại giao của Việt Nam Quốc Dân Đảng đã về nước. Đồng
chí Nghiêm Kế Tổ đã đáp máy bay từ Trùng Khánh về tới Hà Nội, sau 16 năm phấn
đấu không ngừng cho cách mệnh và Tổ quốc". Và số 61 (25-1-46)
in bức vẽ phác Nghiêm Kế Tổ. Đây cũng là một tuyên truyền chính trị, vì Nghiêm
Kế Tổ cũng đã về nước từ cuối tháng 11, nay mới công khai ra mặt.
Kể
từ hạ tuần tháng 1-46, báo Việt Nam trở lại vai trò của một tờ báo đối
lập quyết liệt hơn.
Số
55 (18-1-46),
có bài Sự bất lực của ba bộ quan trọng nhất trong Chính phủ Lâm thời, chỉ
trích sự bất lực của Trần Huy Liệu trong chức Bộ trưởng Tuyên truyền, Chu Văn
Tấn được đưa ra làm Bộ trưởng Quốc phòng để làm vì, bởi vì Võ Nguyên Giáp kiêm
cả hai bộ Nội vụ và Quốc phòng. Và bài Một toán quân nhiễu loạn đánh úp Việt
Trì – Chúng tôi chất vấn cụ Hồ và ông Võ, bài này tố cáo Việt Minh đánh úp
Quốc Dân Đảng ở Việt Trì.
Số
56
(19-1-46), có bài: Dân chủ hay độc tài? Một chính phủ trong đó một người
kiêm giữ cả hai bộ Nội vụ và Quốc phòng có thể bị ngờ vực là một chính phủ độc
tài lắm.
Bài
này vẫn công kích Trần Huy Liệu và Võ Nguyên Giáp, được coi là có công nhất
trong vụ "cướp chính quyền", nhưng "chính phủ lâm thời, hay
nói thẳng là chính phủ Giáp-Liệu là một chính phủ độc tài mất rồi
(…) bộ Nội vụ và bộ Quốc phòng ở dưới quyền chỉ huy của một người"
(ý nói ông Chu Văn Tấn làm Bộ trưởng Quốc phòng "bù nhìn", ông Giáp
kiêm cả Nội vụ lẫn Quốc phòng) "Và người ta ngờ rằng cả chức Tổng tư
lệnh quân đội cũng ở trong tay ông (…) Ông Giáp chỉ có thể là một nhà độc tài
và chính phủ trong đó bao nhiêu quyền binh ở trong tay một hay hai người, chỉ
có thể là một chính thể độc tài." T.L.
Không
cần phải đoán cũng biết T.L. là Tường Long, qua giọng văn cứng rắn của một
chính trị gia, và cũng chỉ có Nguyễn Tường Long mới đủ tư thế chính trị để chạm
đến hai ông Giáp, Liệu. Hai người này đã có chân trong hai chính phủ đầu tiên
của cụ Hồ: Chính phủ Lâm thời (30-8-45) và chính phủ Liên hiệp Lâm thời
(1-1-46). Rất có thể vì bài này mà tới khi thành lập Chính phủ Liên hiệp Kháng
chiến, cả hai ông Liệu-Giáp đều rút lui.
Việt
Nam
số 62 (26-1-46) đòi hỏi việc thành lập Chính phủ Liên hiệp Chính thức.
Số
64,
Tết Bính Tuất (30-1-1946) ngoài ba bài Những ngày phiêu bạt của Hồ Lễ, Tết
đầu tiên ở hải ngoại của Nguyễn Tường Tam và Ả Hẩu của Đỗ Tốn, đã
giới thiệu trong chương trước, còn có truyện ngắn Tây xông nhà của Khái
Hưng; Mấy lời chúc tết của Nguyễn Hải Thần; tổng kết Một năm lịch sử
của Nguyễn Tường Bách; Một giai thoại về bói Kiều với Nguyễn Thái Học Tết
Canh Ngọ của Vũ Hoằng, và Đảo Côn Lôn của Xuân Tùng.
Đầu
tháng 3-1946, có biến cố quan trọng là việc thành lập Chính Phủ Liên hiệp
Kháng chiến.
Việt
Nam số 88 (3-3-46) đưa tít: Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến đã
thành lập hôm qua. Và trang trọng đăng danh sách Chính phủ Liên hiệp Kháng
chiến, thành lập ngày 2-3-46.
Số
89
(5-3-46) hô hào: Đoàn kết! Chỉ có một con đường sống là đoàn kết chặt chẽ.
Ngày
9-3-1946, Hiệp định Sơ bộ được ký kết.
Việt
Nam
số 93 (9-3-46) lập tức có bài Phê bình hiệp định sơ bộ Việt Pháp và phụ
khoản đính kèm bản hiệp định ấy. Những số báo tiếp theo tiếp tục chống đối
bản hiệp ước và nêu ra những ý muốn không tốt của người Pháp.
Việt
Nam
số 97 (14-3-46) sự chống đối Pháp trỏ nên quyết liệt vói bài: Bản hiệp định
sơ bộ coi như đã bị xé. Chính phủ Việt Nam phải lập tức tìm cách đối phó. Bài
này ký tên Vũ Hoàng nêu lên 5 điểm Pháp đã vi phạm hiệp định sơ bộ và yêu cầu
chính phủ tìm cách đối phó, nếu không bản hiệp định coi như đã bị xé.
Số
98
(15-3-46): Có bài: Ông Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam đã yêu
sách Đô Đốc d’Argenlieu mở cuộc đàm phán chính thức, và phản kháng việc quân
Pháp đang tập trung ở khắp các mặt trận.
Số
100
(17-3- 46), có bài: Muốn tránh khỏi cái vạ diệt vong, cái nhục nô lệ, chỉ có
một con đường: Cương quyết kháng chiến. Và đăng Bài diễn văn của ông Bộ
trưởng Nguyễn Tường Tam đọc trước các nhà báo Hoa, Mỹ, Việt. Bài diễn văn
này phản đối thái độ của Pháp, mặc dù đã ký Hiệp định Sơ bộ nhưng vẫn tiếp tục
gây hấn ở Trung bộ và Nam bộ, ngăn cản việc tổ chức hoà đàm [ý nói việc tổ chức
hội nghị Đà Lạt] để dẫn đến một nước Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp
Pháp, như đã giao ước.
Số
112
(31-3-46): Có bài Chủ nghiã tùy cơ ứng biến của Thực dân Pháp, mấy lời tâm
huyết ngỏ cùng chính phủ và đồng bào quốc dân, bài này chắc Hoàng
Đạo viết, tha thiết nói với quốc dân về sự tùy cơ ứng biến trong chính
sách của thực dân, và khi nào dân tộc ta đoàn kết thì thắng, khi nào dân tộc ta
chia rẽ thì thất bại.
Và
bài: Phỏng đoán những lý do lời đề nghị của ông D’Argenlieu trì hoãn
hòa đàm chính thức. Bài này muốn vạch trần lý do trì hoãn việc tổ chức hội
nghị trù bị Đà Lạt của D’Argenlieu. Đó là số báo Việt Nam cuối cùng
chúng tôi có được.
Tựu
trung, Việt Nam là tờ báo đối lập có trách nhiệm, thường chĩa mũi dùi
vào thực dân Pháp hơn là chống chính phủ. Dù có đả kích hai ông Giáp-Liệu,
nhưng không động tới cụ Hồ.
Sau
này, Nguyễn Tường Bách viết cảm tưởng của ông về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hồi
ký, như sau:
"Tôi
được gặp mặt chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên trong một bữa tiệc do Chính phủ
chiêu đãi. Dự dạ tiệc có nhiều Tướng tá Trung hoa và nhiều nhân vật có danh
tiếng. Ấn tượng của người cách mệnh kiên cường Nguyễn Ái Quốc vẫn ghi sâu trong
trí óc tôi. Ngày nay, sau bao năm bị đế quốc truy nã, người ấy đã lãnh đạo được
dân chúng Việt Nam đoạt được độc lập; đánh đổ được chế độ phong kiến. Dù người
ta không ưa Cộng sản thế nào đi nữa, không ai phủ nhận được trí bất khuất và
tài lãnh đạo của ông.
Trong
thâm tâm, tôi không không hề phản đối công nông được giải phóng, ít nhiều chúng
tôi đã chịu ảnh hưởng của những sách báo nói về Liên Xô. Éo le là tại sao lại
bị lôi cuốn vào hàng ngũ đối lập… Với lòng hiếu kỳ lẫn khâm phục, tôi nhìn
người chiến sĩ gầy và hơi thấp, với đôi mắt sáng, với bộ quần áo kaki vàng giản
dị, một ông già có thể gọi là mẫu mực Việt Nam".[53]
Tờ
Việt Nam ra đến đầu tháng 12-46 thì ngừng, theo quảng cáo in trên báo Chính
Nghiã.
Nguyễn
Tường Bách phụ trách tờ Việt Nam cùng với Khái Hưng đến tháng 2-46, thì
được chuyển lên làm ở Trung Uơng đảng bộ. Một mình Khái Hưng phụ trách tờ Việt
Nam, có Chàng lẩn thẩn giúp sức. Chàng lẩn thẩn là một người
khác, không phải Khái Hưng như hầu hết mọi người đều lầm tưởng.
Đến
tháng 5-46, Khái Hưng cho ra thêm tờ tuần báo lấy tên là Chính Nghiã, số
1 ra ngày 20-5-46, với sự cộng tác của Nhượng Tống. Chính Nghiã sẽ là tờ
báo sau cùng của Khái Hưng, số chót 28 ra ngày 16-12-46. Ngày hôm sau,
17-12-46, Khái Hưng đưa gia đình về quê vợ, làng Dịch Diệp, Nam Định. Từ đó ông
không trở lại văn đàn nữa. Về những ngày tháng và các tác phẩm sau cùng của
Khái Hưng, chúng tôi sẽ trình bày trong chương tới.
Hiệp
định sơ bộ và hậu quả
Ngày
6-3-1946, Hiệp định Sơ bộ được ký kết giữa Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh và
Sainteny với hai điều khoản chính:
1-
Pháp nhìn nhận Việt Nam là một nước tự do, tự trị, trong Liên Bang Đông Dương
và Liên Hiệp Pháp.
2-
Việt Nam sẵn sàng đón tiếp quân Pháp đổ bộ thay thế quân đội Trung Hoa.
Ngày
hôm sau, 7-3-46, một cuộc mít tinh được tổ chức trước nhà Hát Lớn để giải thích
về việc ký Hiệp định Sơ bộ, Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh lên tuyên bố vắn
tắt, Hồ Chí Minh chấm dứt bài diễn văn bằng lời thề nổi tiếng: "Tôi thà
chết chứ không bao giờ bán nước"[54]. François Guillemot viết:
"Những
người quốc gia, đặc biệt Việt Nam Quốc Dân Đảng, đã từng thấy các liệt sĩ hy
sinh ở Yên Bái, không thể chịu nổi. Đảng của Nguyễn Thái Học trở lại phương
pháp bạo động. Sau khi [Hồ Chí Minh] dứt lời, ngày 7-3, một thanh niên
tên Văn ném một trái lựu đạn lên khán đài nhưng không trúng ai. Anh ta bị Công
An Việt Minh bắt ngay cùng với ba người cầm lựu đạn khác. Những trái lựu đạn
này chắc chắn nhắm vào Hồ Chí Minh và chính phủ của ông. Việt Minh điều tra cho
rằng Giáo Mười tức Hùm Xám (Đặng Tử Kính), người cầm đầu ban Ám sát của Quốc
Dân Đảng chủ mưu. Hành động đầu tiên này chứng tỏ, một phần của Quốc Dân Đảng
đã quyết định, bằng mọi giá, phải chiếm lại chính quyền bằng võ lực"[55].
Theo
Võ Nguyên Giáp thì kẻ ném lựu đạn quên mở chốt, bị bắt ngay và việc này xảy ra
trước khi đọc diễn văn[56].
Nguyễn
Tường Bách viết:
"Ngay
sau khi công bố hiệp định, lập tức có một số anh em tụ tập hô to khẩu hiệu phản
đối: Hiệp định đầu hàng… Hội đồng chuột… Mấy hôm sau, mấy trăm người tự động
biểu tình chống đối Hiệp định. Khi họ đi qua bót cảng sát Hàng Đậu thì xẩy ra
xung đột giữa cảnh sát và quân tự vệ. Một số người bị bắt giam"[57]
Võ
Nguyên Giáp viết:
"Ta
nhận cho mười lăm ngàn quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam trong một thời gian được
quy định, để tống đi khỏi đất nước mười tám vạn quân Tưởng tàn ác, đã từng
tuyên bố ở lại đây vô thời hạn"[58].
François
Guillemot cho biết: "Một văn kiện Pháp chỉ định rõ ràng trước, sự kiện "sự
hiện diện của quân đội Pháp là vô thời hạn" [in đậm trong nguyên
bản]. Như vậy, trái hẳn với sự truyên truyền: trong năm năm quân Pháp sẽ rút
dần hết, chỉ giữ lại binh đội đặc biệt, bảo vệ các căn cứ hải quân và không
quân". Ngày 8-3-46, hội nghị quân sự đầu tiên giữa Võ Nguyên Giáp và các
đại tá Lecomte và Repiton-Preneuf để chuẩn bị sự trở lại của quân đội Pháp.
Sáng 9-3-46, những xe thiết giáp đầu tiên của Pháp đổ bộ lên Hải Phòng. Hai đại
diện của chính phủ Việt Nam tới tận nơi để "chúc mừng Tướng Leclerc trên
tầu Emile Bertin"[59].
Sau
Hiệp định Sơ bộ, phản ứng của đối lập tức thời và mãnh liệt:
Ngày
13-3-46, Nguyễn Hải Thần và quân đội Việt Cách rút về chiến khu Lạng Sơn trong
vùng Thất Sơn, Yên Lạp, Thái Nguyên, thiết lập chính phủ ly khai; quân đội Việt
Cách đặt dưới sự điều khiển của Vũ Kim Thành có khoảng 3600 người võ trang,
trong có 800 người Nhật, hoạt động trong vùng từ Móng Cái đến Quảng Yên[60].
Việt
Quốc tổ chức biểu tình chống sự đổ bộ của quân Pháp và đòi chính phủ Kháng
chiến phải kháng Pháp thực thụ. Vũ Hồng Khanh ký Hiệp định Sơ bộ bị các đồng
chí "hỏi tội". Việc tham dự chính phủ Liên hiệp của Nguyễn Tường Tam
và Nguyễn Tường Long bị phê phán là ngây thơ.
Ngày
16-3-46, Hồ Chí Minh cử Nghiêm Kế Tổ cầm đầu phái đoàn Việt Nam sang Trung Hoa,
với nhiệm vụ hòa hiếu. Cố vấn Vĩnh Thụy đi cùng với tư cách du lịch.[61] Nghiêm Kế Tổ lúc đó là Thứ trưởng
Ngoại giao, đồng chức với Phạm Văn Đồng; Nguyễn Tường Tam là Bộ trưởng.
Quân
Pháp đến Hà Nội
Ngày
5-10-1945, Tướng Leclerc tới Sài Gòn và tuyên bố sẽ bình định Nam bộ.
Sáu
tháng sau, quân Leclerc ra tới Hà Nội.
15
giờ ngày 18-3-46, đoàn quân viễn chinh Pháp đầu tiên trở lại Hà Nội, gồm 2.200
binh sĩ và 200 chiến xa, giữa sự vỗ tay hoan hô của người Pháp.
Bùi
Diễm viết:
"Trong
mọi tầng lớp, việc Việt Minh cho phép Pháp trở lại vẫn gây ra ấn tượng sâu xa.
Hai tuần lễ sau khi ký kết, lúc tôi đang ở ban công nhà thương Phủ Doãn tại Hà
Nội với một nhóm bạn là bác sĩ, trong số có một vài người là đảng viên Đại
Việt, thì ngay phía dưới 15 ngàn quân Pháp đang diễn hành dưới sự thống lãnh
của tướng Jacques Philippe Leclerc. Nhìn họ, bọn tôi cảm thấy cay đắng dâng
trào. Quang cảnh chẳng khác nào Việt Nam đang trở lại thời kỳ nô lệ. Hai bên
đường các Pháp kiều ngụ tại Hà Nội đứng tung hô. Trên ban công chúng tôi cố
gắng gạt những giọt lệ căm phẫn và tủi nhục"[62]
Guillemot
viết: "Cuộc duyệt binh ngày 22-3-46 gồm những binh đội thiết giáp sáng
chói với sự chủ trì của Võ Nguyên Giáp, Sainteny và Leclerc là điềm báo trước
tương lai đen tối của nước Việt Nam độc lập"[63]
Cuối
tháng 3-46, đại diện Việt Quốc và Việt Cách họp chung, chấp nhận nguyên tắc lật
đổ chính phủ Hồ Chí Minh, nếu chính phủ này đầu hàng Pháp.
Ngày
25-4-46, một buổi họp bí mật ở trụ sở Quốc Dân Đảng, 80 Quan Thánh, giữa Việt
Quốc và Việt Cách, bàn về vấn đề vũ khí khả dụng trong trường hợp bạo động.
Ngày
20-5-46, 500 thành viên Quốc Dân Đảng từ Phúc Yên chuyển về Hà Nội, phân phối
trong các trụ sở Quốc Dân Đảng ở Đỗ Hữu Vị, Duviller, đường Quần ngựa[64].
Hội
nghị Đà Lạt
Tuy
nhiên, Nguyễn Tường Tam vẫn tiếp tục giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong chính
phủ Liên Hiệp. Việc điều đình với Pháp được Hồ Chí Minh trù liệu trong khuôn
khổ hội nghị trù bị Đà Lạt. Nguyễn Tường Tam được cử làm trưởng phái đoàn, Phạm
Văn Đồng làm phó, hội nghị Đà Lạt họp từ 19-4-46 đến 11-5-46.
Hội
nghị Đà Lạt thất bại. Nguyễn Tường Bách nhớ lại:
"Khi
về đến Hà Nội, anh Tam nói: Nó bắt mình đầu hàng… Không thể được… Nhưng
ngay chính trong phái đoàn mình, ý kiến cũng không nhất trí.
Đó
là mầm của sự chia rẽ sau này."[65]
Không
còn ảo tưởng gì về chủ ý của Pháp, Nguyễn Tường Tam từ chối không tham dự hội
nghị Fontainbleau. Nguyễn Tường Bách viết về tình hình nội bộ Quốc Dân Đảng:
"Một
số lãnh tụ trong đảng (…) có ý muốn ở lại trong chính phủ, đa số muốn rút lên
chiến khu vì e bị tiêu diệt bất ngờ cả nhóm. Cuối cùng tất cả đồng ý để tôi và
Vũ Hồng Khanh đi trước để dọn đường. Dù sao việc này đã đánh dấu sự rút lui có
trật tự của Việt Nam Quốc Dân Đảng và bắt đầu sự phân liệt trong khối
"Tinh thành đoàn kết". Chỉ mấy hôm sau, nội chiến đã bùng nổ. Trách nhiệm
về ai trước lịch sử?"[66]
Nội
chiến và sự thất bại của Việt Nam Quốc Dân Đảng
Bị
đẩy đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác giữa đánh Pháp hay đánh lẫn nhau,
Nguyễn Tường Bách kể:
"Cục
thể đã đến lúc quyết liệt. Việt Quốc và Việt Cách họp hội nghị liên tịch. Theo
tình thế dự đoán thì sau khi quân Tưởng rút, quân Pháp sẽ tiến công và chiếm Hà
Nội. Như thế thì phe quốc gia phải lựa chọn: Một là hợp tác đánh Pháp, hai là
lui về các căn cứ để chống Pháp riêng rẽ (…) Đã đến lúc chúng tôi phải định
đoạt lấy vận mệnh của mình. Hội nghị Trung ương quyết định một mặt vẫn duy trì
liên hệ trong chính phủ Liên Hiệp, một mặt củng cố và tăng cường căn cứ ở địa
phương (…) Hội nghị quyết định thành lập bộ chỉ huy Đệ Tam khu [Vĩnh Yên,
Việt Trì, Phú Thọ, Yên Bái] để chỉnh đốn lực lượng và sau này cả Trung ương
cũng sẽ dời lên đó khi cần. Với vài cán bộ trung ương, tôi được cử lên Vĩnh Yên
để giúp việc đảng bộ trên đó".[67]
Nguyễn
Tường Bách "lên chiến khu" với vài vệ sĩ trong "một ngày mưa
đầu tháng 6", cải trang bằng binh phục màu vàng xanh của quân Tưởng để
lọt qua các trạm gác của Việt Minh[68]
Ông
viết: "Lần đầu tiên tôi đặt chân đến một chiến khu mà chúng tôi
tưởng tượng đủ mầu thơ mộng như trong bản nhạc của Văn Cao "Chiều nay trên
chiến khu trong rừng chiều.""[69]
Nguyễn
Thị Thế nhớ lại tình hình căng thẳng lúc bấy giờ:
"Các
anh ít dám đi đâu, có xuống nhà tôi ngắm cảnh hồ cũng phải kè kè có người mang
súng đi theo…
Mấy
tháng sau, một hôm anh Tư [Hoàng Đạo] xuống chơi, vẻ mặt không
vui… Anh gượng cười nói có lẽ sắp phải đi nên hôm nay xuống thăm cô… Lúc tiễn
anh ra cửa tôi thấy hai người hộ vệ đứng ở ngoài ngõ. Đó là lần cuối cùng anh
em gặp nhau…
Ít
hôm sau lại có chú Bẩy [Tường Bách] đã lâu không thấy cũng
đến chơi. Các con tôi chạy lại hỏi tíu tít và thò tay vào túi để tìm kẹo, ai
ngờ lôi ra toàn là đạn. Tôi hỏi tình thế gay go lắm sao mà lúc nào cũng mang
súng với người hộ vệ. Chú bảo hai bên không thể hợp tác với nhau được, người
nào ra đi một mình là mất tích luôn nên phải cẩn thận… Đùa chơi với các cháu
một lúc chú ra về, từ đó tôi cũng không gặp lại."[70]
Nguyễn
Tường Bách viết về cuộc nội chiến:
"Đó
là những ngày đầu tháng 7 năm 1946. Sau mấy hôm ở Vĩnh Yên, nhận thấy địa thế
tỉnh này khó giữ, chúng tôi lên Việt Trì xem xét tình hình (…) Chúng tôi đồng ý
bỏ cứ điểm Vĩnh yên, rút quân lên tập trung ở Việt Trì và Phú Thọ, lập một
phòng tuyến vững chắc hơn và chiếm một địa bàn rộng hơn (…) Vài hôm sau, Việt
Minh nắm lấy thời cơ, tấn công đột ngột vào toàn tuyến từ Vĩnh Yên cho đến Phú
Thọ, Yên Bái và cả Việt Trì nữa. Có lẽ họ muốn làm áp lực bắt Quốc Dân Đảng
phải chấp nhận thống nhất dưới sự chỉ huy chung. Cuộc nội chiến đã bùng nổ.(…)
Lần
đầu tiên trong đời, tôi tham gia vào một cuộc chiến tranh. Nhưng từ trước đến
nay tôi không bao giờ ngờ được lại đánh nhau giữa người Việt Nam với nhau,
trong lúc đáng lẽ phải đánh nhau với thực dân Pháp. Theo ý nguyện của tôi và
nhiều anh em thanh niên lúc đó, mục đích chính là chống Pháp. Nhưng thời cục đã
đưa đẩy như thế. Vì thành kiến và vì thù hận đảng phái, cũng không còn có con
đường nào khác.
Là
một bác sĩ kiêm nhà văn, tôi không hiểu gì về quân sự cũng như nhiều anh em lúc
đó."[71]
Về
tình hình quân đội hai bên, Tường Bách viết: "Quả thật, hai bên đều
không có kinh nghiệm chiến trường. Quân phòng thủ [Việt Quốc] chỉ biết
nằm ở bờ đê mà bắn một cách máy móc mà quân tấn công [Việt Minh] lại nằm
trên ruộng trống không, để làm bia đỡ đạn, bị thương nhiều mà không tiến được
bao nhiêu".[72]
Việt
Quốc thắng một trận nhỏ ở Việt Trì, nhưng bị Việt Minh bao vây, cô lập, đành
phải liều mạng mở đường tiến về Phú Thọ, lại được tin Phú Thọ đã về tay Việt
Minh, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Bách đành quyết định rút lên Yên Bái.
Tháng
6-1946, Nguyễn Tường Long còn ở trong chính phủ Liên Hiệp, đang giữ chức Bộ
trưởng Kinh tế, là đại biểu Quốc Dân Đảng, cùng với Tướng Hoàng Văn Thái, đại
biểu Việt Minh, lên chiến khu điều đình giảng hoà hai bên. Hai anh em gặp lại
nhau trong một hoàn cảnh kỳ lạ:
"Một
điều không ngờ là khi kéo đến gần chỗ rẽ vào Phú Thọ thì gặp ngay chiếc ô tô
của đoàn đại biểu hỗn hợp đương đi xuống Việt Trì. Có lẽ họ chưa biết gì về
tình hình ở đây. Trên xe bước xuống là một đại biểu quân đội Việt Minh, nếu tôi
nhớ không lầm là tướng Hoàng… [Văn Thái] và đại biểu Quốc Dân Đảng không
phải ai xa lạ, chính là anh Nguyễn Tường Long. Những anh em tiền phong đã vây
lấy Hoàng để chất vấn về việc Việt Minh phá hoại tình đoàn kết, tiến công và
chiếm đoạt Phú Thọ, Việt Trì. Chúng tôi thì trách họ lên chậm quá, vô ích. Còn
Hoàng thì xem ra cũng khá sợ hãi trong tình cảnh lọt vào tay địch, mặt tái mét.
Tình
thế này thực khó xử. Quay về Việt Trì thì không đủ khả năng. Sau một cuộc bàn
luận ngắn với anh Long, anh cũng đồng ý tiếp tục rút lên Yên Bái làm cơ sở. Còn
Hoàng thì bị buộc đi trước dẫn đầu, để làm lui những toán quân Việt Minh nào
muốn cản trở". Anh Long cho biết:
"Trung ương hiện nay chỉ có các anh Tam, Chu Bá Phượng… ở lại. Chưa có
quyết sách gì, vẫn còn theo dõi tình thế"[73]
Theo
tin này thì Nguyễn Tường Tam vẫn còn ở Hà Nội tới tháng 6-46.
Liên
tục bị Việt Minh tấn công, "Vũ Hồng Khanh cầm đầu toán đánh thốc lên để
anh Long và tôi đoạn hậu đưa mọi người ra khỏi vòng vây", lợi
dụng tình thế hỗn loạn, Hoàng Văn Thái trốn thoát. Cuối cùng đoàn quân đến được
Yên Bái.
"Sau
cùng chúng tôi quyết định rời bộ chỉ huy Khu Ba, lên Lào Cai cho an toàn hơn."[74]
"Mấy
ngày sau, bỗng có điện từ Hà Nội lên cho biết, lực lượng chính phủ đã bắt đầu
khủng bố các vị trí Quốc Dân Đảng ở Hà Nội, Vĩnh Yên. Yên Bái lại bị tấn công riết.
Tình thế nguy hiểm mà tất cả các nhóm Việt Cách đã rút đi hết. Rồi có tin anh
Tam đã đáp máy bay đi Côn Minh. Bảo Đại cũng đã làm như thế. Thời cục đã xoay
đến chổ phá liệt gay go."[75]
Trong
tình cảnh tuyệt vọng, Nguyễn Tường Long được phái đi Côn Minh gặp Nguyễn Tường
Tam cùng lo việc ngoại giao với Trung Hoa. Trong khi ấy, tình hình Quốc Dân
Đảng ngày càng nguy ngập: Vĩnh Yên ra hàng, Yên Bái bị bao vây chặt… "đâu
đâu cũng cáo cấp xin thêm người và súng" mà không có tin tức
ngoại viện ở Côn Minh, Nguyễn Tường Bách viết: "Trong tình thế này,
không thể ngồi chờ mãi được, anh em quyết định cử tôi sang Vân Nam cầu viện."[76]
Cuối
tháng 7-1946 Nguyễn Tường Bách cùng 6 người vượt cầu sắt Lào Cai-Hà Khẩu, sang
Trung Hoa, ông viết về bước đường cùng của Quốc Dân Đảng:
"Tình
hình ở Việt Nam đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng đã đến giai đoạn cuối cùng. Tất
cả các căn cứ đã mất, trừ Yên Bái và Lào Cai nhưng những nơi này đang bị vây
chặt. Chỉ có cách là đầu hàng giữ lấy một vài chức vụ trong chính phủ Liên
Hiệp, hai là chống cự đến cùng. Nhưng muốn chống cự cần phải có quân và súng
đạn, lại phải có tiền."[77]
Vì
không có những yếu tố này và thêm sự phân liệt nội bộ, Quốc Dân Đảng hoàn toàn
thất bại, những người sống sót phần lớn chạy sang Tàu.
François
Guillemot kết luận: "Việt Minh đã thắng trên mọi bình diện nhờ gặp
thời. Chiến thuật Liên hiệp rồi bóp nghẹt đã thắng. Hiệp ước "cứu
tinh" 6-3 đã khôn khéo cứu Hồ Chí Minh và đảng của ông."[78]
Vụ
Ôn Như Hầu
Ôn
Như Hầu là vụ thanh trừng đối lập, nhưng Hoàng Văn Hoan, không viết một chữ về
vụ này. Hoàng Văn Đào và Võ Nguyên Giáp đối chọi nhau. François Guillemot, sử
gia Pháp, là người ngoại cuộc, đã nghiên cứu kỹ vấn đề. Chúng tôi ưu tiên dùng
thông tin của ông.
Ôn
Như Hầu là tên phố, ở số 9[79], có một trụ sở của Việt Nam Quốc
Dân Đảng. Trong hai ngày 12 và 13-7-46, Việt Minh tấn công vào các trụ sở của
Quốc Dân Đảng ở Hà Nội và bắt một số người đưa đi mất tích và trình bày
"tang chứng" Việt Nam Quốc Dân Đảng làm tiền giả, cướp của, giết
người, v.v. trước báo chí.
Về
nguyên nhân, François Guillemot viết:
"Ngay
sau khi ký hiệp định sơ bộ 6-3, Võ Nguyên Giáp đã tin sẽ có cuộc bạo động của
đối lập, ông viết: "Bọn Quốc Dân Đảng tay sai của Tưởng vẫn mưu toan tiến
hành một cuộc đảo chính phản cách mạng. Nhân lúc bọn chúng hoang mang vì cảm
thấy sắp bị Tưởng bỏ rơi; ta cần tìm cách phân hoá chúng, kéo những người lầm
đường quay trở về với nhân dân" (Những năm tháng không thể nào quên, QĐND,
1974, t. 207). Nhưng làm sao tiêu diệt được đối lập quốc gia một cách
"hợp pháp"? Làm sao đánh một đòn chí tử vào bọn đối lập phá hoại này?
Đó có thể là câu hỏi mà những người cầm quyền Việt Minh chắc chắn đã đặt ra và
cũng là những câu hỏi làm căn bản cho chúng tôi khảo sát cái mà sử thần chính
thức gọi là Vụ án Ôn Như Hầu"[80]
Thu
thập tài liệu nhiều phía, đặc biệt tình báo Pháp đã tịch thu được những tài
liệu mật của Quốc Dân Đảng, François Guillemot đưa ra những thông tin sau đây:
"Ngày
1-6-46, những lãnh tụ chính của Mặt trận Quốc Dân Đảng, chủ yếu có Nguyễn Tường
Tam và Vũ Hồng Khanh, họp tại 80 Quan Thánh, Hà Nội, hồi 20 giờ, trong một buổi
họp bí mật tối quan trọng, để quyết định đường lối cho những tháng sau đó và
giải thích lý do tại sao Quốc Dân Đảng không gửi đại diện sang Pháp [dự hội
nghị Fontainebleau]. Nguyễn Tường Tam bày tỏ ý tiếc rằng ta đã có thể giành
được độc lập nếu "chúng ta dùng võ khí chống Pháp". Thực vậy,
trong một buổi họp trước đây với Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh và Hồ Chí Minh,
các lãnh tụ quốc gia đã đề nghị với vị Chủ tịch "liên kết quân sự tất
cả các đảng phái dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, để tức thời chống quân xâm
lăng Pháp" [in đậm trong nguyên bản]. Nhưng Hồ Chí Minh
đã từ chối, lấy cớ "tất cả sẽ được giải quyết ở Paris". Nguyễn Tường
Tam đã biện hộ rằng: hiện ta có 6000 lính võ trang tinh nhuệ, cộng với dân quân
ở các tỉnh, có thể mạnh mẽ chống lại quân Pháp. Ông cho biết, ông đã được Tiêu
Văn và Lư Hán đồng ý trợ lực. Buổi họp [ngày 1-6] sau đó đã quyết định
chương trình của Mặt trận [Quốc Dân Đảng]: "Cực lực tuyên truyền
trong quần chúng; Bằng mọi phương tiện gây thiện cảm với những nhóm Tự vệ;
Không bao giờ chấp nhận những quyết định một chiều trái với quyền lợi dân tộc;
Bảo vệ bằng võ lực nếu cần, lý tưởng của đảng".
Quan
điểm này, không phải là phi lý, bởi chính Bernard Fall, khi nhận xét những lực
lượng hiện hữu và tính chiến đấu của người Việt, cũng nghĩ rằng: "Chiến
tranh Đông dương là "không thể thắng được" ngay từ đầu", ý tưởng
này theo ông ấy, chỉ có Leclerc chia sẻ. Trung tá Repiton-Preneuf, chủ nhiệm
Phòng Nhì Pháp, là chứng nhân trực tiếp, đã nhìn nhận ngay từ tháng 2-1946,
rằng: "Tinh thần chiến đấu của người Bắc rất mạnh. Họ đã
cung cấp những chiến sĩ gan dạ nhất ở "mặt trận phía Nam". Ở
Bắc, họ có thì giờ tổ chức, điều chỉnh kế hoạch, phương pháp chiến đấu và hệ
thống phá hoại của họ".
Ngày
10-6-46, trong một buổi họp mới của Mặt Trận Quốc Dân Đảng bàn về tính chiến
đấu của quân Pháp trực diện với quyết tâm giành độc lập của người Việt, lời
tuyên bố của các chiến hữu về sự lựa chọn chống Pháp bằng võ lực đã rạch ròi:
"Hội
nghị Paris không đi đến đâu, chúng ta không giành được độc lập. Vì thế, ngay từ
bây giờ, chúng ta phải chuẩn bị kháng chiến, bởi cuộc đấu tranh giành độc lập
chỉ có thể thành công nếu dựa trên những nền móng vững chắc (…)
Lối
đánh du kích của chúng ta đã thành công ở trong Nam, chúng ta cứ dùng và còn
tận dụng nữa. Mặc dù chúng ta có một kho súng đạn và dự trù kháng chiến lâu
dài, nhưng chúng ta cũng phải bắt chước các anh em trong Nam, dùng cả dao găm
và lựu đạn do ta chế tạo."[81]
Mặc
dù quân đội Trung Hoa đã rút lui, hoạt động của Mặt trận Quốc Dân Đảng vẫn còn
vững mạnh và nguy hiểm, bởi từ nay, họ đã lui vào bóng tối. Vì Vũ Hồng Khanh đã
ở trong chính phủ Liên Hiệp bên cạnh Võ Nguyên Giáp và đã ký hiệp định sơ bộ
6-3-46, Trương Tử Anh lãnh đạo Mặt trận Quốc Dân Đảng. Sự rạn nứt của hai đảng
cũng bắt đầu từ đấy.
Những
bản báo cáo của Công An Việt Minh được lưu hành ngay từ tháng 5-1946, đã loan
báo một cuộc phá hoại có tầm cỡ, đang được chuẩn bị dưới sự điều khiển của
Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng. Cuối cùng, cuộc binh biến
được dự trù vào ngày 14-7-1946.[82]
Về
phiá Việt Minh, Võ Nguyên Giáp cùng với Trần Quốc Hoàn, tổ chức kế hoạch "vạch
mặt và cô lập bọn phản động".
Võ
Nguyên Giáp viết: "Anh Trần Quốc Hoàn cùng tôi bàn kế hoạch thực hiện
chủ trương trên, nhằm ngăn chặn những hoạt động phá hoại đang hàng ngày gây rối
loạn trong thành phố"[83]
François
Guillemot viết:
"Sau
khi phái đoàn Việt Nam, do Phạm Văn Đồng cầm đầu[84] cùng Hồ Chí Minh đi Paris, Huỳnh
Thúc Kháng giữ chức quyền Chủ tịch Chính phủ Kháng chiến, Võ Nguyên Giáp làm
phó. Cùng với Trần Quốc Hoàn (lúc đó là Phó Bí thư Ủy ban Địa phương Bắc bộ),
thiết lập chương trình tận diệt đối lập, sau khi thăm dò ý kiến của Pháp. Vì
thế, cuối tháng 6 [1946], Giáp đến gặp Đại tá Jean Crépin, lúc đó là phụ
tá Tướng Valluy, được bổ nhiệm ở Bắc bộ, và hỏi thẳng ông ta, nếu Việt Minh tấn
công đối lập thì Pháp có phản ứng gì không? Đại tá Crépin trả lời: người Pháp
không xen vào "việc nội bộ của người Việt". Chỉ còn trở ngại cuối
cùng là phải thuyết phục Huỳnh Thúc Kháng, rằng cần phải thanh trừng đối lập
trong lúc hội nghị Fontainebleau đang họp. Cụ Huỳnh thoạt tiên chống lại và đòi
phải có chứng cớ gì để biện minh cho hành động này. Những chứng cớ mà Võ Nguyên
Giáp cần, ông ta sẽ thu thập được nhanh chóng trong chiến dịch của cảnh sát dự
trù vào ngày 12 tháng 7"[85]
François
Guillemot viết tiếp: "Các cơ quan tình báo Pháp lập tức loan tin
có cuộc tảo thanh dữ dội của lực lượng cảnh sát chống đối lập: "Ở Hà Nội,
trong đêm 12 rạng ngày 13 tháng 7, Cảnh sát Việt Minh đã thực hiện một cuộc
thanh trừng đối lập. Nhà in của báo Việt Nam, cơ quan của VNQDĐ bị phá nát, và
khoảng hai mươi người bị bắt ở trụ sở ĐMH. Có tiếng súng bắn nhau giữa người
Việt, một viên đạn lạc khiến một vị tá trong quân đội Pháp bị thương nhẹ"[86].
Chiến
dịch Ôn Như Hầu tiếp tục đến cuối năm 1946, khi chiến tranh Pháp Việt bùng nổ.
Theo
Lực lượng chống phản động, tại Hà Nội, 40 sào huyệt Mật trận Quốc Dân
Đảng bị phá huỷ[87].
Guillemot
viết: "Tuy nhiên, giữa ngày 23 và 27-10, hơn 400 người tình nghi bị bắt
trong nhiều cuộc bố ráp. Đối lập biến mất trong quốc hội: từ 70 ghế tháng 3-46;
còn lại 2 ghế trong tháng 11-46. (…) Kể từ tháng 7-1946, phe đối lập quốc gia,
đặc biệt Mặt trận Quốc Dân Đảng tan rã, phải trốn vào vòng bí mật ngày càng
nghẹt thở"[88]
"Trương
Tử Anh [đảng trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng] bị bắt gần như tình cờ trong
vụ xét giấy ở ngoại ô Hà Nội, ngày 17-12 [1946], theo công an Việt Minh
và Viết Linh, một trong những thám tử có nhiệm vụ truy lùng dấu vết. Nhưng theo
Boisson, Trương Tử Anh bị bắt ngày 19-12 (…) Còn Lý Đông A [đảng trưởng Đại
Việt Duy Dân] có lẽ bị giết trong chiến dịch truy nã Duy Dân ở Hoà Bình. Tới
cuối năm 1946, có thể nói rằng đối lập đã hoàn toàn bị vô hiệu hoá và tận diệt
ở Hà Nội và trong các tỉnh miền Bắc".[89]
Vai
trò của Pháp trong chiến dịch Ôn Như Hầu là gì?
Theo
François Guillemot, Jacques Raphael-Leygues, Uỷ viên hải quân Đông Dương từ
1945 tới 1950, tìm cách giải mã thái độ của hai ông tướng Salan và Valluy đối
với Việt Minh; trong hồi ký, Raphael-Leygues viết: "Đúng lúc này [1946],
Salan đang còn "thiên tả". Cùng với Valluy, ông ta giúp Hồ Chí
Minh thủ tiêu những đảng đối lập bằng giải pháp quân sự [in đậm trong
nguyên bản] mặc dù họ chính là thành phần tốt nhất chống lại sự thống trị
của cộng sản tại Việt Nam. Tôi không bao giờ hiểu chiến thuật của Salan hồi đó.
Phải chăng ông ta muốn bảo đảm với những người cộng sản rằng họ sẽ được ở lại
trong chính quyền, hay là ông ta muốn trở thành ông tướng của nước Pháp cộng
sản? Tôi không thể tin điều đó, thế nhưng…"
Guillemot
viết tiếp: "Thái độ kịch liệt chống người quốc gia còn được Crépin [phụ
tá Tướng Valluy] xác định một lần nữa, qua câu sau đây trong bản hồi ký nói
trên: "Nói chung, đại tá Crépin, mặc dù nhìn nhận rằng những người cầm đầu
Việt Minh chỉ muốn đuổi chúng ta đi, nhưng tháng 6 [1946] ông ta đã
không giúp gì cho những người đối lập và cũng không dùng họ làm lợi cho ta. Ông
ta lại còn thẳng thừng tuyên bố: "Tôi tiêu diệt tất cả mọi sự chống đối
Việt Minh" (J’annihilerai toute opposition Việt Minh) [in
đậm trong nguyên bản]. Tuy nhiên sau đó chính Crépin lại thiết
lập đội quân Nùng để tiêu diệt Việt Minh"[90].
(Còn
tiếp)
Thụy
Khuê
thuykhue.free.fr
[1]
Đoàn Thêm trong 1945-1964 Việc từng ngày, Hai mươi năm qua, trang 11,
ghi: "21-8-1945: Một nhóm thanh niên trí thức nhóm họp tại Đại Học Xá
Hà Nội, và biểu quyết gửi điện văn yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị". Câu
này, có điểm đúng: ngày 21-8-1945, vua nhận được điện tín, vì trùng hợp
với thông tin của Hoàng Văn Hoan và của cựu hoàng trong hồi ký (tuy ông không
ghi rõ ngày, nhưng cho biết việc này xảy ra trước ngày 22-8). Còn câu "Một
nhóm thanh niên trí thức nhóm họp tại Đại Học Xá", có thể Đoàn Thêm
phỏng theo những tên tuổi: Nguyễn Xiển, Nguyễn Văn Huyên, Ngụy Như Kontum, Hồ
Hữu Tường, ký dưới bản điện tín được in trên báo Cứu Quốc.
[2]
Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, trang 254.
[3]
Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, trang 255-257.
[4]
Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà: Chủ tịch kiêm
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: Hồ Chí Minh. Nội vụ: Võ Nguyên Giáp. Quốc phòng: Chu
Văn Tấn. Tài chính: Phạm Văn Đồng. Kinh tế: Nguyễn Mạnh Hà. Lao động: Lê Văn
Hiến. Thanh niên: Dương Đức Hiền. Giáo dục: Đặng Thai Mai. Tư pháp: Vũ Trọng
Khánh. Giao thông công chính: Đào Trọng Kim. Y tế vệ sinh: Phạm Ngọc Thạch. Xã
hội: Nguyễn Văn Tố. Tuyên truyền: Trần Huy Liệu. Bộ trưởng không bộ: Cù Huy Cận
và Nguyễn Văn Xuân.
Trần
Huy Liệu và Nguyễn Văn Xuân trước là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, sau gia
nhập Đảng Cộng sản Đông Dương (Giọt nước trong biển cả, trang
258-259).
[5]
Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, trang 257-259.
[6]
Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 186. Xem chương: Những ngày sóng
gió.
[7]
Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, trang 183.
[8]
Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nxb Hà Nội,
1983, trang 68.
[9]
Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, trang 198.
[10]
Việt Nam một thế kỷ qua, tập 1; Nxb Thạch Ngữ, Hoa Kỳ, 1998, trang 223.
[11]
Cuốn sách này, nguyên tên đầy đủ là Việt Nam những ngày lịch sử - Hồi
ký về gia đình Nguyễn Tường, nhưng khi in Nguyễn Khắc Ngữ đã bỏ những chữ Hồi
ký về gia đình Nguyễn Tường, nên tác giả có ý trách. Nhưng công bình mà
xét, Nguyễn Khắc Ngữ có lý, bởi vì cuốn Việt Nam những ngày lịch sử, không
chỉ viết về gia đình Nguyễn Tường, mà còn là một cuốn hồi ký lịch sử viết về
giai đoạn tranh chấp quốc-cộng 1945-1946, qua cái nhìn của một người đã từng ở
trong Việt Nam Quốc Dân Đảng, có thái độ ôn hoà và trung thực. Tác phẩm ngừng ở
năm 1949, khi Nguyễn Tường Bách quyết định ở lại Quảng Châu. Cô đọng, viết hay,
nhiều đoạn ngỏ rõ tình cảm của tác giả trước mỗi sự kiện lịch sử, trước đối
phương, lời lẽ tự nhiên, chân thật.
[12]
Tác phẩm này, dù được tiếp đón nồng hậu lúc mới ra đời, cũng không mang lại giá
trị mong đợi về văn chương, và cũng chưa tạo được không khí lịch sử. Những nhân
vật thường mờ nhạt, người đọc khó đoán được ai là ai, làm việc gì, điều mà
người ta thường chờ đợi khi đọc tiểu thuyết thời sự lịch sử.
[13]
Do tác giả xuất bản năm 2005, tại California, Hoa Kỳ.
[14]
Việt Nam một thế kỷ qua, cuốn 1, trang 141.
[15]
Việt Nam một thế kỷ qua, cuốn 1, trang 141.
[16]
Từ ngày 16- 9 đến ngày 31-10- 41, xem chương Con đường cách mạng.
[17]
Khái Hưng, Xiềng xích, Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới, số 4, 26-5-45.
[18]
Chúng tôi đã giới thiệu trong chương Đời sống cách mạng Việt Nam ở Trung
Quốc.
[19]
Trần Khánh Triệu, Ba tôi, Văn số 22 (15-11-64) số tưởng niệm Khái Hưng,
Sài Gòn, trang 26.
[20]
Theo Hứa Bảo Liên, Nguyễn Tường Bách và tôi, hồi ký, tác giả xuất bản,
California, 2005, trang 59.
[21]
Việt Nam một thế kỷ qua, cuốn 1, trang 141.
[22]
Xem chương: Những ngày sóng gió.
[23]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, nhóm Nghiên cứu lịch
sử, Monréal, 1981, trang 69.
[24]
Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Việt Books in lại, California, 2010,
trang 85.
[25]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, cuốn 1, trang 160.
[26]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, cuốn 1, trang 186.
[27]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, trang 70.
[28]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, trang 72, 73.
[29]
Đoàn Thêm, 1945-1964 Việc từng ngày, Hai mươi năm qua, trang 13.
[30]
Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, trang 242.
[31]
Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, trang 240- 241-242.
[32]
Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, t. 242-244.
[33]
Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, trang 265.
[34]
Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, trang 270.
[35]
Tướng Long Vân muốn nổi loạn chống chính phủ Trùng Khánh.
[36]
Đoàn Thêm, 1945-1964 Việc từng ngày, Hai mươi năm qua, trang 14.
[37]
François Guillemot, Đại Việt, trang 319.
[38]
Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 213.
[39]
Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, trang 266-267.
[40]
Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, trang 271.
[41]
Đây là chính phủ thứ hai của nước Việt Nam Dân Chủ Công Hoà, tức Chính phủ
Liên hiệp Lâm thời (1-1-46): Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Ngoại giao: Hồ Chí
Minh; Phó Chủ tịch: Nguyễn Hải Thần, Nội vụ: Võ Nguyên Giáp; Tuyên truyền: Trần
Huy Liệu; Quốc phòng: Chu Văn Tấn; Thanh niên: Dương Đức Hiền; Kinh tế: Nguyễn
Tường Long; Xã hội: Nguyễn Văn Tố; Tư pháp: Vũ Trọng Khánh; Y tế: Trương Đình
Tri; Giao thông công chánh: Đào Trọng Kim; Lao động: Lê Văn Hiến; Tài chánh:
Phạm Văn Đồng; Giáo dục: Vũ Đình Hòe; Canh nông: Cù Huy Cận; Không bộ: Nguyễn
Văn Xuân.
[42]
Hoàng Văn Đào, t. 255. Guillemot, Đại Việt, t. 321. Hoàng Văn
Hoan, t. 268.
[43]
Đây là Chính phủ thứ ba của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, tức Chính phủ
Liên Hiệp Kháng chiến: Chủ tịch: Hồ Chí Minh; Phó chủ tịch: Nguyễn Hải
Thần; Ngoại giao: Nguyễn Tường Tam; Kinh tế: Chu Bá Phượng; Y tế: Trương Đình
Tri; Giáo dục: Đặng Thai Mai; Tài chính: Lê Văn Hiến, Tư pháp: Vũ Đình Hòe;
Giao thông công chánh: Trần Đăng Khoa, Nội vụ: Huỷnh Thúc Kháng; Quốc phòng:
Phan Anh; Canh nông: Bồ Xuân Luật.
[44]
François Guillemot, Đại Việt, trang 317.
[45]
François Guillemot, Đại Việt, t. 317, 318.
[46]
Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, trang 256. Hoàng Văn Hoan,
Giọt nước trong biển cả, trang 268.
[47]
Đến đầu tháng 2/46 quân Pháp đã chiếm cả miền Nam và một phần miền Trung, từ vĩ
tuyến 16 trở vào.
[48]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t. 84, 85.
[49]
Guillemot, Đại Việt, t. 323.
[50]
Việt Nam những ngày lịch sử, trang 73.
[51]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, cuốn 1, trang 193-194.
[52]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, cuốn 1, trang 194.
[53]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, trang 81.
[54]
Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, trang 197;
Guillemot, Đại Việt, trang 325.
[55]
François Guillemot, Đại Việt, t. 325.
[56]
Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, t. 195.
[57]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t. 86.
[58]
Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, t. 187.
[59]
François Guillemot, Đại Việt, t. 322.
[60]
François Guillemot, Đại Việt, t. 324-325.
[61]
Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, Mai Lĩnh, 1954, t. 95-97; Bảo Đại, Con
rồng Việt Nam, trang 237.
[62]
Bùi Diễm, Gọng kìm lịch sử, Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 2000, t. 75.
[63]
François Guillemot, Đại Việt, t. 328.
[64]
François Guillemot, Đại Việt, t. 332-333.
[65]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t. 86.
[66]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t. 93.
[67]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, trang 90.
[68]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t. 90.
[69]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t. 91.
[70]
Nguyễn Thị Thế, Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, t. 136-137.
[71]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t. 93, 94, 95.
[72]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t. 95.
[73]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t. 98, 99.
[74]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t.101, 107.
[75]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t.109.
[76]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t.110.
[77]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, t. 111, 126.
[78]
François Guillemot, Đại Việt, t. 328.
[79]
Hoàng Văn Đào ghi số 9, các tài liệu Việt Minh ghi số 7.
[80]
François Guillemot, Đại Việt, t. 332.
[81]
François Guillemot, Đại Việt, t. 333- 334.
[82]
François Guillemot, Đại Việt, t. 334.
[83]
Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, t. 104.
[84]
Phái đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Fontainebleau, ngoài Phạm Văn Đồng, trưởng
phái đoàn, còn có Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên,
Trịnh Văn Bính… Chủ tịch Hồ Chí Minh đi với tư cách là khách do chính phủ Pháp
mời. Ngày 31-5-1946, phái đoàn lên máy bay. Tới Pháp gặp lúc đang thay đổi
chính phủ, phái đoàn tạm trú ở Biarritz. Ngày 23-6 có chính phủ mới của Georges
Bidault. Hội nghị họp tại Fontainebleau, bắt đầu từ ngày 6-7-1946, trong một tuần
không đạt được kết quả gì, rút cục phải bỏ dở. Đêm 14-9-46, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đến tư dinh của Bộ trưởng Ngoại giao Marius Moutet, ký một bản Tạm ước
(Modus vivendi). Ông trở về bằng đường thuỷ. Ngày 20-10-46, ông về đến Hải
Phòng. Trong suốt thời gian từ tháng 6 đến tháng 10, Võ Nguyên Giáp chỉ huy
chiến dịch Ôn Như Hầu.
[85]
François Guillemot, Đại Việt, t. 335.
[86]
François Guillemot, Đại Việt, t. 339.
[87]
François Guillemot, Đại Việt, t. 343.
[88]
François Guillemot, Đại Việt, t. 343-344.
[89]
François Guillemot, Đại Việt, t. 354.
[90]
François Guillemot, Đại Việt, t. 357, 358.