Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ
nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng
nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu
Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh
“sang sông” phải lụy phà… Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía
trước cái gì sẽ xảy ra cho mình. Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam
nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Tạ Tỵ
[thư gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 29.2 & 27.7.2000]
Tạ Tỵ là bút danh, Tạ Văn Tỵ là tên thật, sinh ngày 3 tháng
5 năm 1921 (tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội, nhưng trên giấy khai
sinh lại ghi là ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn một năm. Ngay từ khi còn
là một sinh viên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương / École Supérieure des
Beaux-Arts de l’Indochine, Tạ Tỵ đã thành danh khá sớm.
Năm 1941, ở tuổi 20, do đoạt một giải thưởng tranh của nhà
trường, Tạ Tỵ được đến thăm kinh đô Huế.
Năm 1943, Tạ Tỵ tốt nghiệp khoa Sơn Mài tại trường Cao Đẳng
Mỹ Thuật Đông Dương nhưng dấu ấn Hội họa của ông không phải là những tác phẩm
Sơn Mài. Tạ Tỵ luôn luôn đi tìm cái mới, và được xem là người đi tiên phong
vào lãnh vực Lập Thể / Cubisme và Trừu Tượng / Abstrait của hội họa Việt
Nam.
Và cũng năm 1943, sau khi vừa tốt nghiệp, Tạ Tỵ đoạt ngay
một giải thưởng với bức tranh “Mùa Hạ” (tân ấn tượng /
néo-impressionnisme) được giải thưởng tại phòng Triển lãm Duy nhất (Salon
Unique) “vì có một phương pháp diễn tả theo khuynh hướng mới, tuy chưa hẳn
là lập thể, nhưng các hình thể đã được biến cải theo sở thích riêng.” [1]
Năm 1946, trong cuộc triển lãm Hội họa Tháng Tám tại Nhà Hát
Lớn Hà Nội, với số lượng tác phẩm đông đảo, Tạ Tỵ đã tham dự với bức tranh sơn
mài “Hoa Đăng” (siêu thực / surréalisme) được Hiệp Hội Báo Chí VN
trao giải, nhưng tiền thưởng chưa lãnh thì ngay sau đó chiến tranh toàn quốc
bùng nổ. [1]
Hình 2: Tác
phẩm “Hoa Đăng” sơn mài (siêu thực / surrealisme) của Tạ Tỵ trong
cuộc triển lãm Tháng Tám 1946 tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, được Hiệp Hội Báo Chí VN
trao giải thưởng.
Năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, Tạ Tỵ đã cùng với
nhiều văn nghệ sĩ yêu nước khác, hăng hái tham gia mặt trận kháng chiến chống
Pháp và ông là giáo sư dạy Mỹ thuật đầu tiên trong Liên Khu 3. Tác phẩm “Nhớ
Hà Nội” năm 1947 (20 × 25 cm) được Tạ Tỵ vẽ trong giai đoạn này.
Hình 3:
Tác phẩm “Nhớ Hà Nội” (20 × 25 cm) được Tạ Tỵ vẽ năm 1947, giai đoạn
theo kháng chiến trong Liên Khu Ba.
Năm 1948, trong một hội nghị Văn Hóa Văn Nghệ, Trường Chinh
đã mạnh mẽ lên án: “Chủ nghĩa Lập Thể, Siêu Thực, Đa Đa là những cái nấm độc
trên cái thân thể mục ruỗng của nền văn hóa đế quốc.” [Chủ nghĩa Mác và vấn
đề văn hóa Việt Nam, 1948].
Tháng Năm 1950, sau bốn năm đi theo kháng chiến, thấy rõ bộ
mặt thật của Việt Minh, cùng với cách suy nghĩ không hợp với họ, Tạ Tỵ đã cùng
nhiều văn nghệ sĩ khác như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Phạm Duy, Tam Lang Vũ
Đình Chí, Hoàng Công Khanh đã dứt khoát từ bỏ khu chiến để trở về Hà Nội.
Từ đầu thập niên 1950, trở về với nếp sống văn hóa Hà Nội 36
phố phường với Năm Cửa Ô, Tạ Tỵ đã mạnh mẽ đi tiếp con đường sáng tạo với tự
do đi tìm cái mới; ngoài vẽ tranh, vẽ ký / biếm họa chân dung (caricatures)
các văn nghệ sĩ, ông còn cầm bút sáng tác: truyện, thơ, kịch, bút ký, viết nhận
định văn học, trình bày sách báo… chứng tỏ Tạ Tỵ là một tài năng rất đa diện.
Năm 1951, ông mở cuộc triển lãm cá nhân đầu tiên mang tên Hội
Họa Hiện Đại tại Hà Nội, trưng bày 60 bức tranh Lập thể.
Hình 4:
trái, “Đàn bà” còn có tên là “Cô đơn”, phải, “Vàng và Tím”
là hai tác phẩm tiêu biểu thời kỳ Lập Thể của Tạ Tỵ, 1951 – Tạ Tỵ gọi
đó là chiều thứ tư (4ème dimension), chiều động trong kỹ thuật tạo hình. [1]
Năm 1953, Tạ Tỵ nhận được lệnh động viên, ông phải tạm xa Hà
Nội và gia đình để vào Nam, gia nhập Khóa 3 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và ra
trường với cấp bậc thiếu uý. Ông phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà
tại Tổng Cục Chiến tranh Chính trị cho tới khi giải ngũ, với cấp bậc sau cùng
là Trung Tá.
Năm 1956, Tạ Tỵ triển lãm cá nhân lần thứ hai với 50 họa
phẩm lập thể, tại Phòng Thông Tin Đô Thành Sài Gòn, nhưng là lần đầu tiên ở
miền Nam, được đánh giá là thành công cả về nghệ thuật cũng như tài chánh.
Trong tập sách mỏng giới thiệu cuộc triển lãm (ngày
8/8/1956), Tạ Tỵ viết: “Mời bạn hãy vào – Cửa vườn tôi đã mở sau 5 năm trời
khép kín – vườn của tôi sau khoảng thời gian giam cầm trong suy nghĩ, trong dằn
vặt, trong giận hờn để tìm những cánh màu của tâm tư chắp nối lại và thêu dệt
bằng tin tưởng, tạo thành một thế giới của hình thể, của sắc màu, qua bức tường
vách ngăn của lý trí và rung động…” [5]
Hình 5:
“Nhịp Calypso” (1960), tranh lập thể sơn dầu trên canvas, sưu tập của
Mặc Đỗ, bức tranh đã phải bỏ lại khi Mặc Đỗ âm thầm di tản khỏi Sài Gòn ngày
29/04/1975.
Tuy là họa sĩ Việt Nam tiên phong và thành công trong Hội
Họa Lập Thể, nhưng ông vẫn luôn luôn có ý hướng đi tìm cái mới, từ thập niên
1960, Tạ Tỵ đã chuyển hướng sang tranh Trừu Tượng.
Năm 1961, ông triển lãm cá nhân lần thứ hai với 60 bức tranh
trừu tượng và lập thể cũng tại Phòng Thông Tin Đô Thành Sài Gòn. Đánh dấu một
bước thành công sáng tạo mới của Tạ Tỵ.
TẠ TỴ: TẠI SAO LẬP THỂ
Trong một Hồi ký viết ở hải ngoại Những Khuôn Mặt Văn
Nghệ Đi Qua Đời Tôi [Nxb Thằng Mõ 1990], Tạ Tỵ đã giải thích do cơ
duyên nào mà anh đi vào Hội Họa Lập Thể:
“Tôi bẩm sinh là một con
người thích tiến bộ, thích cái gì mới. Khi còn học ở trường Mỹ Thuật, tôi không
mấy thích lối vẽ chân phương theo quy luật của nhà trường bắt buộc. Tôi thường
đến thư viện mượn sách đọc, lẽ dĩ nhiên, loại sách thuộc về mỹ thuật. Tôi mê
các tác phẩm của Van Gogh, Gauguin và Matisse. Tôi nghiên cứu và tìm hiểu mỹ
thuật tạo hình ở mỗi tác giả. Nhưng sau một thời gian, tôi thấy các nhà danh họa
trên vẫn phải dựa vào thiên nhiên và sự vật cũng như con người để tạo dựng tác
phẩm. Tôi nghiên cứu và tìm hiểu các họa phái khác nhau như Siêu Thực, DaDa và
Lập Thể. Tôi thích trường phái Lập Thể qua các tác phẩm của G. Braque hơn là
Picasso. Tôi mê chiều thứ tư (4ème dimension) của họa phái này – mà Tạ Tỵ
gọi đó là chiều động trong kỹ thuật tạo hình, vì nó làm cho tác phẩm trở nên
sống động, chứ không trơ trơ như các họa phái khác.”
[1]
TẠ TỴ: TẠI SAO TRỪU TƯỢNG
Trả lời Nguiễn Ngu Í Bách
Khoa [Báo Bách Khoa, số 131, ngày 15-6-1962]:
Hình 6: Nguiễn
Ngu Í phỏng vấn Tạ Tỵ trên báo Bách Khoa số 131, ngày 15-6-1962, từ trái,
bìa và hai trang báo Bách Khoa số 131; phải, chân dung nhà văn nhà báo Nguiễn
Ngu Í, người thực hiện đợt phỏng vấn về Quan Niệm Hội Họa của khoảng
40 họa sĩ Việt Nam.
Năm 1966, dự định trưng bày lần thứ ba tại Sài Gòn 50 họa
phẩm Trừu tượng mới nhất nhưng không thành. Năm 1971, Tạ Tỵ lại dự định tổ chức
phòng triển lãm tranh gồm 50 chân dung văn nghệ sĩ miền Nam nhưng rồi cũng dở
dang do tình hình chiến sự sôi động lúc đó.
Và gần như theo chu kỳ, cứ mỗi 5 năm, Tạ Tỵ mới triển lãm
một lần: 1951, 1956, 1961, 1966, 1971… Khi trao đổi với nhà văn Nguiễn Ngu Í,
họa sĩ Tạ Tỵ giải thích:
“Sở dĩ tôi phải để một thời
gian lâu như thế như anh biết những thì giờ tốt đẹp nhất trong một ngày để
sáng tác tôi không được sử dụng, tôi chỉ còn làm việc quanh năm với ánh
đèn, với muỗi [Tạ Tỵ vẫn còn làm việc toàn thời gian
trong quân ngũ quân lực VNCH – ghi chú của người viết]; vả lại muốn mỗi
phòng triển lãm của tôi ít nhất phải ghi lại trong tâm người thưởng ngoạn một
chút kỷ niệm về sự cố gắng của cá nhân trong phạm vi Nghệ thuật. Muốn thâu
được kết quả ấy, yếu tố thời gian là yếu tố quyết định.” [2]
Vào đầu thập niên 1960, Tạ Tỵ vẽ một loạt chân dung các văn
nghệ sĩ Việt Nam với một phong cách rất độc đáo, anh nhạy bén bắt được cái thần
ở từng khuôn mặt, và đây là một lãnh vực tài hoa khác của Tạ Tỵ mà chưa ai sánh
được.
Hình 7: Chân
dung văn nghệ sĩ qua nét vẽ Tạ Tỵ, từ trái trên Mặc Đỗ, Mai Thảo, Thanh Tâm
Tuyền; từ trái dưới Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Dương Nghiễm Mậu [nguồn:
từ album gia đình Tạ Tỵ]. Đây cũng là sáu chân dung có trong Tuyển Tập
Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa của Ngô Thế Vinh, Việt Ecology
Press xuất bản 2017.
Tác phẩm của Tạ Tỵ còn được trưng bày tại các bảo tàng viện
nghệ thuật quốc tế ở Tokyo, San Francisco, New York và Paris.
Bức tranh “Đàn bà” còn có tên là “Cô đơn” (1951) được
nhà Sotheby’s đấu giá hồi tháng 4 năm 2000 và bán được với giá khá cao 19.550
Singapore dollars. Trong catalogue của Sotheby’s đã nhận xét bức tranh: “Đây
là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ Lập Thể của Tạ Tỵ. Tác giả sử
dụng tài tình những màu sắc mạnh mẽ, đặt nhân vật ngay vào ngay trung tâm bức
tranh, những hình thể kỷ hà, chẳng hạn như việc xử lý mái tóc không tuân theo
luật đăng đối, đường nét mạnh bạo của chiếc cổ và sự sắp xếp của khăn quàng
thành những mặt cắt của một hình kim cương… tất cả bố cục này tạo thành một bức
tranh Lập Thể độc đáo.”
Bức Mùa hè đỏ lửa (1972, 350 x 170 cm), tranh
sơn dầu, phong cách trừu tượng, được treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố
Sài Gòn từ năm 1998. Khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam 2003, bức tranh được đổi tên Cất
Cánh. Đây là bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của nhà bảo
tàng này.
Hình 8: từ
phải, Tạ Tỵ, Phạm Đình Chương, Nguyễn Sỹ Tế, Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo trong một
buổi họp mặt trước 1975 ở Sài Gòn. [nguồn: album gia đình Tạ Tỵ]
TẠ TỴ: TẠI SAO VIẾT
Trả
lời câu hỏi ấy trên tạp chí Hợp Lưu (số 32, Xuân Đinh Sửu 1997, trang
216), khi Tạ Tỵ đã ở tuổi 76, ông tâm sự:
“Tôi sinh ra đời, hình như định mệnh đã an bài, bởi vậy tất
cả những gì tôi làm ra đều có bàn tay của định mệnh dính vào.
Lúc còn trẻ tôi yêu tất cả những thứ gì thuộc về văn chương nghệ thuật,
nhưng tôi mê kéo vĩ cầm hơn cả. Vào năm 1936-37 gì đó, tôi được nghe tiếng đàn
của nhạc sĩ Nguyễn Văn Giệp tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Anh chơi bản Danse
Macabre với tiếng dương cầm phụ họa của nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiếu. Tất cả
nhà hát đều yên lặng để thưởng thức tiếng đàn tuyệt vời của hai nhạc sĩ trứ
danh nhất của đất Thăng Long thời đó. Tôi về nhà xin Mẹ tiền mua cây đàn và
quyển Mazas, là cuốn sách học kéo violon vỡ lòng. Tôi học kéo đàn song
song với học vẽ ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Vì mê học nhạc nên tôi
quen với cố nhạc sĩ Đỗ Thế Phiệt. Sau mấy năm học thấy không có tiến bộ, tôi bỏ
đàn, chuyên về vẽ…
Còn một trở ngại to lớn
nữa là người họa sĩ chỉ vẽ tấm tranh duy nhất, nếu bán đi, người họa sĩ không
còn gì ngoài tấm ảnh chụp giữ làm kỷ niệm. Vì nhìn thấy cái thế “yếu” của hội
họa, vả lại, cuộc sống trong chiến tranh có rất nhiều sự việc tác động mạnh và
sâu đậm trong tâm cảm mà hội họa bất lực, không thể nói bằng màu sắc được. Do
đó, tôi phải nhờ tới văn chương cũng như thi ca để bày tỏ lập trường, cùng thái
độ sống trước tập thể, trước xã hội.
Biết bao nhiêu đổ vỡ, tang
thương do chiến tranh gây ra. Biết bao nhiêu tuổi trẻ đã lên đường và cũng có
bao nhiêu vòng khăn tang đã quấn ngang đầu, bao nhiêu tiếng khóc than vật vã,
với đôi tay bé nhỏ xanh xao của người góa phụ, ôm lấy chiếc quan tài phủ lá
quốc kỳ với vòng hoa cườm có hàng chữ “Tổ Quốc Ghi Ơn”, nhưng tôi được
biết, trong chiếc quan tài đó chỉ có chiếc bọc nylon ôm gọn thây người chiến sĩ
đã nát bấy vì pháo địch, chỉ còn lại một đống thịt xương bầy nhầy với chiếc thẻ
bài lẫn lộn trong vũng máu đông đặc vì được cất kỹ trong ô kéo của căn phòng
chứa xác cực lạnh. Ngay cạnh đó, một đứa nhỏ chừng ba tuổi gầy ốm đứng nhìn ngơ
ngác!
Còn biết bao nhiêu cuộc tình tan tác như những chiếc bong
bóng thổi bằng bọt xà bông. Đại lộ kinh hoàng còn đó. Xác những chiếc xe tăng
của Trung Cộng, của Liên Xô, của Mỹ còn nằm rải rác dọc theo đường số 1 như
những con quái vật thời tiền sử và còn nhiều, nhiều nữa những dấu ấn của chiến
tranh cần phải nói ra, nhưng hội họa quả tình bất lực trước vấn đề này. Chỉ có văn
chương mới đủ sức khai quật những oan khuất chìm ở đáy sâu tâm cảm.” [1]
VĂN HỌC:
– Đã cộng tác với các tạp chí văn học tại miền Bắc và miền
Nam từ năm 1950 đến 30-4-1975: Thế Kỷ, Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Sáng
Tạo, Văn, Văn Học, Hiện Đại, Nghệ Thuật, Bách Khoa và Tin Văn, và sau 1975:
Thế Kỷ 21 tại Hoa Kỳ.
Những Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Miền Nam
trước 1975
- Những
Viên Sỏi, tập truyện, Nam Chi Tùng Thư,
1962
- Yêu
Và Thù, tập truyện, Phạm Quang Khai,
1970
- Mười
Khuôn Mặt Văn Nghệ, nhận định văn học, Nam Chi Tùng
Thư 1970.
- Phạm
Duy Còn Đó Nỗi Buồn, văn sử học, 1971
- Cho
Cuộc Đời, thơ, Khai Phóng, 1971
- Mười
Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, nhận định văn
học, Lá Bối, 1972, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, 1991
- Bao
Giờ, tập truyện, Gìn Vàng Giữ Ngọc xuất bản, 1972
- Ý
Nghĩ, tạp văn, Khai Phóng, 1974.
Hình 9: Những
Tác Phẩm Tạ Tỵ đã Xuất Bản Tại Miền Nam trước 1975, trên từ trái, Những
viên sỏi, tập truyện, Nam Chi Tùng Thư, 1962. Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn, văn sử
học, 1971. Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, nhận định văn học, Lá Bối, 1972.
Bao Giờ, tập truyện, Gìn Vàng Giữ Ngọc xuất bản 1972. Riêng tác phẩm Mười
Khuôn Mặt Văn Nghệ, do Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1970 ở Sài Gòn, đã được
nhà xuất bản Hội Nhà Văn Việt Nam tái bản tại Hà Nội năm 1996, nhưng họ đã tùy
tiện biên tập, cắt bỏ khuôn mặt văn nghệ Mai Thảo ra khỏi cuốn sách, thay vào
Trịnh Công Sơn, mà không hề có phép của Tạ Tỵ. [tư liệu của Thành Tôn]
Những Tác Phẩm Xuất Bản Tại Hoa Kỳ
- Đáy
Địa Ngục, hồi ký cải tạo, Cơ Sở Thằng Mõ,
1985
- Những
Khuôn Mặt Văn Nghệ Đã Đi Qua Đời Tôi, hồi ký, Thằng
Mõ, 1990
- Xóm
Nhà Tôi, tập truyện viết trong những ngày
tháng lưu vong nơi đất khách, Nxb Xuân Thu, 1992
- Mây Bay, thi phẩm, Miền Nam xuất bản, 1996
Hình 10: Những
cuốn sách của Tạ Tỵ xuất bản ở hải ngoại, từ trái, Đáy Địa Ngục, Xóm Nhà Tôi,
Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi. [tư liệu Thành Tôn]
Hình 11: từ
trái, Một Chuyến Ngao Du, truyện, nhà xuất bản Xuân Thu, California 2000, với
thủ bút đề tặng của tác giả. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Thơ Tạ Tỵ
Tạ
Tỵ được giải ngũ vào tháng 6 năm 1974 theo quy chế sau 21 năm công vụ, ở tuổi
53, vẫn còn khoẻ mạnh, đang ở cái tuổi chín muồi của sáng tạo. Anh rất vui với
ý nghĩ rằng từ nay sẽ có thời gian để phụng sự nghệ thuật. Nhưng rồi ngày
30/4/1975 đổ ập đến, tất cả mọi dự án về nghệ thuật đều tan biến. Đã thế, cho
dù đã giải ngũ, anh vẫn bị bắt đi tù cải tạo. Cùng với bao nhiêu đồng đội và
thế hệ văn nghệ sĩ miền Nam, anh đã bị đày ải trong những nhà tù từ Nam
ra Bắc, rồi nhà tù lớn là một đất nước Việt Nam CS, tổng cộng 6 năm (1975-1981),
nhưng may mắn sống sót, trong khi đó nhiều đồng đội cùng với các nhà văn nhà
báo miền Nam bạn anh thì đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng
Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc
Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi nhà tù thì
chết như Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường.
Vào đầu năm 1981, Tạ Tỵ được tha về với tấm thân tàn ma dại,
tóc bạc răng long. Và nơi chương cuối cuốn hồi ký Những Khuôn Mặt Văn Nghệ
Đi Qua Đời Tôi, xuất bản tại Hoa Kỳ (1990), Tạ Tỵ viết: “Trước khi đi tù
cải tạo tôi cân được 62 kg, khi ra tù chỉ còn đúng 35 kg. Tôi gầy như bộ xương
biết đi. Răng rụng gần hết, còn vài cái kể như vô dụng trong vấn đề ăn uống. Trong
tờ “Giấy Ra Trại”, Cộng sản ghi lý do: “Quá già yếu, không còn đủ sức lao động”!
Họ tha và tin rằng, thế nào tôi cũng chết, có thể trên đường về, và có thể gặp
vợ con rồi xuống đất !” Nhưng rồi Tạ Tỵ vẫn sống sót. [1]
Tạ Tỵ là bạn thân thiết với Lê Ngộ Châu từ hồi báo Bách
Khoa, nên hai người vẫn gặp nhau luôn. “Khi mới được tha về, Lê Ngộ Châu bảo
tôi phải đi chụp gấp tấm ảnh làm kỷ niệm, kẻo sau này, nhờ dinh dưỡng cậu khác
đi làm sao có được cái hình hài này? Tôi nghe lời, hôm sau đến tiệm hình chụp
một tấm. Mấy bữa sau, khi nhìn mình qua tấm ảnh, chính tôi cũng không nhận ra!
Sao tiều tụy như vậy được? Anh chị Châu làm bữa cơm thịnh soạn mời tôi, gọi là
bữa cơm “Mừng Người Về Từ Cõi Chết.” [1]
Sau một thời gian ra tù, được sự chăm sóc tích cực của gia
đình, sức khoẻ của anh dần hồi phục. Tạ Tỵ vẫn nuôi ý chí đi tìm tự do. Chuyến
vượt biên đầu tiên, vào đầu năm 1982, mới xuống tới Bạc Liêu bị đổ bể may kịp
quay về mà không bị bắt lại vào tù. Phải đến giữa năm 1982, cũng là lần vượt
biên thứ hai, Tạ Ty cùng gia đình đã xuống được một chiếc ghe mong manh chật
ních người, ra khơi ngày 12/6/1982, lênh đênh trên biển đúng bảy ngày, đến ngày
19/6/1982 được tàu dầu Anh quốc vớt đưa vào đảo Pulau Bidong, Malaysia. Từ đó
Tạ Tỵ bắt đầu cuộc đời tỵ nạn ở tuổi 61.[1]
ĐÁY ĐỊA NGỤC: HỒI KÝ VIẾT TRÊN ĐẢO
Ngay từ ngày đặt chân lên đảo, Tạ Tỵ đã cầm bút ghi lại kinh
nghiệm những năm tù đày kinh hoàng mà anh và các đồng đội vừa trải qua. Cuốn Hồi
ký Đáy Địa Ngục, dày 678 trang được khởi viết ngày 25/9/1982 và viết xong
ngày 15/12/1982 tại trại Tỵ Nạn chuyển tiếp Sungai Besi, Malaysia, được
Nxb Thằng Mõ, California xuất bản năm 1985 và tái bản một năm sau đó. Ngay
trang mở đầu cuốn Hồi ký, Tạ Tỵ viết:
Cuốn “Đáy Địa Ngục”
được thực hiện trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, giữa những tiếng ồn ào, sinh
động của một trại Tỵ Nạn trên vùng đất Mã Lai… Khoảng thời gian, từ ngày Cộng
sản chiếm miền Nam, tính đến hôm nay, mới gần 8 năm. Quả thực không lâu so với
cuộc luân hành miên viễn của thời gian, nhưng đích thực, đó là một chuỗi đau
thương đan kết bằng máu và nước mắt của mỗi con người Việt Nam đã và đang sống
trong một bối cảnh vô cùng khốn khổ trực diện với một chế độ mình không ưa
thích, không muốn phục vụ, vẫn phải làm như nhiệt tình, thành khẩn!
Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam
là một nhà tù lớn, bên trong nó, có rất nhiều nhà tù nhỏ, được quây kín sau dãy
Trường Sơn trùng điệp, sau những lũy tre dày đặc, hoàn toàn cách biệt với thế
giới bên ngoài. Không một ký giả nào thuộc Thế Giới Tự Do, kể cả các ký giả
thuộc các nước Cộng sản anh em, được “tham quan” những vùng đất cấm đó. Đối với
Cộng sản, cái gì cũng được giữ bí mật tối đa, cái gì cũng được che giấu bằng
dối trá, lừa bịp!
Tôi đã trải qua 8 trại Tập
Trung Cải Tạo, từ Nam ra Bắc. Tôi đã sống và đã chứng kiến bao nhiêu trạng thái
bi thương…
Người tù chính trị Việt
Nam sau ngày 30-4-1975, quả thực, một vết nhơ trên “tấm thảm lương tri nhân
loại”. Họ được đối xử như những con vật, đôi khi không bằng con vật. Họ
luôn luôn sống trong lo âu, hồi hộp, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy đến với họ,
buổi sớm mai khi thức dậy, sau một đêm trằn trọc với ác mộng và muỗi rệp! Họ “ăn
không đủ no, đói không đủ chết”, nên lúc nào miếng ăn cũng ám ảnh, giày vò
họ, làm khổ sở, ngày này qua ngày khác, mùa nắng cũng như mùa mưa, mùa hạ cũng
như mùa đông, không mùa nào họ có thể tìm thấy chút gì để tạo nên nguồn hy
vọng. Nếu ai đã trải qua một lần trong bất cứ Trại Tập Trung Cải Tạo nào của
Cộng sản Việt Nam, người đó có quyền coi thường mọi nhà tù trên Thế Giới!
… “Nhưng trang sử đã lật. Cái
gì qua, phải qua. Nó là bài học vô cùng quý giá, miễn rằng bài học này đừng bao
giờ ôn / lặp lại trong ngày mai.” [1]
[hết trích dẫn]
Tạ Tỵ đã đặt chân tới Mỹ với tập bản thảo hồi ký Đáy Địa
Ngục vừa được viết xong.
Hình 12: Tạ
Tỵ và các thân hữu ở Little Saigon, hàng ngồi từ phải: Tạ Tỵ, Ngô Bảo; hàng
đứng từ trái: Thanh Chương, Phan Diên, Phạm Quốc Bảo, Nguyễn Văn Định. [photo
by Phạm Phú Minh, do Phạm Quốc Bảo nhận diện]
RA MẮT TUYỂN TẬP VĂN – THƠ – HỌA TẠ TỴ 2001
Trong khoảng thời gian 21 năm sống tại California Hoa Kỳ,
khi thì San Diego, khi thành phố Garden Grove, Tạ Tỵ tiếp tục sáng tác vẽ và
viết; ông hoàn tất được một số tranh với phong cách trừu tượng và một số tác
phẩm viết và xuất bản ở hải ngoại.
Tuyển Tập Văn – Thơ – Họa của Tạ Tỵ
là cuốn sách cuối cùng được xuất bản và ra mắt tại Hoa Kỳ. Sách gồm bốn tập
truyện: Những Viên Sỏi, Yêu và Thù, Bao Giờ, Xóm Cũ, và một tập
thơ Mây Bay, đặc biệt có 12 phụ bản màu: gồm 6 bức tranh Sơn Dầu Trừu
Tượng, tất cả được vẽ tại Hoa Kỳ và 6 Ký họa Bột màu / Gouache các Khuôn Mặt
Văn Nghệ Sĩ.
Hình 13:
Buổi ra mắt sách Tuyển Tập Văn – Thơ – Họa Tạ Tỵ (2001) tại quán cà phê
Factory rất đặc biệt và cực kỳ đơn giản của “lão ông Tạ Tỵ” ở tuổi 80 Quận Cam,
Thủ đô Tỵ nạn, hay còn có tên gọi là Little Saigon. Hình ảnh một Tạ Tỵ với mái
tóc bạc phơ, ngồi ký từng cuốn sách với vây quanh là đông đảo lớp người trẻ,
xúm lại vui vẻ trò chuyện với bác Tạ Tỵ. [photo by Phạm Phú
Minh]
Hình 14: Ký
họa chân dung Văn Nghệ Sĩ của Tạ Tỵ; trái, nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Gouache 19”
x 24”; phải, nhà văn, nhà báo, học giả Hồ Hữu Tường, Gouache 19” x 24”. Sau
1975, cả hai bị Cộng sản bắt đi tù cải tạo, và khi vừa ra tù chỉ vài ngày sau
đó thì chết, Vũ Hoàng Chương (6/9/1976) và Hồ Hữu Tường (26/6/1980).
[nguồn: Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001]
Hình 15a: Những bức tranh sơn drất
đẹp được vẽ tại hải ngoại theo phong cách trừu tượng của Tạ Tỵ, với bút pháp và
màu sắc thật mạnh mẽ; trái, Trôi giạt, trừu tượng,
sơn dầu 48” x 72” (1984); phải, Cơn Giận của Thượng Đế, trừu tượng, sơn
dầu 48” x 72” (1985) [nguồn: Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001]
Hình 15b:
trái, Ngày Hạ, trừu tượng sơn dầu 48” x 72” (1986); phải, Tạ Tỵ đứng
trước bức tranh Những Mảnh Đời Tỵ Nạn, sơn dầu 48” x 60” (1995);
có thể coi như bức tranh trừu tượng cuối đời của Tạ Tỵ. [nguồn: Tuyển Tập
Tạ Tỵ 2001]
Từ
trước 1975, tôi đã được xem tranh, đọc thơ văn và cả sách nhận định văn học của
Tạ Tỵ (Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, Nam Chi Tùng Thư Sài Gòn 1970, Mười
Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, Lá Bối Sài Gòn 1972), và không thể quên các caricatures
chân dung văn nghệ sĩ được Tạ Tỵ phác thảo với những đường nét hết sức độc đáo.
Nhưng tôi chỉ thực sự được quen anh Tạ Tỵ trên đất Mỹ từ
những năm 1980, khi cả hai cùng một lứa bên trời lận đận, trong hoàn cảnh tỵ
nạn sau những năm tháng tù đày. Tạ Tỵ cùng thế hệ với Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ,
Nghiêm Xuân Hồng… Về tuổi tác Tạ Tỵ hơn tôi một thế hệ, đúng 20 năm nhưng tâm
hồn thì trẻ trung, và cả khiêm cung, nên trong giao tiếp tôi vẫn gọi Tạ Tỵ là
anh.
Hình 16:
Tác phẩm Mùa hè đỏ lửa 1972,
(350 x 170 cm), vẽ theo phong cách trừu tượng, hiện treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Sài Gòn từ năm
1998. Khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam 2003, bức tranh được đổi tên Cất Cánh,
đây là bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của bảo tàng thành phố.
[hình chụp tại Sài Gòn tháng 11/2019, tư liệu Ngô Thế Vinh]
Rồi Tạ Tỵ đã có dịp đọc “Giấc Mộng Con năm 2000”
và anh nồng nhiệt chia sẻ với tôi về dự án một Công viên Văn hóa Việt Nam
ở hải ngoại mà anh gọi đó là Giấc Mộng Lớn.
…
GIẤC MỘNG CON NĂM 2000
CÂU CHUYỆN CUỐI NĂM. Người đàn ông nông dân ấy gốc
lính cũ, hai mươi năm sau đã bước vào tuổi trung niên, chưa tới tuổi năm mươi
nhưng cuộc sống lao động lam lũ khiến anh ta trông xanh xao và già sọm. Anh mất
một bàn chân trái khi đã mãn lính do đạp phải mìn ngay trên ruộng nhà. Không
cần là bác sĩ cũng biết là anh ta mang trên người đủ thứ bệnh tật: thiếu ăn suy
dinh dưỡng, sốt rét kinh niên và thiếu máu. Tất cả sinh lực và nhân cách của
anh là nơi đôi mắt sáng tuy hơi buồn nhưng luôn luôn nhìn thẳng vào mặt người
đối diện. Hôm nay anh tới đây vì một lý do khác. Một mảng đen bầm nơi lưng
không đau rỉ nước vàng từ bấy lâu, trị cách gì cũng không hết. Chầu chực lên
trạm y tế huyện được y sĩ cách mạng cho ít viên thuốc tây, rồi đến thầy đông y
cho bốc thuốc nam và cả châm cứu nữa mà bệnh thì vẫn không chuyển trong khi
người anh cứ gầy rốc ra. Nay nghe có đoàn y tế thiện nguyện ở ngoại quốc về,
anh cũng muốn tới thử coi, biết đâu anh lại được gặp ông thầy cũ – người y sĩ
trưởng của anh năm nào. Và rồi anh chỉ gặp toàn những khuôn mặt trẻ lạ, nhưng
anh vẫn cứ đưa lưng ra cho người ta khám. Một tiếng ồ rất đỗi kinh ngạc của
cả toán. Tim người bác sĩ trẻ trưởng đoàn như lạc một nhịp. Không cần một chẩn
đoán phức tạp, Toản nhận ra ngay đây là một dạng ung thư mêlanin ác tính
– malignant melanoma, chắc chắn với di căn đã tràn lan. Dĩ nhiên căn bệnh có
thể trị khỏi nếu phát hiện sớm; nhưng trường hợp này cho dù với phương tiện
tiên tiến nhất trên đất Mỹ cũng đành bó tay. Chẳng phải là người bệnh mà là
người thầy thuốc trẻ nói giọng buồn bã: Ông tới trễ quá, lẽ ra bệnh có thể trị
khỏi… Bệnh nhân không tỏ vẻ bối rối, anh vẫn nhìn thẳng vào mặt người thầy
thuốc, ánh mắt tím thẫm xuống vừa giận dữ vừa nghiêm khắc: Tới trễ? Chỉ có bác
sĩ các ông là Những Người Tới Trễ chứ tôi cũng như mọi người dân vẫn ở đây từ
bao giờ… Dứt khoát không chờ đợi một điều gì thêm ở đám thầy thuốc xa lạ ấy,
anh quay lưng bước ra khập khễnh trên đôi nạng tre mắt vẫn nhìn thẳng về phía
trước, khắc khổ cam chịu và vẫn can trường như một người lính thuở nào.
*
Hội nghị Y sĩ Thế giới lần thứ 5 sẽ là một Đại hội Y Nha
Dược. Với Chính đó là một tin vui biểu hiện sức mạnh đoàn kết của ngành y ở hải
ngoại. Buổi họp cuối cùng ở Palo Alto kết thúc quá nửa khuya, sáng hôm sau như
thói quen của người có tuổi, Chính vẫn dậy rất sớm chuẩn bị cho một ngày đi Las
Vegas thăm con. Chỉ còn mấy tháng nữa Toản — đứa con trai lớn của Chính, hoàn
tất bốn năm Thường trú Giải phẫu tổng quát. Sau đó nó sẽ đi New York học tiếp
thêm bốn năm về giải phẫu bổ hình, một ngành mà đã có lần Toản cho là một số
các bác bạn của bố đã tha hóa — prostitution of plastic surgery, biến
thành kỹ nghệ sửa sắc đẹp nâng mũi đệm mông. Toản khỏe mạnh, cao lớn hơn
bố, sống như một thanh niên sinh đẻ ở Mỹ, rất năng động xông xáo trong công
việc cũng như giải trí vui chơi; suy nghĩ và hành động đơn giản. Không
phải chỉ cách suy nghĩ mà cách đặt vấn đề của tụi nó cũng khác xa với thế hệ
của Chính. Sinh đẻ ở Việt Nam sống ở nước ngoài, là công dân hạng nhất hay hạng
hai, chưa bao giờ là một “issue” đối với nó.
Tuy chỉ có một ngày để cho hai bố con gặp nhau hàn huyên,
nhưng Toản vẫn lái xe đưa bố lên một khu trượt tuyết rất xa khu giải trí Las
Vegas. Toản tâm sự với bố là không phải tình cờ mà nó chọn đi về chuyên khoa bổ
hình mà chủ yếu là phẫu thuật bàn tay. Chẳng phải chỉ vì Toản có tâm hồn nghệ
sĩ, là tay chơi guitare classique có hạng mà nó biết quý bàn tay của nó. Với Toản
chức năng đôi bàn tay là một biểu tượng vô cùng quý giá của cuộc sống lao động
và nghệ thuật. Khác với bố và các bạn đồng lứa, Toản may mắn được trời cho đôi
bàn tay vàng. Ông giáo sư dạy Toản đã phải thốt ra như vậy. Trong mọi trường
hợp từ thông thường tới những “cas” mổ đầy thử thách, qua từng nét rạch đường
cắt rất tiết kiệm, trường hợp nào cũng được đánh giá như là đạt tới mức nghệ
thuật — “state of art”. Từ lâu Toản đã bị thuyết phục bởi tên của một bác sĩ
chỉnh hình Anh Paul Brand, phục vụ tại Ấn Độ, người mà không phải chỉ với tài
năng mà còn cả với niềm tin và sự tận tụy can đảm đã có nhiều cống hiến to lớn
trong lãnh vực phẫu thuật phục hồi bàn tay cho người bệnh Hansen, đem lại hy
vọng cho hàng triệu người bệnh trên khắp thế giới. Toản đã thích thú theo dõi
các công trình của Brand trong suốt bốn thập niên qua. Gần đây Toản cũng đã vô
cùng xúc động khi lần đầu tiên được đọc một cuốn sách tiếng Việt xuất bản ở hải
ngoại của một linh mục nói về thực trạng bi thảm của những trại cùi ở quê nhà
nhất là ở miền Bắc. Toản tâm niệm sẽ không phải Brand hay một bác sĩ ngoại quốc
nào khác mà chính Toản và các bạn sẽ là thành viên của Chiến dịch Phục hồi Hy
vọng — Mission Restore Hope. Toản mơ một giấc mơ năm 2000, bệnh Hansen không
còn là vấn đề y tế công cộng nơi quê nhà.
Toản tâm sự với bố là gần đây đã liên tiếp nhận được những
thư và các cú điện thoại mời mọc từ Colorado, Boston, Houston để về làm việc
tại Á châu, ưu tiên là ở Việt Nam với những điều kiện hết sức hấp dẫn: lương
khởi đầu 6 digits nghĩa là trên trăm ngàn đô la một năm, đi kèm theo bao nhiêu
những bảo đảm quyền lợi khác kể cả không phải đóng thuế khi làm việc ở hải
ngoại. Toản có thái độ dứt khoát: nếu chỉ vì mục đích làm giàu, con chẳng cần
phải trở về Việt Nam. Họ cũng cho con biết đã có những phái đoàn Bác sĩ Mỹ gốc
Việt, không phải chỉ có nhóm lớn tiếng ồn ào như Lê Hoàng Bảo Long mà còn những
toán khác “có đầu óc hơn” âm thầm lặng lẽ đi về chuẩn bị cho mạng lưới y tế thị
trường này. Cơ sở đầu tiên sẽ là bệnh viện Thống Nhất, sẽ được tân trang và
upgrade đúng tiêu chuẩn Mỹ và bác sĩ hoàn toàn được đào tạo tại Mỹ. Không có gì
thay đổi là bệnh viện ấy vẫn ưu tiên điều trị cho các cán bộ cao cấp. Chỉ có
khác và “đổi mới” cho phù hợp với kinh tế thị trường, đây còn là nơi chữa trị
cho khách ngoại quốc có bảo hiểm giàu tiền bạc thuộc bốn biển năm châu. Nam
Triều Tiên có, Tàu Đài Loan có, Tàu Hồng Kông có, Mỹ, Pháp, Úc, Gia Nã Đại, có
đủ cả. Làm sao bảo đảm sức khỏe cho họ với tiêu chuẩn cao nhất để họ yên tâm
khai thác làm ăn và cả hưởng thụ trên khắp ngõ ngách của Việt Nam từ ải Nam
quan cho đến mũi Cà Mau. Và đây cũng là món lợi nhuận béo bở không phải chỉ có
các hãng bảo hiểm Mỹ đang muốn nhảy vào mà phải kể tới đám bác sĩ Mỹ gốc Việt
cũng đang nao nức rất muốn “về giúp Việt Nam”. Chưa qua tuổi 30, Toản suy
nghĩ trong sáng độc lập và tự tin trên bước đường dấn thân của nó. Không hẳn là
Chính đã đồng ý, nhưng lại rất hiểu tính cứng cỏi độc lập của con, Chính không
muốn có lần đụng độ thứ hai giữa hai bố con. Chính tạm yên tâm khi thấy con
mình cho dù với chọn lựa nào cũng thôi thúc bởi những động lực trong sáng, nó
không thể lẫn vào đám người cơ hội. Và theo một nghĩa nào đó, Chính thấy hơi
ganh tỵ với tuổi trẻ và sự cả tin đến trong suốt của con; rồi cho đó như một ý
nghĩ kỳ quái anh lắc đầu tự mỉm cười khi một mình lái xe đổ dốc trên con đường
về…
Hơn một lần viếng thăm Cali, nhưng mỗi chuyến đi đều đem lại
cho Chính những cảm tưởng đổi mới của những cộng đồng Việt Nam rất sinh động.
Thay vì chỉ hơn một giờ bay, Chính đã quyết định thuê một chiếc xe của hãng
Hertz từ phi trường, đích thân lái từ Palo Alto về tới Little Saigon. Chuyến đi
hướng về một thành phố trẻ trung của tương lai nhưng cũng lại là một cuộc hành
trình ngược về quá khứ nhìn lại khoảng thời gian đã mất. Anh nghĩ cho dù trong
bối cảnh lạnh lùng của thực tế chính trị, đương đầu với những vấn đề của Việt
Nam tương lai ở ngưỡng cửa thế kỷ 21, không phải chỉ có vận dụng bộ óc mà phải
là sự hoà hợp với rung động của con tim. Quỷ dữ không chỉ là bóng ma cộng sản
mà ngay chính cõi lòng sao vẫn cứ chai đá của chúng ta.
Tuy chỉ là câu nói đùa của Thiện nhưng sao vẫn cứ ám ảnh
Chính mãi. Rằng nếu có tên quá khích điên khùng bắn chết Lê Hoàng Bảo Long,
chắc Little Saigon sẽ buồn bã biết chừng nào. Chắc rồi cũng phải tìm cho ra một
Lê Hoàng Bảo Long thứ hai. Không có chống cộng thì còn đâu là sự sinh động của
Little Saigon. Chỉ có điều cộng sản thì ẩn hiện, lúc nào mục tiêu cũng di động
và xảo quyệt, vô hình trung bọn chúng đã khiến các tay xạ thủ chống cộng cũng
di chuyển để rồi tự nguyện sắp theo đội hình vòng tròn tự lúc nào và dĩ nhiên
ngay từ loạt súng đầu tiên tổn thất có thể kiểm kê được là nơi chính các
đồng bạn… Chính có dự định sẽ gặp Thiện — tác giả của Project 2000, nhằm kết
hợp toàn y giới ở hải ngoại mà Chính cho là táo bạo và hấp dẫn với quan niệm
“vận dụng và chuyển hóa tài lực của thế giới thành tài lực của Việt Nam, khai
thông những hưng thịnh của thế giới chuyển đổ về quê hương, thực hiện vận mạng
Việt Nam bằng những phương tiện của thế giới”… Dự trù hình thành một tổ
hợp vô vị lợi, mỗi y nha dược sĩ đóng 2000 Mỹ kim như một phần khấu trừ thuế
rất nhỏ trong phần thuế khóa rất lớn mà họ đóng góp hàng năm trên các vùng đất
tạm dung đang cưu mang họ, thì với một ngàn người tham gia số tiền hành sự đã
lên đến hai triệu đô la tiền mặt, với tiềm năng ấy thì không có việc gì mà Hội
y nha dược Thế giới không làm được, từ đáp ứng tức thời như cứu trợ đồng bào
nạn nhân trong bạo loạn ở Los Angeles, nạn nhân bão lụt thiên tai ở đồng bằng
sông Cửu Long, đến các công trình dài hạn như xây dựng Convention Center – Nhà
Văn hóa Công viên Việt Nam cạnh thủ đô Little Sài gòn, tham gia dứt điểm một dự
án y tế của OMS thanh toán bệnh Hansen ở Việt Nam vào năm 2000… Chính thấy rằng
chỉ ngay trong trái tim Tiểu Sài Gòn ấy giữa đa số thầm lặng đã có biết bao
nhiêu người có lòng có cái tâm thành: ông Đại tá chỉ huy đơn vị cũ với thành
tích 14 năm tù mới sang được tới Mỹ trong tình trạng sức khỏe suy kiệt chẳng
biết lo thân đã ngồi viết ngay thư đầu tiên liên lạc với Chính yêu cầu anh với
uy tín sẵn có giúp ông vận động dựng lại được bức tượng Thương Tiếc để mọi
người không quên những người lính đã chết. Tiến người bạn đồng môn, gốc tráng
sinh Bạch Mã chỉ có hai niềm say mê: phục hồi phong trào Hướng Đạo Việt Nam tại
hải ngoại cho giới trẻ và thiết lập một bệnh viện Việt Nam đầu tiên trên đất
Mỹ. Nguyễn lớp đàn anh của Chính, tuổi ngót 60 rồi mà vẫn còn độc thân, vẫn bền
bỉ trong bấy nhiêu năm liền là người bạn thiết tận tụy của thuyền nhân và cũng
là thầy thuốc miễn phí của giới văn nghệ sĩ các gia đình H.O. Liên một
bác sĩ muộn màng mới từ đảo qua đang sống mái ngày đêm đèn sách để trở lại hành
nghề nhưng vẫn tích cực mơ ước thực hiện một tượng đài vĩ đại Mẹ Bồng Con
lao vào đại dương theo nước non ngàn dặm ra đi — biểu tượng cho một cuộc
di dân khổng lồ của hai triệu người Việt đi khai sinh một siêu Việt Nam trong
lòng thế giới… Và còn biết bao nhiêu, bao nhiêu những điển hình và ý nghĩ tốt
đẹp khác nữa, vậy mà — Chính tự hỏi, tại sao anh và các bạn vẫn lạc nhau
trong bóng đêm của “kiêu khí, đố kỵ và mê chướng”, lại vẫn theo ngôn từ
của Thiện.
Bao nhiêu chục năm rồi, Chính vẫn là con người trăn trở, vẫn
là trí thức chứng nhân của những bi kịch của một thời nhiễu nhương và lừa dối
hào nhoáng. Giữa rất nhiều ồn ào và tiếng động của ngôn từ sa đọa và những thực
tế chính trị giả dối, nhiều lúc Chính cũng muốn tĩnh lặng, từ bỏ những suy nghĩ
khúc mắc, chỉ làm khổ chính anh và cảm tưởng như cũng chẳng ích gì cho ai;
nhưng như vậy thì anh đâu còn là Chính nữa. Trước sau anh vẫn là anh, con người
của xác tín. Dùng ngôn từ của điện toán, thì con người anh đã được thảo
chương –– programmed, chẳng thể nào mà nói đến chuyện đổi thay, chỉ có thể
anh sẽ nhạy cảm hơn, chấp nhận đối thoại với những khác biệt mà anh tin rằng
vẫn có thể có đoàn kết, cho dù đó là một liên kết nhiều màu sắc — rainbow
coalition, và theo anh sự đa dạng chính là chất men của sáng tạo. Anh hiểu
rằng số người còn theo và ủng hộ anh ngày càng ít đi. Không ra mặt chống anh
nhưng họ tách ra và mỗi người chọn đi theo hướng riêng của họ. Riêng anh chắc hẳn
rằng trong suốt phần cuộc đời còn lại, anh sẽ vẫn cứ đi trên con đường thẳng
băng đã vạch ra cho dù quạnh quẽ. Sự mau quên và thỏa hiệp của những người Việt
hải ngoại — mà anh cho là thương tổn tới nhân cách chính trị và quyền tỵ nạn
của họ, cộng thêm với sự vui mừng quá độ của người dân trong nước trước những
điều được gọi là “đổi mới” chỉ làm cho anh thêm đau lòng. Rồi ra ai thì cũng
tìm cách thích nghi để mà tồn tại, cuộc sống ngồn ngộn bản năng thì vẫn cứ dễ
dàng thay da đổi màu và bừng bừng đi tới. Số rất ít người cứng rắn nguyên tắc
và nhất quán như anh hình như đang có nguy cơ trở thành một chủng loại hiếm hoi
sắp bị tiêu diệt — endangered species. Chính còn lại bà mẹ già bên Việt
Nam, mái tóc đã trắng bạc như sương. Anh mơ một giấc mơ đơn giản, cũng chỉ mong
đất nước thanh bình để kịp về thăm mẹ, về thăm ngôi làng cũ, ngắm đàn trẻ thơ
nô đùa nơi sân trường làng, và hạnh phúc biết bao nhiêu khi được trở lại khám
bệnh chăm sóc cho những nông dân thân thuộc bao giờ cũng đôn hậu và chất phác
mà y phí có khi chỉ là một nải chuối, ít trái cây hay mấy hột gà tươi. Ước mơ
có gì là cao xa đâu nhưng sao vẫn ở ngoài tầm tay và có vẻ như còn rất xa vời.
Bởi vì anh vẫn dứt khoát tự nhủ lòng mình anh sẽ không thể và không bao giờ trở
lại quê hương như một kẻ bàng quan, một khách du lịch hay tệ hơn nữa như một
tên mại bản với xênh xang áo gấm về làng. Mặc dầu rất muốn gặp mẹ nhưng anh vẫn
không thể nào về với tâm cảnh và ngoại cảnh bây giờ.
Kể từ giữa thập niên 70, cùng với sự sụp đổ của miền Nam, là
một làn sóng ồ ạt dân tỵ nạn Đông Dương rải ra khắp nước Mỹ, nhưng đông đảo
nhất vẫn là tiểu bang Cali. Khó khăn của những người tới sớm không phải là ít.
Từ ngoài các căn cứ Pendleton, Fort Chaffee không phải chỉ có những bảo trợ
người Mỹ giàu lòng bác ái tới giúp đỡ họ mà cả không thiếu những người điạ
phương kỳ thị thù ghét trù ẻo và muốn đuổi họ về nước. “We Don’t Want them,
May They Catch Pneumonia And Die…”. Và trong đám người tỵ nạn ấy đã
có các đồng nghiệp của Chính. Cho tới nay con số bác sĩ Việt Nam lên tới
2000 chỉ riêng ở Mỹ, chưa kể một số không ít khác sống ở Canada, Pháp và Úc
châu và một số nước khác. Hơn 2500 bác sĩ trên tổng số 3000 của toàn miền Nam
đã thoát ra khỏi xứ, không khác một cuộc tổng đình công của toàn ngành y tế,
liên tục kéo dài từ 75 tới nay. Chính cũng biết rất rõ anh là một trong số ít
người đã vận động và lãnh đạo một cách có hiệu quả cuộc đình công dài bất tận
một cách không tiền khoáng hậu ấy.
Chính sẽ lần lượt ghé thăm: San Jose thung lũng điện tử hoa
vàng, Los Angeles thành phố thiên thần nhưng lại sắp kết nghĩa với thành phố
mang tên Hồ Chí Minh, Orange thủ đô tỵ nạn chống cộng với Sài Gòn Nhỏ và San
Diego nơi nổi tiếng khí hậu tốt nhất thế giới – đều là những nơi có đông đảo
người Việt, và con số ấy tiếp tục gia tăng không phải chỉ bởi những người mới
tới; mà còn do hiện tượng “di dân lần thứ hai” của những người Việt đã tới sinh
sống ở những tiểu bang khác, cuối cùng rồi cũng lựa chọn trở về Cali nơi có
nắng ấm, có khí hậu nhiệt đới giống Việt Nam như ở Đà lạt, họ nói với nhau như
thế.
Tiêu chuẩn hóa, đó là đặc tính rất Mỹ. Thành phố lớn nhỏ nào
ở Mỹ thì cũng rất giống nhau, với những trạm xăng, các siêu thị và những tiệm
fast food McDonald’s. Đi vào những phố chợ Việt Nam sầm uất ngay trên đường
Bolsa là thấy những tiệm phở, các siêu thị lớn nhỏ, phòng mạch bác sĩ, hiệu
thuốc tây, các văn phòng luật sư và dĩ nhiên cả những tòa báo.
Các đồng nghiệp của Chính đã có mặt ngay từ đầu trong số
đông đảo những người tới sớm. Họ biểu tượng cho một tập thể trí thức khoa bảng,
được sự giúp đỡ của chương trình tỵ nạn như mọi người, đa số đã mau chóng trở
lại hành nghề trong những điều kiện hết sức thuận lợi. Sau đó phải chi ai cũng
có trí nhớ tốt về những cảm xúc đầu tiên khi dứt bỏ hết mọi thứ bất kể sống
chết ra đi. Chính còn nhớ như in về những ngày ở trên đảo, Ngạn đã nhiều lần
tâm sự là chỉ mong có ngày đặt chân tới Mỹ. Anh chẳng bao giờ còn mơ ước tới
một nơi nào xa hơn nữa, cũng chẳng hề có cao vọng trở lại nghề cũ. Mà hạnh
phúc, nếu có, là được hít thở không khí tự do, được sống như một con người và
được khởi sự lại từ đầu, gây dựng mái gia đình bằng sức lao động của tay chân,
hy sinh cho tương lai thế hệ những đứa con. Nhưng sự thể lại tốt hơn với mong
đợi, chính Ngạn bằng trí thông minh nghị lực làm việc và dĩ nhiên cả may mắn
nữa, chỉ trong một thời gian ngắn anh là một trong số những người trở lại hành
nghề rất sớm. Là bác sĩ ở Mỹ có nghĩa là đã thuộc vào thành phần xã hội trung
lưu trên cao, địa vị hoàn cảnh của họ là ước mơ ngay cả đối với rất nhiều người
dân Mỹ bản xứ. Nhưng Ngạn và một số người khác đã không dừng lại ở đó. Và điều
gì phải đến đã đến. Hậu quả là một cuộc ruồng bố được mệnh danh là “gian lận
y tế lớn nhất trong lịch sử tiểu bang Cali”. Để trở thành tin tức hàng đầu
nơi trang nhất của báo chí và các đài truyền hình khắp nước Mỹ. Mới chín năm từ
ngày sụp đổ cả miền Nam đang còn là một cơn ác mộng chưa nguôi, biến cố tháng
Hai 1984 là một cơn mộng dữ thứ hai nhưng với bản chất hoàn toàn khác. Chưa bao
giờ hai chữ Việt Nam lại được nhắc tới nhiều như thế trong suốt tuần lễ. Cũng
chưa bao giờ quá khứ bị đối xử tàn nhẫn đến như thế. Cảnh tượng hàng loạt bác
sĩ dược sĩ trong đó có Ngạn bị các cảnh sát sắc phục còng tay ngoài đường, bêu
trước nắng gió đã bị báo chí Tivi Mỹ khai thác triệt để. Ai cũng cảm thấy
bị thiệt hại về mặt thanh danh, cộng thêm với những cảm giác bất an và sợ hãi.
Rõ ràng sau đó đã có một làn sóng nguyền rủa của người dân bản xứ nhắm chung
vào người Việt tỵ nạn. Trong các xưởng hãng, bọn sỗ sàng trực tiếp thì xách mé
gọi các đồng nghiệp Việt Nam là đồ ăn cắp, hoặc gián tiếp hơn họ cắt những bản
tin với hình ảnh đăng trên báo Mỹ đem dán lên tường chỗ có đông các công nhân
Việt Nam làm việc. Những người dân Việt bình thường lương thiện, tới Mỹ với hai
bàn tay trắng, đang tạo dựng lại cuộc sống từ bước đầu số không, bằng tất cả ý
chí và lao động cần mẫn của đôi bàn tay, nay bỗng dưng trở thành nạn nhân oan
khiên của kỳ thị và cả khinh bỉ. Có người uất ức quá đã phải la lên: hỡi các
ông trí thức khoa bảng ơi, ngay từ trong nước bao giờ và ở đâu thì các ông cũng
là người sung sướng, sao các ông không có mặt ở đây để nhận lãnh sự nhục nhã
này… Chuyện xảy ra đã hơn mười năm rồi mà vẫn tưởng như mới hôm qua, như một flashback
nặng nề diễn ra trong đầu óc Chính. Hiện giờ anh cố chủ động thoát ra khỏi
những ngưng đọng của ký ức về một giai đoạn bi ai quá khứ. Đưa tay bấm nút tự
động hạ mở kính xe, gió biển thổi cuộn vào trong lòng xe vỗ phần phật. Trời
xanh biển xanh, vẫn màu xanh thiên thanh ấy, có gì khác nhau đâu giữa hai bờ
đại dương này. Khổ hải vượng dương, hồi đầu thị ngạn. Ở đâu thì nỗi khổ
cũng mênh mông, nhìn lại chẳng thấy đâu là bờ. Con đường 101 dọc theo bờ
biển Thái Bình dương lúc này lại gợi nhớ Quốc lộ 1 bên kia đại dương trên đất
nước thân yêu của chàng. Vẫn những giọt nước ấy là nước mắt và làm nên biển cả,
những dải cát sáng long lanh như thủy tinh, những ruộng muối trắng, những hàng
dừa xanh. Quê hương của trí nhớ đó sẽ đẹp đẽ biết bao nhiêu nếu không có những
khúc phim hồi tưởng của “dọc đường số 1”, của “đại lộ kinh hoàng”,
của “những dải cát thấm máu” ở những ngày cuối tháng Ba 1975.
Little Saigon vẫn được coi là thủ đô của những người Việt tỵ
nạn. Theo nghĩa nào đó là một Sài Gòn nối dài. Nếu khảo sát về địa dư chí, thì
như một điều trớ trêu của lịch sử, tên người Việt Nam đầu tiên đến ở quận Cam rất
sớm này lại là một người Việt xấu xí — có tên là Phạm Xuân Ẩn, một đảng viên
cộng sản. Bề ngoài anh ta là một ký giả của tuần báo Times trong suốt 10 năm,
nhưng điều mà không ai được biết là từ lâu anh vốn là một điệp viên cao cấp của
Hà Nội. Ẩn đã từng được học bổng của Bộ Ngoại giao đi du học tại Mỹ vào cuối
những năm 50, học xong Ẩn đi tham quan khắp nước Mỹ rồi trở về sống ở quận Cam;
sau đó trở lại Sài Gòn làm cho hãng thông tấn Reuters của Anh, rồi tuần báo
Times của Mỹ cho tới những ngày cuối của miền Nam. Mãi sau này người ta mới
được biết Ẩn đã gia nhập phong trào Việt Minh rất sớm từ những năm 40, khởi từ
vai trò một giao liên chẳng có gì là quan trọng để rồi cuối cùng trở thành một
điệp viên chiến lược qua mắt được bao nhiêu mạng lưới CIA với danh hiệu phóng
viên rất an toàn của một tờ báo Mỹ uy tín… Hiện giờ đã có tới khoảng ba trăm
ngàn người Việt đang chiếm chỗ của Ẩn trước kia. Còn riêng Ẩn thì lại đang sống
lặng lẽ ở Sài Gòn, tiếp tục là chứng nhân cho cuộc cách mạng thất bại mà Ẩn đã
trung thành và toàn tâm phục vụ trong suốt hơn 40 năm. Trở về với thực tại của
quận Cam hôm nay, nếu Ẩn có dịp trở lại đây chắc cũng chẳng thể nào nhận ra
chốn cũ. Biến từ một khu phố chết với những vườn cam xác xơ, nay trở thành một
Sài Gòn Nhỏ trẻ trung và sầm uất. Con em của những người Việt mới tới, ngay từ
thế hệ di dân thứ nhất đã rất thành công trong học vấn và nâng tiêu chuẩn giáo
dục địa phương cao thêm một bước mới. Chúng tốt nghiệp từ đủ khắp các ngành.
Hơn cả giấc mộng Đông Du, chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy hai thập niên,
nước Việt Nam tương lai có cả một đội ngũ chuyên viên tài ba để có thể trải ra
cùng khắp.
Trong kiếp sống lưu dân, chưa làm được gì trực tiếp cho quê
hương nhưng Chính vẫn có thể mơ một Giấc Mộng Con Năm 2000. Trải
qua bao nhiêu hội nghị, Chính có cảm tưởng anh và các bạn vẫn như những người
không nhà cho dù các nơi tạm trú đều là những đệ nhất khách sạn không dưới bốn
sao. Chuyến đi thực tế này, dự định rằng là bước khởi đầu vận động hình
thành không phải chỉ là một mái nhà cho hội y sĩ, mà bao quát hơn là một convention
center, một toà Nhà Văn hóa, một Viện Bảo tàng, một Công viên Việt Nam. Đó
phải là công trình biểu tượng có tầm vóc, sẽ được thực hiện ưu tiên qua từng
giai đoạn. Nếu nghĩ rằng ngôi Đình là biểu tượng cho cái thiện của làng, thì
khu Công viên Văn hóa ấy là biểu tượng cho cái gốc tốt đẹp không thể thiếu của
các thế hệ di dân Việt Nam từ những ngày đầu đặt chân tới lục địa mới của cơ
hội này. Nó sẽ như một mẫu số chung rộng rãi cho một cộng đồng hải ngoại đang rất
phân hóa, giúp đám trẻ hãnh tiến hướng Việt tìm lại được cái căn cước đích thực
của tụi nó. Dự phỏng rằng Công viên Văn hóa sẽ được thiết lập trong vùng tây
nam Hoa kỳ, tọa lạc trên một diện tích rộng lớn phía bờ nam của xa lộ 22 và 405
tiếp giáp với khu Little Saigon. Đó là nơi có khả năng giới thiệu một cách sinh
động những nét đặc thù của văn hóa Việt qua những bước tái thể hiện các giai
đoạn lịch sử hào hùng và cả bi thảm của dân tộc Việt từ buổi sơ khai lập quốc.
Đây không phải thuần chỉ là công trình của một Uỷ ban Đặc nhiệm, gồm tập hợp
những tinh hoa trí tuệ của mọi ngành sinh hoạt. Đó phải là một công trình của
toàn thể những người Việt tự do ở hải ngọai, không phân biệt màu sắc cá nhân
phe nhóm. Bước khởi đầu đơn giản chỉ một đô la cho mỗi đầu người mỗi năm, thì
chúng ta đã có hơn một triệu Mỹ kim cộng thêm với hai triệu Mỹ kim nữa của Hội
y nha dược, Hội chuyên gia và các giới doanh thương. Sẽ không phải là nhỏ với
ba triệu đô la mỗi năm để làm nền móng khởi đầu cho Dự Án 2000 ấy. Ngũ niên đầu
là giai đoạn sở hữu một khu đất đủ lớn cho nhu cầu quy hoạch Công viên Văn hóa
với một convention center là công trình xây cất đầu tiên: đó như một cái
nôi cho sinh hoạt cộng đồng văn hóa và nghệ thuật. Chính cứ vẫn phải nghe
một điệp khúc đến nhàm chán rằng người Việt Nam không đủ khả năng tạo dựng
những công trình lớn có tầm vóc. Viện cớ rằng do những cuộc chiến tranh tàn phá
lại cộng thêm với khí hậu ẩm mục của một Á châu nhiệt đới gió mùa, đã không cho
phép tồn tại một công trình nhân tạo lớn lao nào. Nhưng bây giờ là trên đất
nước Mỹ và Chính muốn chứng minh điều đó không đúng. Yếu tố chính vẫn là con
người. Làm sao có được một giấc mơ đáng gọi là giấc mơ. Để rồi cái cần
thiết là chất xi măng hàn gắn và nối kết những đổ vỡ trong lòng… Chính đã hơn
một lần chứng tỏ khả năng lãnh đạo một tập thể trí tuệ nhất quán không làm gì
trong suốt hai thập niên qua; bây giờ thì anh đang đứng trước một thử thách
ngược lại, vận dụng sức mạnh cũng của tập thể ấy để phải làm một cái gì nếu
không phải ở trong nước thì cũng ở hải ngoại, trong một kế hoạch ngũ niên cuối
cùng của thế kỷ trước khi bước sang thế kỷ 21. Một ngũ niên có ý nghĩa của kế
hoạch và hành động thay vì buông xuôi.
Chỉ qua một vài bước thăm dò, Chính cảm nhận được ngay rằng
quả là dễ dàng để mà đồng ý với nhau khỏi phải làm gì. Nhưng vấn đề bỗng trở
nên phức tạp hơn nhiều khi bước vào một dự án cụ thể đòi hỏi sự tham gia và
đóng góp của mỗi người, kéo theo bao nhiêu câu hỏi “tại sao và bởi vì” từ ngay
chính những người bạn tưởng là đã rất thân thiết của anh đã cùng đi với nhau
suốt một chặng đường. Hội nghị Palo Alto sẽ là một trắc nghiệm thách đố không
phải của riêng anh mà là của toàn thể y giới Việt Nam hải ngoại.
Thay vì đứng ngoài bàng quan, hội Y sĩ Thế giới sẽ tiên
phong trực tiếp tham gia ngay từ bước đầu hình thành Công viên Văn hóa ấy. Đó
là một chuẩn bị thao dượt, như một ấn bản gốc cho mô hình của Viện Bảo tàng
Chiến tranh Việt Nam của ISAW. Người Mỹ có dự án ISAW (Institute for the
Study of American Wars) thiết lập một Quảng trường Hào hùng tại Maryland
gồm một chuỗi viện bảo tàng liên quan tới bảy cuộc chiến tranh, mà người Mỹ đã
trực tiếp can dự kể từ ngày lập quốc. Dĩ nhiên trong đó có chiến tranh Việt Nam,
cũng là cuộc chiến tranh duy nhất có chính nghĩa mà miền Nam Việt Nam và Mỹ đã
bị thua. Cung cấp dữ kiện đi tìm đáp số cho những câu hỏi vấn nạn tại sao sẽ
phải là nội dung của viện bảo tàng tương lai này. Hai triệu người thoát ra khỏi
nước bằng một cuộc di dân vĩ đại, họ không thể chấp nhận cuộc thất trận lần thứ
hai khác lâu dài và vĩnh viễn tại Valor Park với lặp lại những gian dối lịch sử
cũng vẫn do người cộng sản chủ động sắp xếp. Không phải chỉ là vấn đề ai thắng
ai; nhưng đó là nhân cách chính trị của hai triệu người di dân tỵ nạn đang phấn
đấu cho một thể chế chính trị tự do nơi quê nhà. Và Chính quan niệm những bước
hình thành khâu Viện Bảo tàng Việt Nam tại ISAW phải được khởi đầu từ dự án khu
Công viên Văn hóa Việt Nam năm 2000 ngay giữa thủ đô tỵ nạn. Đó là một phác
thảo và chọn lọc tất cả các hình ảnh tài liệu và chứng tích của các giai đoạn
Việt Nam tranh đấu sử. Đó là nơi giúp thế hệ trẻ hướng Việt tìm lại khoảng thời
gian đã mất, giúp chúng hiểu được tại sao chúng lại hiện diện trên lục địa mới
này.
…
Hình 17a:
trái, thư viết ngày 1/2/1995; phải, nhà văn Ngô Thế Vinh nhìn bởi Tạ Tỵ
Garden Grove, California, Jan 1996. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Trong một thư riêng gửi đi từ Garden Grove ngày 1/2/1995,
anh Tạ Tỵ viết:
Anh Ngô Thế Vinh,
Trước hết, nhân dịp đầu năm mới Ất Hợi, tôi xin gửi đến anh
cũng như gia đình, một năm mới an khang thịnh vượng, gặp nhiều may mắn, sau,
xin chân thành cám ơn anh đã có lòng quý mến mà gửi cho tập bản thảo “Giấc
mộng LỚN năm 2000”.
“Tôi chia sẻ rất nhiều với anh về những
điều anh viết, dù rằng tuổi tôi đã cao, cái sự “nhìn thấy những điều mình mơ
ước” chắc cũng khó mà thực hiện, nhưng đó cũng chẳng sao, vì tất cả đều cho mai
sau và cái “mai sau” đó so với sự luân chuyển của thời gian cũng như lịch sử nó
chẳng đáng gì. Ngọn lửa đã nhúm lên rồi, chỉ cần có thêm nhiều nguyên liệu tạo
nên sự bùng cháy trường kỳ trong lòng mỗi người
tỵ nạn có tâm huyết, bất luận trí thức hay bình dân. Mong lắm thay! Hy
vọng, hy vọng và hy vọng! Mong anh đừng bao giờ để có người nói: “Các ông
là những người đến muộn.”
Anh
Tạ Tỵ cũng đã hào hứng hứa hẹn, là khi Công Viên Văn Hóa ấy hình thành, anh sẽ
tặng bộ sưu tập tranh quý giá của anh, cùng với một bức tranh tường Mural 5m x
3m “Gửi Cho Thế Hệ Mai Sau”.
Hình 17b: trái,
thư viết ngày 29/2/2000: Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa
nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên,
cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ
Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang
sông” phải luỵ phà!…; phải, thư viết ngày 27/7/2000: Chúng tôi nhất
quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình? Nhưng dù
sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm
trời [tư liệu Ngô Thế Vinh]
San Diego, Feb 29, 2000
Thân gửi Anh Ngô Thế Vinh,
Rất cám ơn anh đã gửi cho 2 số báo Đi Tới. Nhìn qua, tuy
chưa đọc nhưng đã thấy rất có giá trị về phương diện Sử học và Địa lý. Tôi
thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh
Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh
Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là
người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà!…
Hôm nào rảnh rỗi mời anh xuống dưới San Diego, anh em mình
tiếp nối giấc mơ café, ngồi nhìn ra biển, ở một quán nào đó chưa biết! Riêng
anh, luôn luôn khoẻ mạnh, viết nhiều. Tạ Tỵ
Nhưng rồi, khá bất ngờ vào ngày 27/7/2000 từ San Diego cũng
trong một thư riêng khác anh Tạ Tỵ cho biết quyết định sẽ về sống ở Việt Nam.
San Diego, July 27, 2000
Thân gửi Anh Ngô Thế Vinh,
Trước hết, xin gửi nơi đây lời cầu chúc anh cùng gia đình
luôn luôn an mạnh.
Sau, xin báo tin để anh được biết đến tháng 10 này [năm
2000], chúng tôi sẽ về Việt Nam để sống… chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù
không biết trước cái gì sẽ xảy ra cho đời mình? Nhưng dù sao tôi cũng muốn được
an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Nếu có dịp
nào, anh gặp anh Bùi Khiết, anh cho tôi gửi lời thăm anh ấy. Anh Khiết là người
bạn tốt, rất tốt với tôi. Chúc anh sáng tác được nhiều tác phẩm hay để đời thế
là tôi vui rồi. Về Việt Nam, tôi vĩnh viễn rửa tay gác bút, chờ ngày đi vào cõi
Hư Không. Nhớ các anh lắm. Tạ Tỵ
Dù anh Tạ Tỵ đã có quyết định về sống ở Việt Nam từ tháng 7
năm 2000, nhưng rồi lần lữa thêm 3 năm nữa vì lý do sức khoẻ và chăm sóc y tế.
Tới năm 2003, sau khi vợ anh mất, Tạ Tỵ đã một mình âm thầm trở về Sài Gòn,
sống những tháng ngày cuối đời, cũng vẫn trong căn nhà cũ, cùng với gia đình
người con gái út Tạ Châu.
Chỉ một năm sau, anh Tạ Tỵ mất, ngày 24 tháng 8 năm 2004,
hưởng thọ 83 tuổi. Bạn bè văn nghệ cũ còn ở lại Sài Gòn đều tới tiễn đưa anh.
Đặc biệt có thêm một vòng hoa viếng của Đinh Cường từ Mỹ, do Dương Nghiễm
Mậu – cũng là người anh em cột chèo với Đinh Cường đại diện đem tới.
Anh Tạ Tỵ đã toại nguyện, anh được an nghỉ nơi quê nhà, “tấm
thân tứ đại” của anh được hỏa táng để trở về với cát bụi, nhưng tên tuổi Tạ
Tỵ và các tác phẩm của anh thì vẫn trường tồn trong suốt dòng chảy của văn hóa
dân tộc.
Hình 18: Tạ Tỵ là hình ảnh con cá Hồi sau những tháng năm vùng vẫy ngoài đại dương, đến cuối đời sức cùng lực kiệt, vẫn với một bộ nhớ không suy suyển, đã bất chấp những ghềnh thác, để từ biển rộng trở lại con sông dài, chỉ để được trở về nguồn.