Raymond
Clevie Carver Jr. (1938 -1988)
Nhà
thơ và nhà viết truyện ngắn. Được xem là một trong những nhà văn nổi bật của Mỹ.
Sinh
quán ở Clatskanie, Oregon, cạnh dòng sông Columbia. Lớn lên ở Yakima,
Washington.
Sau
khi tốt nghiệp trung học, ông làm đủ thứ việc như trong hãng xưởng, người giữ vệ
sinh, phụ tá thư viện …Sau cùng đi dạy Anh ngữ ở đại học Syracuse.
Thích
sáng tác, ông theo học đại học cộng đồng Chico State và đeo đuổi các lớp dạy
sáng tác của tiểu thuyết gia John Gardner. Tuyển tập truyện đầu tay: No
Heroics, Please. 1992 và Call If You Need Me, 2010.
Giải
Pulitzer cho truyện 1977. Giải O, Henry Awards. Được dựng tượng tại thành phố
Clatskanie, Oregon.
Raymond
Carver đóng vai trò quan trọng trong văn chương Hậu Hiện Đại. Truyện ông khai mở
những hướng đi mới cho những chủ nghĩa và các phong trào sáng tác cuối thập
niên 1990 bước sang thế kỷ 21.
NHÀ THỜ
Người
đàn ông mù này, bạn cũ của vợ tôi, anh đang trên đường đến đây, sẽ ở lại đêm. Vợ
anh vừa qua đời. Anh đi thăm gia đình vợ ở tiểu bang Connecticut. Từ nơi ấy,
anh điện thoại cho vợ tôi, sắp xếp chuyến đi qua. Anh sẽ đến bằng xe lửa, đường
dài khoảng năm giờ. Vợ tôi sẽ ra đón tại nhà ga. Họ chưa gặp nhau lại, kể từ
mùa hè nàng làm việc cho anh ở Seattle mười năm trước. Nhưng họ giữ liên lạc,
nói chuyện bằng thâu băng gửi qua bưu điện. Tôi không hào hứng việc anh đến
chơi. Chẳng quen biết gì. Cảm thấy phiền hà vì anh bị mù. Ý tưởng mù đến từ những
phim ảnh tôi xem. Trong phim, người mù di chuyển chậm chạp, không bao giờ cười,
có chó dẫn đường. Thực sự, tôi không mong đợi có người mù ở chung trong nhà.
Năm
đó, mùa hè ở Seattle, nàng cần việc làm vì không có tiền. Cuối mùa hè, nàng chuẩn
bị kết hôn với một người trong trường đào tạo sĩ quan. Ông này cũng nghèo nhưng
họ yêu nhau, …v…v… Nàng đọc báo, thấy quảng cáo: “CẦN NGƯỜI GIÚP VIỆC: Đọc
cho người mù.” Bên dưới ghi số điện thoại. Nàng gọi và hẹn đến nhà, nhận được
việc làm ngay hôm đó. Suốt mùa hè, nàng đọc cho anh ta nghe nhiều thứ, đại loại
như những nghiên cứu, báo cáo, thư tín, giúp anh sắp xếp văn phòng nhỏ trong cơ
quan dịch vụ xã hội của quận hạt. Vợ tôi và anh mù trở thành bạn tốt. Ngày cuối
cùng trước khi từ giã, anh mù hỏi, liệu anh có thể sờ vào mặt nàng không và
nàng ưng thuận. Sau này, nàng kể cho tôi nghe, anh ấy đã chạm vào tất cả các bộ
phận trên mặt, kể cả mũi và cổ. Nàng không bao giờ có thể quên được. Thậm chỉ,
đã cố gắng làm một bài thơ về cảm xúc này. Nàng luôn luôn nỗ lực làm thơ, mỗi
năm chừng một hoặc hai bài, thường là về điều gì thực sự quan trọng đã xảy
ra.
Khi
chúng tôi bắt đầu hẹn hò, nàng cho tôi xem bài thơ. Trong thơ, nàng ghi lại những
ngón tay của anh, cách chúng di chuyển tràn ngập trên mặt. Rồi nói về cảm xúc trong
lúc đó, những gì đã hiện ra trong tâm tưởng khi anh mù sờ lên mũi và đôi môi.
Tôi nhớ, mình không nghĩ nhiều về bài thơ. Dĩ nhiên, không nói ra, có lẽ, không
hiểu mấy về thơ. Phải thừa nhận rằng thơ không phải là thứ chữ nghĩa đầu tiên
mà tôi sẽ chọn nếu muốn tìm một thứ gì để đọc.
Dù
sao, người trong trường sĩ quan ấy là người đầu tiên hưởng được sự ưu ái, là
người yêu thời trẻ của nàng. Không sao. Điều tôi muốn nói, nàng đã cho anh mù sờ
mặt để tạm biệt, như một cách kết hôn với nàng lúc đó, anh hiện giờ là một hạ
sĩ quan và nàng đã rời khỏi Seattle. Nhưng vẫn giữ liên lạc, nàng gọi lần đầu
tiên sau một năm hoặc lâu hơn. Một đêm, nàng điện thoại cho anh mù từ một căn cứ
không quân ở Alabama. Nàng muốn tâm sự. Họ trò chuyện. Anh yêu cầu nàng gửi một
cuốn băng, kể anh nghe chuyện đời của nàng. Vợ tôi thâu băng và gửi đi. Trong
băng, có đoạn nàng tâm sự với anh mù, nàng rất yêu chồng nhưng không thích nơi
họ đang sống. Nàng cũng không thích anh ta là thành phần của công nghiệp quân sự.
Rồi kể cho anh nghe việc đã làm một bài thơ về anh và một bài thơ khác về chuyện
làm vợ một sĩ quan không quân, nhưng chưa xong, còn đang lỡ dỡ. Anh mù thâu cuốn
băng gửi trả lời. Nàng thâu băng rồi gửi tiếp. Việc này kéo dài trong nhiều
năm.
Làm
vợ một sĩ quan thường bị di chuyển từ căn cứ này sang căn cứ khác. Nàng gửi
băng từ Moody AFB, McGuire, McConnell, và sau cùng là Travis, gần Sacramento. Nơi
một đêm, nàng cảm thấy cô đơn vì mất dần những người quen trong cuộc sống thuyên
chuyển. Cảm thấy không còn có thể bước thêm một bước nào nữa. Nàng nuốt sạch hết
các viên thuốc trong tủ thuốc gia đình, nốc trơn tru, uống hết một chai Gin.
Vào nằm bồn nước nóng rồi hôn mê.
Nhưng
thay vì chết, nàng chỉ ngã bệnh. Nôn mửa. Ông sĩ quan của nàng – vì sao hắn
không có tên? Người tình thuở thiếu nữ, hắn
còn muốn gì nữa? – không biết từ đâu xuất hiện, tìm thấy nàng, gọi xe cứu thương.
Ngay trước đó, nàng đã thâu tất cả vào cuốn băng và gửi cho anh mù. Trong thời
gian qua, nàng đã thâu hết mọi chuyện vào băng rồi gửi tốc hành. Bên cạnh làm
thơ mỗi năm, tôi nghĩ, thâu và gửi băng
là cách nàng giải trí. Trong một đoạn băng, nàng nói với anh mù, đã quyết định
sống xa anh chồng sĩ quan một thời gian. Trong cuốn khác, nàng nói về việc ly dị.
Chúng tôi bắt đầu đi ra ngoài giao tiếp vui chơi, dĩ nhiên, anh mù đã biết.
Nàng kể cho anh nghe hết mọi chuyện hoặc đối với tôi, có vẻ như vậy.
Một
lần, nàng hỏi tôi, có muốn nghe một đoạn băng mới nhất của anh mù không. Chuyện
này xảy ra một năm trước, nàng nói, anh ấy nói về tôi. Tôi đồng ý nghe băng.
Bày đồ uống ra, cùng nhau ngồi trong phòng khách, sẵn sàng lắng nghe. Trước hết,
nàng lắp băng vào máy, rồi điều chỉnh những nút số. Tiếp theo, nàng bấm nút cho
máy chạy. Cuốn băng lên tiếng, ai đó bắt đầu nói quá lớn, nàng hạ âm thanh xuống.
Sau vài phút trò chuyện mào đầu, nghe được tên tôi từ miệng một người lạ, người
mù mà tôi chưa hề gặp. Rồi lần lần đến đoạn: “Từ những gì em nói về anh ấy, tôi chỉ có
thể kết luận...” Chúng tôi bị gián đoạn bởi tiếng gõ cửa, một chuyện gì đó,
đã làm chúng tôi không bao giờ quay trở lại nghe tiếp đoạn băng. Có lẽ, cũng chẳng
sao. Tôi nghe đủ những gì muốn nghe.
Bây
giờ, lại anh mù này đến ngủ trong nhà tôi.
Tôi
hỏi vợ: “Có lẽ, anh có thể đưa anh ấy đi chơi bowling.” Đang bào vỏ
khoai tây, đặt con dao trên tay xuống, quay lại, nàng nói:
“Nếu
còn yêu em, anh có thể làm điều này. Nếu hết yêu em, cũng được thôi. Nhưng nếu
anh có người bạn, bất kỳ là ai, đến nhà thăm viếng, em sẽ làm cho người ấy cảm
thấy thoải mái.” Nàng lau tay với khăn rửa chén.
“Anh
không có bạn mù.” Tôi nói.
“Anh
chẳng có bạn nào cả. Chỉ như vậy. Mẹ kiếp. Vợ anh ấy vừa mới chết. Anh hiểu
không. Người đàn ông này vừa mất vợ.”
Tôi
làm thinh. Nàng kể cho tôi nghe một ít chuyện về vợ của anh bạn mù. Tên là
Beulah. Đó là tên của một phụ nữ da màu.
“Cô
ta là người da đen, phải không?”
“Anh
điên rồi hay sao? Anh đổi tính hả?” Nàng cầm củ khoai tây lên.
Tôi thấy củ khoai rơi xuống sàn, lăn vào dưới bếp nấu. “Anh nghĩ gì vậy. Say
rồi hả?”
“Anh
chỉ hỏi thôi.”
Ngay
sau đó, nàng kể lể nhiều chi tiết hơn những gì tôi muốn biết. Pha thêm rượu,
tôi ngồi lại trong bếp, lắng nghe. Từng mảnh truyện bắt đầu ráp lại.
Beulah
đã làm việc cho anh mù vào mùa hè sau khi vợ tôi xin nghỉ. Không bao lâu sau, họ
làm đám cưới trong nhà thờ, một đám cưới nhỏ, ai mà muốn đi dự đám cưới trong
nhà thờ? Chỉ có hai người họ, thêm ông bà bộ trưởng. Nhưng lễ lạc đám cưới ở
nhà thờ đều giống nhau. Anh mù nói, Beulah muốn như vậy. Cho dù Beulah đã biết
chắc đang mang bệnh ung thư bứu. Sau tám năm quấn quít bên nhau, lời của vợ
tôi, họ không rời nhau, sức khỏe Beulah sa sút nhanh chóng. Cô ta qua đời trong
bệnh viện ở Seattle, anh mù ngồi cạnh bên và nắm chặt tay vợ. Họ kết hôn, sống
chung, ngủ chung, làm tình, rồi anh mù phải chôn cố ấy. Trải qua tất cả những
thứ này, mà, mẹ kiếp, không hề thấy mặt người phụ nữ đó ra sao. Vượt qua sức hiểu
biết của tôi. Nghe kể, tôi có lòng thương hại anh mù đôi chút. Rồi thấy được
mình đang nghĩ, đời người thật tội nghiệp, người đàn bà này hẳn phải được tôn
trọng. Thử nghĩ, một người đàn bà không bao giờ thấy được hình ảnh mình như đã
thấy trong mắt người yêu. Một người đàn bà mà ngày này qua ngày kia không nhận
được một lời khen nào dù rất bình thường từ người mình thương. Một người đàn bà
mà người chồng không bao giờ có thể đọc những cảm xúc hiện lên trên mặt, dù khổ
đau hay sung sướng. Dù có trang điểm hay không, chẳng có gì khác biệt? Nếu cô ấy
muốn, có thể vẽ một mắt màu xanh, đeo bông tai trên mũi, mặc quần vàng, giày
tím, vẫn chẳng sao. Để rồi rơi vào cõi chết, bàn tay anh mù ôm ấp bàn tay cô, từ
đôi lỗ mắt sâu tuôn ra dòng lệ - tôi đang tưởng tượng - Suy nghĩ sau cùng của cô, có thể như thế này:
Trên con đường tốc hành đi xuống mồ mà thậm chí anh chưa bao giờ biết mặt mũi
dáng vóc cô ra sao. Chỉ để lại một hợp đồng bảo hiểm ít tiền và một nửa đồng xu
20 pepso cho Robert, (anh mù). Còn nửa đồng xu kia chôn trong quan tài theo cô ấy.
Thật thảm hại.
Rồi
đến giờ đã định, vợ tôi đến nhà ga đón anh. Tôi không thể làm gì khác hơn là chờ
đợi, hẳn vậy, cứ đổ lỗi cho anh ấy. Tôi đang uống rượu, xem truyền hình, thì
nghe tiếng xe ngừng trên lối vào. Cầm ly rượu, đứng lên khỏi ghế dài, đến cửa sổ
nhìn ra. Thấy vợ tôi đang cười khi đậu xe. Thoải mái ra khỏi xe, đóng cửa, trên
môi vẫn còn nụ cười. Thật đáng ngạc nhiên. Nàng đi qua bên kia xe, trong khi anh mù đang
loay hoay leo xuống. Người mù này có đặc điểm, một hàm râu dày. Râu trên mặt
mù! Tôi nghĩ, quá sức. Anh mù thò tay vào hàng ghế sau, lấy cái vali. Vợ tôi nắm
tay anh, đóng cửa xe, nói cười luôn miệng, đưa anh rời lối vào, bước lên các bậc
thang dẫn đến hiên trước. Tôi tắt truyền hình, uống cạn ly rượu, rửa ly, lay
khô tay. Rồi đi ra cửa.
“Đây
anh Robert. Đây chồng em.” Trông nàng rạng rỡ, tay nắm vào áo
khoác của người bạn.
Anh
để vali xuống, đưa tay lên.
Tôi
bắt lấy. Anh bóp khá mạnh và giữ tay tôi một khoảnh khắc rồi buông ra. Anh nói
vui vẻ:
“Tôi
có cảm giác như chúng ta đã gặp nhau”
“Tôi
cũng vậy.” Không còn biết nói gì. “Rất vui, tôi nghe nói về anh
rất nhiều.” Chúng tôi bắt đầu bước đi. Một nhóm nhỏ di chuyển từ hiên ngoài
vào phòng khách. Vợ tôi dắt tay anh. Tay còn lại anh cầm va li. Vợ tôi hướng dẫn
như: “Bên trái của anh. Đúng rồi. Coi chừng nha. Chiếc ghế ở đây. Đúng chỗ.
Ngồi xuống đi. Đây là ghế dài. Mới mua khoảng hai tuần trước.”
Tôi
tính góp chuyện bằng cách nói về ý thích chiếc ghế cũ nhưng im lặng. Rồì muốn
nói chuyện khác, chuyện qua đường, về chuyến đi có thể ngắm cảnh ở Hudson. Khi
đi đến New York, nên ngồi bên phải tàu lửa,
khi rời khỏi New York, nên ngồi bên trái.
Tôi
hỏi: “Anh đi bằng tàu lửa có thích không? Anh ngồi bên mé nào của con tàu?”
Nàng
chen vào: “Hỏi gì lạ vậy! Ngồi bên nào có gì khác biệt?”
“Anh
chỉ hỏi thôi.”
Anh
mù trả lời: “Ngồi bên phải. Tôi không đi tàu lửa gần 40 năm. Chỉ đi lúc còn
nhỏ với cha mẹ. Đã quá lâu, hầu như đã quên mất cảm giác đó. Bây giờ, mùa đông
đã chiếm ngự bộ râu của tôi, dù sao, tôi cũng đã nghe nói. Này em, có thấy anh
khác xưa nhiều không?” anh ta hỏi vợ tôi.
“Robert,
anh khác nhiều. Rất vui khi gặp lại anh.”
Lúc
này, ánh mắt nàng mới rời anh mù và nhìn tôi. Tôi cảm nhận nàng không thích câu
chuyện vừa xảy ra. Tôi nhún vai.
Tôi
chưa hề gặp hoặc biết rõ một người mù nào. Anh mù này đã ngoài 40, Mập mạp, đầu
hói, vai khòm như đang mang thứ gì nặng nề. Mặc quần tây nâu, mang giày nâu, áo
màu nâu lợt, thắt cà vạt, khoác áo thể thao. Bảnh bao. Hàm râu đầy đặn. Không
chống gậy. Không đeo kính đen. Tôi cứ tưởng, người mù bắt buộc luôn luôn mang
kính đen. Thực ra, ước gì anh mang cặp kính đó. Thoạt nhìn, đôi mắt anh giống
như đôi mắt của mọi người. Nếu nhìn kỹ, sẽ nhận ra có điều gì khác lạ. Thấy nhiều
màu trắng trong tròng đen. Và con ngươi tự động di chuyển trong hốc mắt, hình
như anh không biết hoặc không thể điều khiển. Tôi hơi rùng mình. Khi nhìn đăm
đăm vào mặt anh, thấy con ngươi bên trái quay về phía mũi, trong khi con ngươi
kia đang cố gắng đứng lại một chỗ. Đó là nỗ lực của anh nhưng không hề biết con
ngươi kia đang lang thang vô định.
Tôi
nói: “Để tôi rót rượu cho anh. Anh muốn loại gì? Chúng tôi có mỗi thứ một
ít. Tuyển chọn rượu là trò giải trí của chúng tôi.”
“A,
tôi là người mê Scotch.” Anh mau mắn lớn tiếng trả lời.
“Được
ngay. A, mê rượu. Tôi biết thú vui này.”
Anh
chạm những ngón tay dọc theo chiếc vali đặt bên cạnh ghế dài. Anh đang tự quan
tâm về mình. Chuyện tự nhiên thôi.
Vợ
tôi nói: “Em sẽ mang vali lên phòng anh.”
“Không,
không sao. Anh sẽ mang nó, khi lên phòng.”
“Pha
chút nước vào Scotch không anh?”
“Một
chút thôi.”
“Tôi
biết rồi.”
“Rất
rất ít. Diễn viên Ái Nhĩ Lan, Barry Fitgerald? Tôi giống ông ấy. Figeraid nói,
khi ông uống nước, là uống nước. Khi uống whiskey thì uống whiskey.” Vợ
tôi bật cười. Anh mù đưa tay từ từ nâng bộ râu lên rồi thả xuống.
Tôi
pha ba ly Scotch lớn, mỗi ly thêm một chút nước. Sau đó, chúng tôi ngồi thoải
mái, chuyện trò về chuyến đi của Robert. Đầu tiên là chuyến bay dài từ bờ Đại
Tây Dương đến Connecticut, chúng tôi đã bàn đến. Tiếp theo là từ Connecticut
lên đây bằng tàu lửa. Chúng tôi uống thêm một ly nữa, khi nói về chuyện này.
Nhớ
lại mình đã đọc đâu đó, người mù không hút thuốc vì, theo ước đoán, họ không
nhìn thấy khói thuốc thở ra. Đối với người mù, tôi chỉ biết bao nhiêu đó. Nhưng
anh mù này hút thuốc, hút tận cán rồi mồi điếu khác. Hút đầy gạt tàn, vợ tôi phải
đi đổ.
Ngồi
vào bàn ăn tối, chúng tôi uống một ly khác. Nàng gắp thức ăn đầy đĩa của
Robert, thịt bò nướng, khoai tây bào mỏng, đậu đũa. Tôi làm sẵn cho anh hai miếng
bánh mì trét bơ. “Này, bánh mì bơ cho anh.” Tôi nuốt vài ngụm rượu rồi
nói: “Bây giờ chúng ta đọc kinh,” anh mù cúi đầu. Nàng nhìn tôi há miệng
kinh ngạc. “Xin cho điện thoại không vang lên và thức ăn không nguội lạnh.”
Chúng
tôi bắt đầu và ăn hết những gì dọn trên bàn, ăn như không có ngày mai. Chúng
tôi không trò chuyện, chỉ ăn. Mang khăn lên cổ.
Cắm cúi trên bàn. Chú tâm ăn một cách nghiêm chỉnh. Anh mù xác định được
ngay những thức ăn, biết mọi thứ ở vị trí nào trong đĩa của mình. Tôi thán phục
khi thấy anh dùng dao và nĩa cắt thịt. Anh cắt hai miếng, bỏ vào miệng, rồi ăn
nhiều khoai tây, tiếp theo là đậu đũa. Sau đó, xé một mẩu bánh mì trét bơ, nhai
ngấu nghiến. Rồi, nốc một hơi sữa. Thỉnh thoảng, anh dùng tay bốc ăn, không ngại
ngùng gì.
Chúng
tôi cạn bữa, kể cả một nửa chiếc bánh dâu tây. Quá no. Trong vài khoảnh khắc,
dù ngồi vẫn cảm thấy choáng váng. Thực sự thấy đôm đốm trước mặt. Cuối cùng,
chúng tôi đứng lên, rời bỏ những chiếc đĩa dơ trên bàn. Không nhìn lại. Kéo
nhau vào phòng khách, chìm mình vào chỗ ngồi cũ. Robert và vợ tôi ngồi trên ghế
dài, tôi chọn ghế bành. Cùng nhau uống hai hoặc ba ly trong lúc họ tâm sự những
chuyện quan trọng đã xảy ra trong vòng mười năm qua. Hầu hết, tôi chỉ lắng
nghe. Thình thoảng mới xen vào, vì không muốn anh mù nghĩ tôi đã rời bỏ phòng
khách. Không muốn nàng nghĩ tôi bị bỏ rơi. Họ kể lể những chuyện suốt mười năm,
trong khi tôi đợi chờ vô vọng để nghe tên mình trên bờ môi ngọt ngào của vợ: “Rồi
người chồng thương yêu đã bước vào đời em.” Đại khái chỉ cần như vậy. Nhưng
không nghe một lời nào.
Nói
thêm về Robert. Có vẻ như anh ta làm được nhiều chuyện, mỗi thứ một ít, là những
việc thành công bình thường của đui mù. Gần đây nhất, anh và vợ anh đã sở hữu một
nhà phân phối Amway, tôi đoán chừng, họ sống bằng lợi tức đó. Anh mù cũng là một
nhà điều hành đài phát thanh. Bằng giọng nói vang vang, anh nói về những đối
thoại giữa anh và các nhà điều hành ở đảo Guam, ở Phi Luật Tân, ở Alaska, thậm
chí, cả Tahiti. Anh kể, có nhiều bạn ở các nơi đó sẽ sẵn sàng đón tiếp, nếu khi
nào nàng muốn đi thăm viếng. Thỉnh thoảng quay mặt mù về hướng tôi, tay nâng bộ
râu lên, hỏi đôi ba điều, ví dụ như, tôi ở trong tình cảnh này được bao lâu rồi?
(Ba năm). Có thích việc đang làm không? (Không). Có định giữ lấy công việc hay
không? (Những lựa chọn sẽ ra sao?) Cuối cùng, khi đoán chừng anh không còn gì để
hỏi, tôi đứng lên, mở truyền hình.
Vợ
tôi nhìn tôi tỏ vẻ bực bội. Tưởng chừng sắp sôi sục. Rồi nàng nhìn anh mù hỏi: “Robert,
anh có TV không?”
“Em
à, anh có hai máy. Một máy màu, một máy trắng đen, đều là di vật cũ. Thật buồn
cười, nếu anh mở máy, luôn luôn mở đúng TV màu, có buồn cười không?”
Không
biết phải nói gì. Hoàn toàn không có gì để nói. Không ý kiến. Tôi đành chú ý xem
tin tức, lắng nghe những lời thông báo.
Anh
mù nói: “Đây là truyền hình màu. Đừng hỏi tôi tại sao, nhưng tôi tự nhiên biết.”
“Chúng
tôi mới đổi TV cách đây không bao lâu.” Tôi tiếp lời.
Anh
mù uống một hớp. Vén râu lên, ngửi, rồi thả xuống. Ngả người dựa vào lưng ghế
dài. Đặt gạt tàn thuốc trên bàn, bật lửa đốt điếu thuốc. Bắt chéo hai bàn chân.
Nàng che miệng, ngáp. Vươn vai. Nói: “Em muốn lên lầu, mặc áo choàng hoặc
thay bộ đồ khác. Robert, cứ thoải mái như ở nhà anh.”
“Anh
rất thoải mái.”
“Em
muốn anh được thoải mái khi ở đây.”
“Anh
đang thoải mái.”
Sau
khi nàng rời phòng khách. Chúng tôi nghe báo cáo thời tiết, tiếp theo là tin tức
tóm lược về thể thao. Lúc đó, nàng vắng mặt đã khá lâu, không biết có trở lại
hay không. Có lẽ, không chừng đã đi ngủ. Ước gì, nàng xuống đây, tôi không muốn
một mình với anh mù. Tôi hỏi anh, có muốn uống một ly nữa. Anh trả lời, chắc là
vậy. Rồi hỏi anh có muốn hút cần sa. Tôi nói, vừa quấn được một ít điếu. lúc
này thì chưa, nhưng chút nữa sẽ hút.
“Tôi
sẽ thử với anh.”
“Đúng
rồi. Vậy mới được.”
Đi lấy
thêm rượu rồi ngồi lên ghế dài với anh. Quấn hai điếu lớn. Tôi đốt một điếu rồi
đưa vào ngón tay của anh. Anh kẹp lấy, hít một hơi.
“Nén
khói lại càng lâu càng tốt.” Tôi có thể thấy anh ta chẳng
biết gì về cần sa.
Vợ tôi
xuống lầu trở lại, mặc áo choàng hồng và mang dép cùng màu.
“Mùi
gì đây?” Nàng hỏi.
Tôi
trả lời: “Chúng tôi muốn hưởng thụ một ít cần sa.”
Nàng
nhìn tôi một cách cáu kỉnh. Rồi nhìn anh mù, nói: “ Em không biết anh hút
thuốc.”
“Em à,
bây giờ anh hút đây. Thứ gì cũng có lần đầu tiên. Nhưng anh chưa có cảm giác gì
hết.”
Tôi
xen vào: “Thứ thuốc này nhẹ. Êm. Loại cần sa dễ hút. Không gây nhiều lôi thôi.”
Anh
cười: “Này bạn, chưa phê lắm.”
Vợ tôi
ngồi trên ghế dài giữa tôi và anh mù. Tôi đưa nàng điếu thuốc. Nàng đón lấy rồi
hút một hơi. Trả lại tôi, hỏi: “Đưa cho ai đây? Đáng lẽ, em không nên hút.
Buồn ngủ mở mắt không ra. Đáng lẽ không nên ăn tối quá no.”
Anh
mù nói: “Tại cái bánh dâu. Nó làm no và buồn ngủ.” Anh cười lớn tiếng, rồi
lắc đầu qua lại.
Tôi
nói: “Còn nửa cái bánh dâu đàng kia.”
Nàng
hỏi: “Robert, anh muốn ăn bánh không?”
“Có
lẽ, một lúc nữa.”
Chúng
tôi chú ý nghe truyền hình. Vợ tôi lại ngáp. Nói: “Robert, giường chăn đã
chuẩn bị sẵn, anh có thể đi ngủ khi nào anh muốn. Anh đã đi suốt một ngày dài.
Khi nào mệt, cứ nói cho biết.” Nàng kéo tay anh mù. “Robert?”
Anh
quay lại, nói: “Anh đang thực sự vui sướng. Còn hơn cả nghe băng thâu, phải
không?”
Tôi
nói: “Đến phiên anh.” Đưa điếu thuốc vào giữa hai ngón tay. Anh hít, nén
lại, thở ra. Giống như anh đã quen hút từ năm chín tuổi.
“Cảm
ơn nha. Nhưng có lẽ đã quá đủ cho tôi. Tôi nghĩ, đã bắt đầu phê rồi.” Anh
đưa mẩu thuốc đang cháy dỡ sang vợ tôi.
Nàng
nói: “Em cũng vậy. phê rồi.” Nàng cầm mẩu thuốc chuyển sang tôi. “Em
sẽ ngồi đây một lát với hai anh, nhắm mắt một chút. Đừng quan tâm đến em. Anh
nào cũng vậy, nếu cảm thấy phiền, cho em biết. Nếu không, em nhắm mắt ngồi đây
cho đến khi các anh đi ngủ. Robert, khi nào cần đi nghỉ, phòng ngủ đã sẵn sàng.
Sát phòng ngủ của vợ chồng em, trên đầu cầu thang. Chúng tôi sẽ đưa anh lên,
khi nào anh muốn. Các anh nhớ gọi em dậy, nếu em ngủ quên ở đây.” Vừa nói
nàng vừa nhắm mắt, lịm dần vào giấc ngủ.
Chương
trình tin tức chấm dứt. Đứng dậy, đổi sang đài khác. Ngồi xuống lại trên ghế
dài. Ước gì vợ tôi đừng ngủ. Đầu nàng ngã trên lưng ghế, hả miệng. Xoay người,
chiếc áo choàng tuột khỏi chân, để lộ chiếc đùi tươi mát. Tôi chồm đến kéo áo
choàng che lại, vừa liếc nhìn anh mù. Điên thật, có thấy quái gì đâu. Tôi mở
tung áo ra.
“Lúc
nảy anh nói anh muốn ăn bánh dâu phải không?”
“Chút
nữa, sẽ ăn.”
“Anh
mệt chưa? Buồn ngủ chưa? Có muốn tôi đưa anh lên phòng?”
“Chưa.
Tôi sẽ thức với anh. Nếu được, tôi sẽ ở đây cho đến khi anh muốn đi nghỉ. Chúng
ta chưa có dịp trò chuyện, phải không? Từ đầu đến giờ, giống như tôi và vợ anh đã
chiếm độc quyền.” Anh ta nâng hàm râu lên rồi thả xuống. Nhặt
điếu thuốc rồi cầm lấy bật lửa.
“Được
quá. Có bạn trò chuyện là tốt rồi.” Tôi cảm thấy hài lòng. Mỗi
đêm, sau khi hút cần sa, thức một mình cho đến khi chìm vào giấc ngủ. Tôi và
nàng ít khi đi ngủ cùng một lần. Khi ngủ tôi thường thấy những giấc mơ. Thỉnh
thoảng thức dậy lỡ dở, con tim tôi nổi loạn.
Đôi
khi, truyền hình chiếu về nhà thờ và thời Trung cổ. Không phải chương trình
bình thường trên đài. Tôi muốn xem thứ gì khác. Tìm mở sang nhiều đài, nhưng
không có gì để xem. Đành quay lại xem đài cũ. Nói xin lỗi anh mù.
“Bạn
ơi, không sao cả. Đối với tôi, anh muốn xem chương trình nào cũng được. Tôi
luôn luôn học được nhiều điều. Học không bao giờ chấm dứt. Chẳng hại gì, tối
nay tôi sẽ học hỏi thêm. Bằng tai.”
Chúng
tôi im lặng một khoảng thời gian. Anh ta chồm tới, quay mặt sang hướng tôi, tai
phải ngóng về máy truyền hình. Rất băn khoăn. Thỉnh thoảng, mí mắt anh ấy nhắm
lại, rồi chớp chớp, mở ra. Thỉnh thoảng, đưa những ngón tay lên bộ râu rồi vuốt
xuống như đang suy nghĩ chuyện gì vừa nghe từ truyền hình.
Trên
màn ảnh, một số người mặc đồ vẽ bộ xương và hóa trang ma quái, mang mặt nạ, có
sừng và đuôi, đang hành hạ một nhóm người bị trùm kín đầu. Cảnh lịch sử này là
một phần của diễn hành lễ hội. Tường thuật viên người Anh kể lại chuyện này đã
xảy ra ở Tây Ban Nha mỗi năm một lần. Tôi cố gắng giải thích với anh mù những
gì đang diễn tiến.
Anh
vừa nói vừa gật gù: “Bộ xương, tôi biết giống thứ gì.”
Ống
kính quay ngôi nhà thờ này. Rồi chậm rãi kéo sang nhà thờ khác một lúc khá lâu.
Sau cùng, hình ảnh chuyển đến ngôi nhà thờ nổi tiếng ở Paris, với những trụ tường
và tháp hình nón bay cao tận mây xanh. Ống kính kéo ra xa để nhìn thấy toàn thể
ngôi nhà thờ nổi lên đường chân trời.
Có
những lúc tường thuật viên im lặng chỉ để ống kính chiếu chung quanh nhà thờ.
Hoặc chiếu cảnh đồng quê, người cày ruộng theo sau con bò. Chờ đợi lâu đủ, tôi
có cảm tưởng phải nói một lời gì: “Bây giờ, họ đang chiếu cảnh bên ngoài nhà
thờ. Các tượng người đầu thú. Những hình nhỏ điêu khắc giống bầy quái vật. Lúc
này, tôi đoán, cảnh đang quay ở Ý. Đúng rồi, chỉ ở Ý mới có những hình vẽ trên
tường như ngôi nhà thờ này.”
Anh
mù vừa uống một ngụm vừa hỏi: “Này bạn, có phải tranh trên tường vẽ theo kiểu
‘fresco’?”
Với
tay lấy ly rượu nhưng đã cạn. Tôi cố nhớ những gì có thể còn nhớ: “Anh hỏi
tôi tranh vẽ fresco? Câu hỏi này khó quá. Tôi không biết.”
Ống
kính quay sang một nhà thờ lớn bên ngoài Lisbon. Sự khác biệt không bao nhiêu
giữa nhà thờ Bồ Đào Nha so với nhà thờ ở Pháp và Ý. Nhưng có khác nhau. Rồi điều
gì đó hiện ra trong đầu: “Tôi nghĩ ra chuyện này, anh có biết một nhà thờ lớn
giống thứ gì không? Trông như thế nào? Ra làm sao? Anh hiểu ý tôi chứ? Nếu có
ai nói về ngôi nhà thờ với anh, liệu anh có ý tưởng họ đang nói gì? Anh có biết
sự khác biệt giữa nhà thờ này với nhà thờ Tin lành?”
Anh
để khỏi nhả ra từ vành môi. “Tôi biết họ phải dùng hàng trăm công nhân để
xây cất trong 50 hoặc 100 năm. Vừa mới nghe tường thật viên nói. Dĩ nhiên, tôi
biết tổng quát về chuyện các gia đình xây dựng nhà thờ. Vừa nghe tường thật
viên nói. Những người bắt đầu công việc xây cất, sẽ không bao giờ sống lâu đủ để
chứng kiến công việc đó hoàn tất. Này bạn, kinh nghiệm sống của họ đâu khác gì
chúng ta, phải không? Anh mù mỉm cười. Nhắm mắt lại. Gật gù. Dường như mơ
màng. Có lẽ, đang tưởng mình du hành ở Bồ Đào Nha. Truyền hình đang chiếu nhà
thờ khác. Ở Đức. Tiếng nói tường thuật vang lên. Anh mù vừa nói vừa ngồi dậy
nghẻo cổ qua lại: “Nhà thờ, thực sự, đó là tất cả những gì tôi biết. Những
gì vừa nghe tường thuật viên kể lại. Nhưng có lẽ, anh cũng có thể mô tả cho tôi
biết thêm. Tôi mong như vậy. Muốn như vậy. Nếu anh thật sự muốn tìm hiểu tôi biết
gì về nhà thờ, tôi thật tình không có khái niệm.” Tôi chăm chú nhìn cảnh
quay nhà thờ. Làm thế nào có thể bắt đầu mô tả nó đây? Nhưng giả sử, đời sống
tôi phụ thuộc vào việc này. Giả sử, đời sống tôi bị đe dọa bởi một gã điên, nói
rằng, tôi phải làm nếu không sẽ có chuyện.
Nhìn
kỹ lại ngôi nhà thờ một lần nữa trước khi hình ảnh thay đổi vào cảnh đồng quê. Chẳng
giúp ích gì. Quay lại, nói với anh mù: “Bắt đầu nha. Những ngôi nhà thờ rất
cao.” Nhìn chung quanh phòng, tìm chút ít manh mối. “Vươn lên. Cao lắm.
Chọc trời. Một số nhà thờ rất lớn, cần phải có sự chống đỡ. Có thể nói, cần sự
chống đỡ mới đứng vững. Bởi những cột trụ. Vì lý do nào đó, nhìn cảnh này nhớ lại
chiếc cầu cạn nước. Nhưng anh cũng đâu thấy cầu cạn. Đôi khi, có nhà thờ khắc
những hình ma quỉ ở mặt trước. Đôi khi, khắc thần thánh và nữ vương. Đừng hỏi
tôi tại sao …”
Anh
ta gật gù. Cả thân người bên trên dường như lắc lư lui tới.
Tôi
hỏi: “Tôi kể không suôn sẻ, phải không?”
Anh
ngừng gật gù, dựa lưng vào ghế dài. Vừa nghe tôi nói vừa vân vê bộ râu. Có thể
thấy, anh không tiếp thu lời kể chuyện, nhưng anh vẫn kiên nhẫn tiếp tục chờ đợi.
Gật gù, như thể cố gắng khuyến khích. Tôi cố nghĩ thử, còn có gì để nói: “Nhà
thờ rất lớn, đồ sộ. Xây bằng đá. Đôi khi, trong thời đó, họ cũng xây bằng cẩm
thạch. Con người muốn gần gũi Thượng Đế. Lúc thời hoàng kim, Thượng Đế là một
phần quan trọng trong đời sống mỗi người. Có thể nhìn ra từ cách xây cất nhà thờ.
Xin lỗi nha. Tôi đã cố gắng hết sức, nhưng không diễn tả hay cho lắm.”
“Này
bạn, không sao cả. Này, tôi hy vọng không làm anh phiền lòng vì tôi muốn hỏi điều
này được không? Câu hỏi đơn giản thôi, được chứ? Tôi chỉ tò mò không muốn xúc
phạm đến anh. Anh là chủ nhà. Nhưng cho tôi hỏi, xin lỗi, nếu anh không vừa ý,
anh có đạo không?”
Tôi
lắc đầu. Anh ta không thấy. Nháy mắt hay gật đầu đối với người mù cũng giống
nhau. “Tôi nghĩ tôi không tin gì cả. Đôi khi rất khó khăn. Anh biết tôi nói
gì, phải không?”
“Rất
hiểu.”
“Đúng
như vậy.”
Tường
thuật viên vẫn tiếp tục. Vợ tôi thở dài trong chiêm bao. Nàng hít một hơi dài rồi
tiếp tục ngủ say.
Tôi
nói: “Bạn tha lỗi cho tôi. Thực sự, tôi không thể diễn tả nhà thờ giống thứ
gì. Tôi không phải là người tường thuật. không thể nói gì khác hơn nữa.”
Anh
mù ngồi yên, đầu hơi cúi xuống, lắng nghe.
Tôi
nói: “Thật ra, nhà thờ không có mấy ý nghĩa đối với tôi. Hoàn toàn không. Bất
kỳ nhà thờ nào. Chỉ là chương trình về khuya để xem. Chỉ vậy thôi.”
Anh
mù tằng hắng. Lấy một thứ gì ra. Một khăn tay từ túi quần sau. Anh lên tiếng: “Này
anh, nghe tôi nói. Có thể giúp tôi một chuyện không? Tôi có ý kiến. Tại sao anh
không tìm một ít giấy dày và cây bút? Chúng ta sẽ cùng nhau vẽ. Đi đi, tìm giấy
bút. Này bạn, đi lấy đồ đi.”
Tôi
lên lầu. Đôi chân cảm thấy không còn sức lực, giống như vừa chạy bộ xong. Vào
phòng vợ tôi, nhìn chung quanh. Tìm thấy cây bút bi trong một giỏ nhỏ trên bàn.
Rồi nghĩ thử nơi nào có thể tìm ra loại giấy anh muốn.
Xuống
lầu, vào bếp, tìm thấy túi giấy đi chợ với vỏ hành tây dưới đáy. Đổ hết ra.
Mang vào phòng khách. Ngồi xuống gần chân anh mù. Tôi dọn dẹp ít đồ vật, vuốt
thẳng những nếp nhăn trên mặt giấy, trải ra trên mặt bàn thấp.
Anh
mù tuột xuống, ngồi trên thảm gần tôi. Những ngón tay lướt rà trên giấy, từ cạnh
này sang cạnh kia. Dừng lại ở các góc.
Anh
nói: “Được rồi. Chúng ta vẽ.”
Anh
tìm bàn tay tôi đang cầm bút. Đặt tay anh lên rồi nắm lại. “Bạn vẽ đi, anh sẽ
hiểu. Tôi sẽ vẽ theo anh. Sẽ được thôi. Bây giờ, hãy bắt đầu như tôi nói. Anh sẽ
hiểu. Vẽ đi.”
Tôi
bắt đầu. Trước hết, vẽ một cái hộp tương tựa căn nhà. Có thể là căn nhà tôi
đang ở. Vẽ mái nhà. Ở hai bên chái nhà, tôi vẽ hình nón. Điên thật.
Anh
ta nói: “Nữa đi, hay lắm, anh vẽ rất tốt. Này bạn, có lẽ anh chưa bao giờ
nghĩ đến chuyện như vậy đang xảy ra trong đời, phải không? Ừ, cuộc sống luôn
luôn kỳ lạ, chúng ta đều đã biết. Tiếp tục vẽ, đừng ngừng lại.”
Vẽ cửa
sổ trên mái vòm. Những cây cột bay. Treo những cánh cửa lớn. Tôi không thể dừng
lại. Chương trình truyền hình đã hết. Đặt bút xuống, nhúc nhích những ngón tay.
Anh mù sờ chung quanh tấm giấy. Di chuyển mấy đầu ngón tay khắp mặt giấy, khắp
hình tôi vẽ, rồi gật gù.
“Quá
tốt.” Anh nói.
Cầm
bút lên, anh lại nắm tay tôi. Vẽ. Tuy không phải họa sĩ, nhưng tôi tiếp tục vẽ trơn
tru.
Vợ
tôi thức giấc, mở mắt nhìn. Nàng ngồi dậy, áo choàng lại mở ra. “Hai anh
đang làm gì vậy? Cho em biết với?”
Tôi
không trả lời.
Anh
mù nói: “Chúng tôi đang vẽ nhà thờ. Hai đứa anh vẫn còn chưa xong. Đè mạnh
xuống.” Anh nói với tôi. “Đúng rồi. Hay quá. Trúng chóc. Anh vẽ đúng rồi.
Này bạn, tôi có thể biết. Anh đã nghĩ, không vẽ được. Nhưng được rồi. Phải
không? Anh đang vẽ hết sức tài tình. Biết tôi sẽ nói gì không? Chúng ta sẽ vẽ
xong một thứ gì trong vài phút nữa. Mỏi tay chưa? Vẽ thêm vài người nữa. Nhà thờ
chẳng ra làm sao nếu không có người.”
Vợ
tôi nói: “Robert, chuyện gì đây? Hai anh đang làm gì? Chuyện gì vậy?”
“Không
có gì,” anh mù nói với nàng rồi quay sang nói với tôi: “Nhắm
mắt lại.”
Tôi
làm theo ý anh mù.
“Đã
nhắm chưa?” Đừng giả bộ.”
“Nhắm
rồi.”
“Cứ
nhắm mắt. Vẽ tiếp đi. Đừng ngừng lại.”
Chúng
tôi tiếp tục. Ngón tay anh lướt trên ngón tay tôi trong khi bàn tay tôi lướt
lên khắp mặt giấy. Cho đến giờ phút này, gần như chưa có gì xảy ra trong đời
tôi như vậy.
“Tôi
nghĩ, đã đủ rồi. Anh đã vẽ đủ rồi. hãy nhìn xem. Anh thấy ra sao?” Anh
mù nói.
Nhưng
tôi vẫn nhắm mắt. Nghĩ rằng phải nhắm lâu hơn. Tưởng rằng phải làm đúng như thế.
Anh mù hỏi:
“Sao
đây? Anh đã nhìn thấy chưa?”
Mắt
tôi vẫn nhắm. Tôi đang ở trong nhà. Tôi biết rõ, nhưng có cảm giác như không ở
trong bất cứ một nơi nào.
Tôi
nói: “Thật là lạ lùng.”
RAYMOND CARVER
(1981)