Đó là cuộc truy tìm bản ngã con người để
từ đó rất có thể lóe lên luồng sáng mới mẻ cho ta thấy rõ hơn cái ẩn mật của hiện
tồn. (Kundera)
Je pense donc je suis… (Descartes).
Mà vì
hình như, suy nghĩ một mình không thể tìm ra bản ngã, tác giả phải tạo ra nhiều
mình khác qua nhân vật, gọi là tiểu thuyết để cùng đi tìm: tìm trong cái phông nền
lịch sử, trong tình dục, trong tình yêu, hạnh phúc, đớn đau…
Nhân vật trong tiểu thuyết tôi là những
khả thể vô thức của chính tôi (Kundera). Bởi cuối cùng là để vượt ra, vượt qua:
một cái đường biên mong manh mà mênh mông đó. Ở đó, Bên kia đường biên “bản ngã” của riêng tôi chấm dứt (trang 19). Nghĩa
là đạt đến vô ngã / non-self (không
phải no-self).
Cái
đường biên đó do chính tác giả tạo ra cho mình và loay hoay tìm lối thoát, càng
tìm lối thoát càng bị quấn chặt. Chỉ vượt ra, vượt qua (Gaté, gaté…paragaté…) đường
biên khi có được trí Bát nhã (Prajna) thấy được ngũ uẩn giai Không, mới “độ nhất thiết khổ ách”.
Diễn
viên, kịch sĩ cũng sắm nhiều “bản ngã” cho mình, như lúc sắm vai vua, lúc sắm
vai ăn mày… nếu “thức tỉnh” cũng dễ vượt thoát. Nhà viết tiểu thuyết còn có ưu
thế hơn: tiểu thuyết nói được những điều
mà chỉ tiểu thuyết mới nói được (Kundera). Hài hước, châm biếm, ẩn dụ, châm
ngôn, giả định, khoa đại, bông lơn, gây hấn, huyễn hoặc,… và dĩ nhiên cũng không
tách khỏi cái “vòng tròn ảo diệu bao quanh đời sống” dù giãy nảy: Tiểu thuyết gia không phải là kẻ hầu của sử
gia (Kundera). Cái “vòng tròn ảo diệu bao quanh đời sống” đó dù làm người
ta nôn ói, người ta bị điều khiển ngay cả cách làm tình thì cũng đã tạo cái cớ
cho tiểu thuyết gia vung chiêu. Dĩ nhiên
lịch sử chỉ là… những lời nói dối (thơ ĐN).
Chỉ
có một cách thoát, như Vạn Hạnh thiền sư dạy đệ tử hơn ngàn năm trước:
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Vạn Hạnh thiền sư)
Lịch
sử thịnh suy cuồn cuộn những kiếp người… Cho nên vấn đề không phải là Ra đi mà
Trở lại. Trở lại Địa đàng. Ở trong Ta thôi. Quay
về nguyên thủy loài người, nguyên thủy đời sống, nguyên thủy tình yêu (trang
328).
Cái
cười là một khám phá. Sự lãng quên là một khám phá. Khi bạn vượt ra qua biên thùy, cái cười phải tuôn ra. Nhưng nếu bạn tiếp
tục đi dấn, vượt qua cả cái cười, thì sao? (trang 315).
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm…
(Kinh Lăng Già)
Nghĩ về “dịch vật” của Trịnh Y Thư:
Dịch
Kundera rõ ràng không dễ toát được Kundera. Nhưng Trịnh Y Thư mong có thêm 7
“biến tấu” nữa của tác giả để được dịch tiếp.
TYT
thố lộ: “Dịch Cái cười & Sự lãng quên là việc làm thú vị tuyệt vời đối với
tôi”. Kundera có cái mỉa mai, chua chát, thậm chí thâm độc nhiều tầng, mà TYT gọi
là cái phần hồn phách, cái Thần của
tác phẩm, “bất khả tư nghị”, chỉ có thể đạt đến bằng trực giác, Dionysian… Dịch
thuật văn học là sự tái tạo, hoặc sáng tác lại, một tác phẩm văn học để cho nó
một đời sống mới... và tôi sẵn sàng hi sinh cái chân lí tuyệt đối (đôi khi rất
vô tích sự) để đổi lấy dăm ba nét linh diệu phù ảo của cái bất toàn. (TYT)
Tôi
tò mò muốn biết giá TYT cho vài thí dụ… về dăm ba nét linh diệu phù ảo thì hay
quá! Tôi vốn đã phục cách dịch “linh diệu phù ảo” của TYT qua các tựa sách: Đời nhẹ khôn kham, “Cái” cười và “Sự” lãng
quên…
Khôn kham là chịu hổng nổi, chịu hết nổi!
Còn
ở đây “Cái” có vẻ như để khinh miệt, còn “Sự” là cái còn được… tôn trọng phần
nào. Tôi nghĩ ở đây có thể dùng cả “Cái” cho Cái cười và Cái lãng quên. Song
hành Cái, Cái cũng hay chứ!
Cũng
đã có những dịch giả ở Việt Nam dịch hay không kém (về Tựa): Cõi người ta (Bùi Giáng dịch St. Ex.):
Cõi, như Cõi Ta bà, Cõi Bồ-tát… với pháp giới thể tánh riêng của nó. Hay Chuông gọi hồn ai (For Whom the Bell Tolls) của
Huỳnh Phan Anh (dịch E. Hemingway).
Nhớ
có lần TYT viết đâu đó: Những cái vi tế trong mỗi từ tiếng Anh, liệu tôi có thể
tìm thấy nét tương đương trong tiếng Việt không? Câu trả lời là không (TYT).
Tôi
không tin vậy. Mỗi ngôn ngữ có một sắc thái riêng, có thể đạt đến cái “thần” bằng
trực giác. Cái đó gọi là “đi guốc trong bụng” tác giả.
Khái
Hưng dịch Tình tuyệt vọng với hai chữ
“thui thủi” trong 2 câu này của Sonnet d’Arvers chẳng đạt cái “thần” sao?
Hélas! j'aurai passé près d'elle inaperçu,
Toujours à ses côtés, et pourtant solitaire,
Hỡi
ơi! Người đó ta đây
Sao
ta thui thủi đêm ngày chiếc thân…
Hay
Mùa thu chết (Apollinaire) của Bùi
Giáng:
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
với
những chữ “ngắt đi”, “nhớ cho”… chẳng đạt đến cái “thần” sao? Nếu không, sao có
Mùa thu chết của Phạm Duy với tiếng hát Julie Quang: “Em nhớ cho, em nhớ cho, đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa…trên
cõi đời này…?”
Nhưng
tôi đồng ý với TYT việc khó dịch thơ. Bởi tôi không tin thơ chỉ là ngôn ngữ, phối
từ… Có dịp sẽ trở lại đề tài này.
Tôi
nhớ Nguyễn Hiến Lê nói: dịch hay là dịch sao cho người đọc không nhận ra vết dịch.
Quả
thật, đọc bản dịch của TYT không thấy có vết dịch.
ĐHN
Saigon 02.11.2021