Những
ngày sóng gió
Từ
tháng 9-1940, Tự Lực văn đoàn đi vào bão tố:
Ngày
Nay số cuối cùng 224, ra ngày 7-9-1940.
Nhất
Linh chạy sang Tàu (vào khoảng cuối tháng 9-1940) do người Nhật giúp đỡ.
Khái
Hưng sang Tàu tháng 4-1941, nhưng ít lâu sau, trở về Việt Nam.
Từ
tháng 7-1941, Đại Việt Dân Chính và một số đảng phái quốc gia khác bị
truy lùng gắt gao.
Hoàng
Đạo, Nguyễn Gia Trí bị bắt ngày 16-9, Khái Hưng, ngày 31-10- 41, tại Hà Nội.
Ngày
4-10-1941, Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng bị bắt tại
Hà Nội[1].
Thạch
Lam qua đời ngày 27-6-1942.
Ngày
9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp.
Ngày
17-4-1945, chính phủ Trần Trọng Kim ra đời.
Ngày
5-5-1945, Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới ra số báo đầu tiên.
Chương
này tìm hiểu những thăng trầm của Tự Lực văn đoàn trong giai đoạn 1940-1945,
thời kỳ tan rã, cho đến khi Việt Minh lên nắm chính quyền, với những tiểu đoạn:
-
Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí ở Vụ Bản.
-
Tình trạng sáng tác của Nguyễn Gia Trí sau khi ra tù.
-
Hoạt động của Nhất Linh ở bên Tàu.
-
Báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới.
-
Ngày vua Bảo Đại thoái vị.
***
An
trí ở Vụ Bản
Theo
lời Nguyễn Tường Triệu, khi ông vào thăm cha nuôi ở Sở Liêm phóng gần Đấu xảo,
Khái Hưng nói với con: "Chú Long và chú Gia Trí bị [bắt] trước,
Tây nó đánh đau lắm, những gì phải khai hai người đã nói hết, papa vào sau cứ
theo đó mà khai nên chỉ bị sơ sơ thôi"[2].
Rồi
Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí bị đưa đi an trí ở Vụ Bản, châu Lạc Sơn,
tỉnh Hoà Bình. Nguyễn Tường Triệu kể: "Chừng ba bốn tháng sau papa được
chuyển lên trại An Trí tại Vụ Bản" và tại trại giam này
"chú Long, chú Trí phải đẩy xe nước vào rừng lấy củi, papa may mắn vì yếu
đuối được phụ việc ở nhà thương"[3].
Như
vậy, cả ba người bị chuyển lên Vụ Bản vào khoảng tháng giêng, tháng hai năm
1942.
Nguyễn
Thị Thế viết trong hồi ký:
"Anh
Tư tôi [Hoàng Đạo] bị bắt, bị tra tấn bằng điện dữ dội, anh gan
lỳ không chịu tiết lộ gì nên họ cho đi an trí ở huyện Vụ Bản, Vĩnh Bình cùng
với ông Khái Hưng, suốt trong hai năm, ông Khái Hưng làm y tá vì có biết chút
ít về thuốc, anh Tư trông coi về ẩm thực sang chợ mua thức ăn về anh em trong
tù thổi nấu lấy ăn nên cũng khá và đầy đủ hơn.
Mỗi
tháng chị Tư lại lên thăm, lần nào cũng quà cáp biếu hậu hỹ lão giám đốc nên họ
cũng nể. Vì khi chị lên thăm, anh được tự do vào rừng chơi, vẫn mặc âu phục như
đi săn. Cũng vì không có chứng cớ rõ rệt, chỉ mới tình nghi thôi, họ thừa biết
anh Tam tôi mới là nhân vật quan trọng"[4]
Nhà
báo Như Phong Lê Văn Tiến viết: "bị đưa đi đầy tại trại giam Vụ Bản,
châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Vùng này cư dân là người Mường, họa sĩ [Nguyễn
Gia Trí] ghi lại cảnh trí nơi bị lưu đầy"[5].
Như
vậy, tình hình trại giam không đến nỗi khắc nghiệt, cho nên Nguyễn Gia Trí vẫn
có điều kiện phác họa tranh và Khái Hưng đã viết những tác phẩm giá trị ở Vụ
Bản.
Nguyễn
Tường Triệu viết: "Bị an trí một năm, papa được tha về Hà Nội (…)
"cậu Hàng Bè" [Nhất Linh] vẫn biệt vô âm tín, chú Long Hoàng
Đạo kẹt ở Vụ Bản, bác Thế Lữ quay sang diễn kịch, chú Trí vẫn mải mê với tranh
sơn mài trên đường Quần Ngựa"[6].
Tóm
lại, theo trí nhớ của Nguyễn Tường Triệu, ta có thể tạm xác định Khái Hưng được
tha trước tiên, vào khoảng tháng 3, tháng 4 năm 1943.
Ra
tù, Khái Hưng tập hợp những bài viết của Thạch Lam trong loạt phóng sự Hà
Nội băm sáu phố phường, viết tựa (bài tựa ghi ngày 20-7-1943) và cho xuất
bản, lúc đó Thạch Lam mất đã được một năm.
***
Hoạt
động của Nguyễn Gia Trí sau khi ra tù
Nguyễn
Gia Trí, theo lời Hoàng Tích Chù, do Hoàng Hưng ghi lại trong bài Nguyễn Gia
Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghệ thuật[7],
đã được người Pháp: "bảo lãnh ông ra khỏi nhà tù khi ông bị bắt vì
hoạt động chống Tây (Theo HS Hoàng Tích Chù, thì ông Trí bị bắt quả tang chứa
vũ khí trong xưởng vẽ, những vũ khí chính ông mua bằng tiền bán tranh cho Tây".
Theo
lời Nguyễn Tường Triệu trích dẫn ở trên, Nguyễn Gia Trí ra tù trước Hoàng Đạo,
và ông tiếp tục làm tranh sơn mài trên đường Quần Ngựa.
Hoàng
Hưng viết:
"Những
năm sau đó [sau 1938] là thời kỳ tìm tòi sáng
tạo đầy sung mãn của Nguyễn Gia Trí để hoàn thiện kỹ thuật và phong cách của
riêng mình. Ông lập xưởng vẽ riêng ở làng Thịnh Hào, Ngã Tư Sở (Một điều thú vị
là những thợ sơn mài của Nguyễn Gia Trí lúc ấy sau này đều nổi tiếng trong các
ngành nghệ thuật: Kim Lân nhà văn, Nguyễn Trọng Hợp họa sĩ, Nguyễn Đăng Bẩy nhà
quay phim).
Những
năm 1940 Nguyễn Gia Trí là họa sĩ thành công nhất ở Việt Nam. Tác phẩm của ông
được tính giá theo tấc và hầu như chỉ dân Tây thượng lưu có khả năng mua. Họ
đặt tranh ngay từ khi mới trông thấy phác thảo. Hai vợ chồng công sứ Cresson
xắn quần, nhấc váy, lội nước vào làng Thịnh Hào để lấy tranh. Họ gọi ông là
"Génie asiatique" (Thiên tài châu Á)[8].
Có
sự sai biệt về điạ chỉ giữa bài của Nguyễn Tường Triệu và bài của Hoàng Hưng:
Xưởng
tranh của Nguyễn Gia Trí ở Ngã Tư Sở (theo Hoàng Hưng) hay ở đường Quần Ngựa
(theo Nguyễn Tường Triệu)? Chúng tôi nghĩ rằng: lúc đầu Nguyễn Gia Trí có xưởng
ở Ngã Tư Sở, sau ông dọn lên Quần Ngựa, gần Hồ Tây.
Theo
Hoàng Hưng, những năm 1940 Nguyễn Gia Trí là họa sĩ thành công nhất ở Việt
Nam; chắc không sai, nhưng cũng nên biết: kể từ 1938, Nguyễn Gia Trí
đã trở thành đảng viên đảng Hưng Việt (buổi họp đầu tiên của đảng ở nhà ông,
theo lời Khái Hưng trong Xiềng xích). Vậy, nhờ tiền những bức tranh bán
cho Tây, Nguyễn Gia Trí có phương tiện phục vụ cách mạng; có thể nói ông là
người "kinh tài" cho đảng từ những ngày đầu và sau này, trong thời
gian lưu vong ở Hồng Kông, ông vẫn dùng hội họa để nuôi các đồng chí Quốc Dân
Đảng.
Trong
lá thư Nguyễn Gia Trí viết cho Phạm Tăng đề ngày 2-8-74, trong tập Những lá
thư Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng, có đoạn sau đây:
"Số
là ở Paris, có ông bà Drouin (77 Bd Suchet, Paris 16e) là những người tôi quen
biết từ thủa còn học Trường Bưởi, đã khuyến khích tôi trong sự học hành và tôi
cũng còn chịu ơn cứu mạng nữa. Hồi 1942-45 tôi có làm cho ông bà D. một bức
tranh lớn (3m10x4m40) gồm 10 tấm sơn mài ghép lại, vẫn để ở 51 Av. Georges
Mandel, Paris 16e vì nơi ở hiện tại quá chật hẹp, muốn bán đi (…) Vậy
xin anh vì tôi nghĩ cách giúp đỡ ông bà D. giới thiệu và bán bức tranh lớn nói
trên thì tôi cảm ơn anh vô cùng. Tôi rất tha thiết với vấn đề này vì muốn bù
đáp phần nào mối thịnh tình ân nghĩa ông bà D. (cùng với cụ Y) đã dành cho tôi
thủa xưa."[9]
Câu:
"ông bà Drouin (…) đã khuyến khích tôi trong sự học hành và tôi
cũng còn chịu ơn cứu mạng nữa" chỉ một nghiã cử lớn, không biết trong
trường hợp nào, khiến Nguyễn Gia Trí nhớ ơn và đã dành tác phẩm quan trọng nhất
của mình cho ông bà Drouin.
Câu
"Hồi 1942-45 tôi có làm cho ông bà D. một bức tranh lớn (3m10x4m40) gồm
10 tấm sơn mài ghép lại" chứng tỏ bức tranh này (tác phẩm lớn nhất của
Nguyễn Gia Trí) làm cho ông bà Drouin, đã được phác thảo từ hồi còn ở nhà tù
Vụ Bản và đến khi được tha, ông thực hiện trong hai năm từ 1943 đến 1945.
Như
Phong Lê Văn Tiến viết về thời kỳ làm tranh 1943-45, của Nguyễn Gia Trí như sau
và nói rõ hơn về địa chỉ Quần Ngựa:
"Thời
gian này họa sĩ bị đưa từ nơi lưu đầy về quản thúc tại Hà Nội. Không được phép
dời khỏi nơi cư trú, họa sĩ lập xưởng vẽ ở chân đê La Thành, khoảng giữa đường
từ Núi Nùng (Vườn Bách Thảo) đến trường đua ngựa cũ. Lúc đó chiến tranh thế
giới vào hồi kết thúc, Đông Dương bị quân đội Nhật chiếm đóng và bị Đồng Minh
phong toả ngặt nghèo, mọi vật dụng đều thiếu hiếm, mặc dầu vậy, hoạ sĩ cũng cố
gắng tạo điều kiện để thử nghiệm những chất màu mới và nâng cao kỹ thuật sơn
mài. Hồi này những tác phẩm của Nguyễn Gia Trí rất được trân trọng trong giới
yêu chuộng hội họa người Âu ở Hà Nội. Sau khi chiến tranh thế giới chấm dứt,
nhiều tác phẩm lớn của Nguyễn Gia Trí được đưa sang Pháp và vài nước khác ở
châu Âu."[10]
Tóm
lại, trong thời gian từ 1943 đến 1945, Nguyễn Gia Trí được tha về, nhưng vẫn bị
quản thúc tại Hà Nội. Đó là thời kỳ sáng tác sung mãn, ông thực hiện những bức
tranh lớn và bán cho Pháp. Tiền để làm gì? Chắc hẳn ông vẫn tiếp tục "kinh
tài" cho đảng của ông.
***
Nguyễn
Tường Tam bị giam ở Liễu Châu
Theo
Nghiêm Kế Tổ: "Năm 1941, tại Liễu Châu các lãnh tụ Trương Bội Công,
Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Trần Bảo, Trương Trung Phụng,
Nông Kinh Dầu, thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội"[11].
Nguyễn
Hải Thần theo Phan Bội Châu từ thời kỳ Đông du, cùng thế hệ với Lương Ngọc
Quyến, được đào tạo ở Nhật; ông được coi là nhà cách mạng tiền bối, thủ lãnh Việt
Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Cách).
Theo
hồi ký của Như Băng, sẽ nói rõ ở dưới, gia đình Nông Kinh Dầu và Nông Quốc Long
đã đem cả tài sản ra nuôi quân cách mạng chống Pháp từ hồi quân Nhật tiến vào
Lạng Sơn.
Về
Nguyễn Tường Tam, như chúng tôi đã trình bày trong chương trước: Nguyễn Tường
Tam chạy sang Trung Hoa vào khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10-1940.
Nhiều
thông tin đồng quy cho biết, khoảng 1942-1943, Nguyễn Tường Tam bị giam ở Liễu
Châu.
1-
Bà Nguyễn Thị Thế viết về việc "anh Tam" bị bắt như sau:
"Sau
này tôi được biết anh Tam nhờ người Nhật trốn qua Nhật, ở ít lâu thấy không nhờ
gì được, anh sang Tầu. Đến nơi lại bị nghi là gián điệp cho Nhật nên bị giam
mất bốn tháng. Sau nhờ cụ Nguyễn Hải Thần biết tin can thiệp cho được thả ra,
anh lại tiếp xúc với các anh em đảng phái lưu vong qua bên đó tiếp tục hoạt
động"[12].
2-
Hoàng Văn Đào viết:
"Trong
khi ấy [trong khi thành lập Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội] có
tin Nguyễn Tường Tam bị nhà chức trách địa phương Trung Hoa bắt giam ở hang đá
Liễu Châu.
Nguyên
từ sau ngày quân đội Nhật Bản tiến vào Việt Nam, ĐVDC [Đại
Việt Dân Chính] bị Pháp khám phá và đàn áp, anh em ông Nguyễn Tường Tam trốn
sang Trung Hoa vào cuối năm 1942. Sang Trung Hoa, ông Tam đổi tên là Nguyễn
Tường Dũng [Dũng, nhân vật trong Đoạn Tuyệt] (…) Nhà chức trách
địa phương Trung Hoa tình nghi Nguyễn Tường Dũng là gián điệp của Nhật Bản được
phái từ Quảng Châu tới, để phá hoại tổ chức VNCMĐMH [Việt Nam Cách Mệnh
Đồng Minh Hội].
Vũ
Hồng Khanh cùng Nghiêm Kế Tổ xin phép Trương Phát Khuê được phép vào hang đá
thăm Nguyễn Tường Tam. Tư lệnh Trương Phát Khuê cho biết còn có một người cách
mạng Việt Nam nữa, cũng bị bắt giam, khai tên là Hồ Chí Minh. (…) Hai họ Vũ,
Nghiêm cũng đề nghị với ban chấp hành Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội đứng ra
can thiệp xin trả tự do cho Nguyễn Tường Tam và Hồ Chí Minh"[13].
3-
Nghiêm Kế Tổ là người "trực tiếp tham dự vào việc giải cứu" này;
trong cuốn Việt nam máu lửa, in năm 1954, ông ghi lại như sau:
"Khi
lãnh tụ Cộng sản là cụ Hồ Chí Minh bị bắt giam tại Trung Hoa (Liễu Châu), hoạt
động Việt Minh còn kém cỏi. Nhờ sự can thiệp của một Ủy viên Việt Nam Cách Mệnh
Đồng Minh Hội (Nghiêm Kế Tổ) với chính phủ Trùng Khánh để xin tự do cho ông
Nguyễn Tường Tam cũng bị giữ, tiện thể và vận động cho cả hai người, nên Cụ Hồ
nhờ đó cũng được giải phóng.
Sau
khi Cụ Hồ Chí Minh thoát lao tù, cụ được các tướng lĩnh Trung Hoa thân Cộng
giúp đỡ tìm cách cho về nước nên Việt Minh càng ngày càng tiến triển hoạt động.
(Chú thích của Nghiêm Kế Tổ: Cụ Hồ Chí Minh được tướng Ngô Trạch, Tham mưu
trưởng Đệ Tứ Chiến Khu và Tiêu Văn giúp đỡ. Tướng Ngô Trạch đã bị xử tử mới đây
[1954]
ở Đài Loan, Tiêu Văn hiện nay ở hàng ngũ Trung Cộng)[14].
4-
Võ Nguyên Giáp, năm 1974, trong cuốn Những năm tháng không thể nào quên,
đưa ra một thoại khác:
"Ba
năm về trước [1942] trong một chuyến đi ra ngoài
để tìm gặp các đồng chí lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc, Bác đã bị bọn Quốc
dân đảng Trung Hoa bắt giữ. Chúng đã đưa Bác qua hơn ba chục nhà tù. Các đoàn
thể chính trị trong nước đã kịp thời đấu tranh, đòi bọn Quốc dân đảng phải thả
nhà hoạt động cách mạng Việt Nam. Tuy vậy, Bác vẫn bị chúng giữ tại Liễu Châu.
Bác đã tìm ra vì đâu bọn Tưởng không trả lại tự do cho mình. Chính là vì ở Liễu
Châu, bọn chúng có một tổ chức chính trị tay sai là Việt Nam cách mệnh đồng
minh hội do Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần cầm đầu. Bọn này đã vu cho Bác
sang đây để phá tổ chức của chúng.
Sau
một thời gian khá lâu, Bác mới được trả lại tự do. Bác đòi trở về nước và đưa
theo một vài hội viên của Cách mệnh đồng minh do mình lựa chọn. Trương Phát
Khuê đồng ý. Nhưng Trương Bội Công và Nguyễn Hải
Thần phản đối. Do đó, khi bác trở về nước, không có người của bọn này đi
theo."[15]
5-
Những trang hồi ký của bà Nguyễn Thị Như Băng (tên thật là Nguyễn Thị Thủy, khi
sang học quân sự bên Tàu mới đổi tên là Như Băng) vợ nhà văn Đỗ Tốn, in trong
tập Hoa vông vang, Ả Hẩu, Như Băng hồi ký (Việt tide, 2019, California)
cung cấp một số thông tin khác lạ, với lối viết tự nhiên, chân thật:
Năm
1939, gia đình Nguyễn Thị Thủy sống ở Lạng Sơn, cha mất sớm, nhà có hai con
trai và ba chị em gái đều rất đẹp. Quân Nhật vào Lạng Sơn, ít lâu sau quân cách
mạng nổi dậy,"các anh các chị [cách mạng] ai cũng mặc quần áo
đen, mình đeo lựu đạn và dao găm", một chị hô khẩu hiệu "đứng
dậy để đòi độc lập tự do cho đất nước". Thủy mới 15 tuổi, thích lắm,
xin gia nhập. Cùng lúc đó, thực dân quay trở lại, lùng bắt rất nguy kịch, quân
cách mạng phải trốn vào rừng, rồi chạy sang Tàu, trong đó có Thủy và nhóm gia
đình ông Nông Quốc Long và Nông Kinh Dầu. Người Tàu cho ở trong làng, nhưng
sống rất cực khổ.
"Ít
lâu sau, chính phủ Tưởng Giới Thạch đồng ý cho quân cách mạng Việt Nam vào sâu
trong đất Tàu và được huấn luyện quân sự.
Trong
số 32 phụ nữ, có 10 người được chọn học ngành vô tuyến điện. Thủy là một trong
10 người đó (…) Sau sáu tháng thì họ lại đưa 10 chị em về Liễu Châu, ở đây học
chung với nam sinh viên (…) Khi mãn khoá chỉ có hai người là Thủy và Vinh (…)
Thuỷ và Vinh được đưa đến làm tại Tổng Tham Mưu, tại dinh Tướng Trương Phát
Khuê. Hai người được ưu đãi lắm (…). Lúc đó Vinh và Thủy được gắn lon Trung uý
(…).
1943-
Độ đó có nghe mấy anh em Việt Nam bị Tàu giam giữ tại trong Bộ. Thủy và Vinh
thường hay lại thăm, mấy người này bị giam lỏng, không bị giam trong tù, nhưng
chỉ được đi lại trong Bộ Tổng Tham mưu thôi, đôi khi muốn ra ngoài phải xin
phép. Lại thăm thì thấy có một ông độ trạc ngoài năm mươi ở một phòng còn bốn
người khác thì ở phòng bên kia. Ít lâu sau hỏi ra mới biết ông trạc ngoài 50 đó
là Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), còn mấy anh phòng bên kia là Nguyễn Tường Tam,
Tế [Đỗ
Tốn], Lữ, Bảng.
Ông
Hồ Chí Minh thấy Thủy lại thăm cứ nói là "lại đây bác dạy học"; hồi
đó ông cho xem mấy xấp giấy viết chữ ngòng ngoèo như con giun, không hiểu chữ
gì nên Thủy cũng không thích học. Nếu độ đó cứ lại học với ông thì chắc nay
Thủy đã trở thành cán bộ cao cấp của cộng sản VN rồi"[16]
Vì
đi "thăm tù", Thủy và Đỗ Tốn gặp gỡ và yêu nhau. Đỗ Tốn trốn về nước
trước. Năm 1944, Thủy cũng đào ngũ trốn về Lạng Sơn. Họ cưới nhau ngày
10-12-1945.
Những
dòng hồi ký của Như Băng, vô tình cho chúng ta biết rõ điều kiện giam giữ Hồ
Chí Minh, Nguyễn Tường Tam, Đỗ Tốn… ở Liễu Châu. Sự "giam" này có vẻ
không nặng nề như nhiều người mô tả: ở trong "hang đá"; mà ở trong Bộ
Tổng tham mưu của tướng Trương Phát Khuê, vẫn được tiếp xúc với người ngoài,
chỉ khi ra ngoài thì phải xin phép, tất nhiên có thể vẫn hoạt động (ngầm) được.
Ông tướng Trương Phát Khuê đối đãi với ông Hồ Chí Minh như một lãnh tụ cách
mạng, còn Nguyễn Tường Tam lúc đó chắc chưa có tiếng, nên phải ở chung với những
người trẻ.
***
Hoạt
động của Nguyễn Tường Tam ở Trung Hoa
Hoạt
động đầu tiên của Nguyễn Tường Tam ở Tàu, còn lại dấu vết là việc ông liên kết
các chính đảng quốc gia thành một tổ chức hợp nhất, gọi là Đại Việt Quốc Gia
Liên Minh (chúng tôi đã trình bày trong chương trước). Ông viết bản Ký
trình, với chủ đích: "Thống nhất các đảng phái quốc gia"
dưới một chủ nghiã duy nhất: Duy dân (tức chủ nghiã Phan Bội
Châu đổi mới) một chỉ huy, một lá cờ, và một đảng ca.
Tổ
chức này bao gồm các đảng: Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Đại Việt Dân
chính, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Duy Dân (Lý Đông A), và Đại Việt
Quốc Dân Đảng (Trương Tử Anh).
Năm
1943, đệ nhị thế chiến chuyển sang thắng lợi về phe Đồng minh, những nhà cách
mạng Việt Nam chủ trương dựa vào Nhật, bắt đầu đổi hướng, quay sang theo Tàu,
Nguyễn Tường Bách giải thích:
"Cho
đến năm 1943, quân Đồng minh đã thắng lợi một cách rõ rệt. Đức Ý Nhật phải lui
ở khắp các mặt trận. Quân Nhật thất bại, đó mà điều mà mọi người cảm thấy không
thể dựa vào thế lực Nhật được nữa. Những người chủ trương dựa vào Nhật ngày
trước thì nay lại quay đầu sang dựa vào thế lực Đồng minh Anh Mỹ và Trung hoa
của Tưởng Giới Thạch. Họ cho rằng quân Trung hoa sẽ đánh bại Nhật và sẽ giúp
cho Việt nam dựng lên độc lập. Trong số đó có anh Tam và một số anh em đã chạy
sang Trung quốc. Họ dứt bỏ bọn Nhật để lén đến Liễu Châu (Quảng Tây) là nơi có
quân đội Trung hoa Quốc dân đảng (…)
Anh
Tam sau này lại tìm đến Vân Nam để gặp những phần tử của Việt Nam Quốc Dân Đảng
ở đó, đứng đầu là Vũ Hồng Khanh. Có lẽ vì hâm mộ lịch sử của Việt Nam Quốc Dân
Đảng và cũng chủ trương giống nhau trong việc liên kết với Trung quốc để chống
Pháp, Nhật, họ đã đồng ý hợp tác với nhau và quyết định mang tổ chức Đại Việt
Dân Chính sát nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Quyết
định này do một anh em bí mật theo đường Hà Giang về Hà Nội giao cho chúng tôi.
Lúc
đó các anh Long, Khái Hưng và Gia Trí cùng nhiều anh em khác mới được tha về.
Họ bắt đầu nối lại những mối liên lạc cũ và cũng bắt đầu hoạt động trở lại để
chờ những ngày quyết liệt mà ai cũng cảm thấy sắp rồn [dồn]
tới"[17]
Như
vậy, theo Nguyễn Tường Bách, năm 1943, Nguyễn Tường Tam đã quyết định sáp nhập Đại
Việt Dân Chính vào Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhưng đây mới chỉ là
quyết định miệng, đến năm 1945, mới ký giấy chính thức.
Theo
Hoàng Văn Đào, đầu năm 1944, ở trong nước, một số đảng viên Việt Nam Quốc Dân
Đảng: Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Hữu Đạt, Ngô Thúc Địch và
Nhượng Tống, thành lập Tân Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đảng này liên
minh với bốn đảng bạn: Đại Việt Quốc Dân Đảng (của Trương Tử Anh), Đại
Việt Quốc Xã (của Nguyễn Xuân Tiếu), Đại Việt Duy Dân (của Lý Đông
A) và Đại Việt Dân Chính (của Nguyễn Tường Tam) thành Mặt trận Đại
Việt Quốc Gia Liên Minh, với chủ trương "Thân Nhật để hạ Pháp"[18].
Vẫn
theo Hoàng Văn Đào, tháng 5-1945, tại Trùng Khánh, Đại Việt Quốc Dân Đảng
của Trương Tử Anh, Việt Nam Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh và Đại
Việt Dân Chính của Nguyễn Tường Tam chính thức ký quyết nghị hợp nhất ba
đảng. Trung ương đảng bộ được thành lập. Đảng kỳ là lá cờ sao trắng của Đại
Việt Quốc Dân Đảng. Đảng ca là bài Việt Nam minh châu trời đông của Hùng
Lân. Trụ sở công khai đặt tại trường tiểu học Đỗ Hữu Vị, Hà Nội, từ ngày
15-12-1945. Đảng bộ tổ chức thành hai bộ phận: bí mật và công khai. Tối cao bí
mật chỉ huy bộ gồm có: Trương Tử Anh, Nguyễn Tiến Hỷ, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế
Tổ và Nguyễn Tường Tam. Trương Tử Anh làm chủ tịch, Vũ Hồng Khanh là bí thư
trưởng. Lấy danh xưng duy nhất là Quốc Dân Đảng. Còn được gọi là Mặt
trận Quốc Dân Đảng. Bắc Việt và Trung Việt được chia làm bảy chiến khu.
Ngoài sự đóng góp của các đảng viên, Quốc Dân Đảng không có một nguồn
lợi kinh tế nào[19].
***
Báo
Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới
Ngày
9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trả lại chính quyền cho vua Bảo Đại.
Ngày17-4-1945,
chính phủ Trần Trọng Kim ra đời.
Trong
nhiều thập kỷ, chính phủ Trần Trọng Kim được coi là "bù nhìn" và đã
nhận được bao nhiêu điều phỉ báng, bôi nhọ. Nhưng nếu đọc báo Ngày Nay Kỷ
Nguyên Mới, ta thấy hiện ra một bối cảnh khác hẳn.
Đối
với nhóm Tự Lực văn đoàn, sau ngày 9-3-45, một "kỷ nguyên mới" vừa
được mở ra.
Ngày
5-5-1945, báo Ngày Nay tục bản, khổ nhỏ, mang tên Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới với
Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, và cả ê- kíp Ngày Nay cũ: Tú
Mỡ, Trần Tiêu, Trọng Lang, Thanh Tịnh, Thế Lữ, Nguyễn Tường Bách, cùng với
những cây bút "bên ngoài" như Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Hoạt, Vũ Đình
Liên, Huyền Kiêu, Đoàn Văn Cừ… tất cả cộng tác với Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới,
có chung lập trường ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim và tố cáo tội ác của chế độ
thực dân.
Tờ
báo do Nguyễn Tường Bách (lúc đó đã học xong y khoa) đứng tên chủ nhiệm; Nguyễn
Trọng Trạc, trị sự. Trụ sở tòa báo vẫn ở nhà Khái Hưng, 80 Quan Thánh.
Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới có khuynh hướng cực đoan, từ tranh vẽ của Nguyễn Gia Trí đến các bài viết: như thể sau bao nhiêu năm bị gò ép dưới gông cùm, nay thực dân đã bị đuổi, ta tha hồ vạch tội, không sợ bị bắt, bị hành hạ đánh đập như trước nữa.
Bìa: tranh Nguyễn Gia Trí vẽ Lý Toét nhảy
múa mừng "Độc lập, Tự do" và Lý Toét nghĩ lại ngày trước, dưới thời
thực dân, mình chỉ có "tự do chết đói".
Nội
dung Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới
Ngày
Nay Kỷ Nguyên Mới số 1 (5-5-45) nêu rõ sự vui mừng của
mọi người trước cảnh "nước nhà độc lập", xác định lập trường và diện
mạo tờ báo.
Trang
đầu, bên trái, có bài xã thuyết Ngày Nay sống lại, trình bày lý do hiện
diện, sau hơn bốn năm im lặng, bởi vì thời cơ đã đến.
Trang
đầu, bên mặt, bài Đại Việt độc lập, ghi lại những sự kiện quan trọng vừa
xẩy ra, như muốn chứng minh tại sao có niềm tin mới, tại sao Ngày Nay trở lại
văn đàn:
-
Ngày 9-3-1945, quân đội Nhật khai chiến với quân đội Pháp.
-
Ngày 11, thủ tướng Nhật Koiso tuyên bố trước quốc hội Nhật Bản: "Nước Nhật
sẽ hết sức giúp đỡ dân tộc Việt Nam để thực hiện nền độc lập".
-
Cũng ngày 11, đức Bảo Đại tuyên bố tại điện Cần Chính bãi bỏ bản hiệp ước
Pháp-Nam đặt cuộc bảo hộ Pháp tại nước Nam, và tuyên bố độc lập.
-
Ngày 12, nội các Nhật thông cáo: "Chính phủ Nhật không có một tham vọng về
đất đai nào đối với Đông Dương (…)".
-
Ngày 16, vị tổng tư lệnh quân đội Nhật tự đảm nhận lấy chức Toàn quyền Đông
dương (…).
-
Ngày 17-3, đức Bảo Đại ban hành đạo dụ số 1 lấy hiệu "Dân vi quý" làm
nền tảng cho nước Đại Việt độc lập.
-
Ngày 17-4, Nội các Trần Trọng Kim thành lập.
-
Ngày 22-4, Hội nghị Đại Đông Á tuyên bố sẽ tận lực giúp đỡ các dân tộc
Việt-nam, Cao-mên, Ai-lao thực hiện nền độc lập.
Bài
Đại Việt độc lập được đóng khung, trân trọng in trên trang đầu, phiá
trái, chỗ quan trọng nhất của tờ báo, vừa là một nhận định về "tình thế
độc lập của nước nhà", vừa xác nhận chính phủ Nhật Bản đã có những
"cam kết công khai" đối với Việt Nam.
Trang
kế tiếp có hai bài của Hoàng Đạo.
Bài
đầu Nội các Trần Trọng Kim bắt đầu làm việc là bài chào đón Nội các Trần
Trọng Kim, tóm tắt niềm tin chung của mọi người vào nội các độc lập đầu tiên,
và trích dẫn những lời tuyên bố của Thủ tướng Trần Trọng Kim về chương trình
hành động, Hoàng Đạo viết:
"Tin
Nội Các Trần Trọng Kim thành lập lan ra khắp giới một cách rất mau chóng. Quốc
dân ai ai cũng cảm thấy như cất hẳn một gánh nặng, vui vẻ loan báo cho người
chung quanh biết để cùng nhau mừng cho quốc gia đã có một cột trụ vững vàng
chắc chắn.
Ông
Trần Trọng Kim là một bậc lão thành, các vị thượng thư mới lại là những người
thượng lưu trí thức, có bằng cấp cao, có tài cán nhiều. Nội Các đầu tiên của
nước Việt ta có cơ vững lái chèo trong cơn sóng gió.
Trong
sự hoan hô của mọi giới, mọi người, Nội Các Trần Trọng Kim bắt đầu làm việc.
Thủ Tướng Đại Việt, sau khi nhận chức, tuyên bố hôm 17 tháng tư vừa qua:
"Tôi
từ đây về sau, việc thứ nhất là làm cho đạt cái hy vọng của quốc dân Việt Nam,
khiến Việt Nam thành một quốc gia độc lập, khôi phục trạng thái từ xưa và lo
toan cho ngày càng mạnh mẽ toàn vẹn.
Việc
thứ hai là lo giải quyết vần đề gạo ăn, vì trước hai vấn đề chính trị và văn
hoá, cốt yếu nhất là vấn đề gạo ăn.
Việc
thứ ba là kiến thiết tâm lý dân tộc Việt Nam (…) cải thiện phương châm giáo
dục, chấn hưng thanh niên (…).
Công
việc to tát, nhiệm vụ nặng nề, nhưng khắp nước Việt, không một người dân Việt
nào không đặt hết hy vọng vào Nội Các để Nội Các làm trọn được phận sự thiêng
liêng trong thời khắc nghiêm trọng này".
Hoàng
Đạo thường kiệm lời khen, những lời trong bài viết này chứng tỏ ông hết sức tin
tưởng vào nội các mới.
Trong
bài thứ hai Chính phủ Việt Nam cần phải làm những gì? Hoàng Đạo góp ý
kiến, nêu ra ba nguyên tắc cốt yếu:
1-
Thống nhất nước Việt Nam: Ba kỳ thu lại một mối.
2-
Củng cố địa vị quốc tế của nước Việt.
3-
Ở trong nước, nhiệm vụ hệ trọng nhất của nội các là thực hành khẩu hiệu
"Dân vi quý", sự thực hành đó có nghiã là chiêu tập Đại hội nghị toàn
quốc để đi đến một Hiến pháp.
Khái
Hưng, trong mục Tiếng vang, dành riêng cho những tiếng vang chính trị,
giới thiệu các đảng phái mới lập ra "như nấm" sau ngày 9-3-45. Đặc
biệt ông giới thiệu Tân Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nhượng Tống.
Phần
thứ hai của tờ báo viết về nạn đói đang hoành hành ở miền Bắc: ngoài những bản
điều tra, thống kê, là những bài phân tích nguyên nhân, đưa ra giải pháp, đặc
biệt bài của kỹ sư canh nông Hoàng Văn Đức, phóng sự của Trọng Lang về người
chết đói trên đường phố…
Nhà
phê bình Vũ Ngọc Phan xuất hiện trong bài Căn nguyên lịch sử của tinh thần
độc lập Việt Nam, duyệt lại lịch sử ngàn năm cho tới thời Pháp thuộc, để
chứng minh không lúc nào người Việt rời bỏ tinh thần độc lập của mình.
Và ông kết luận:
"Khởi
quốc gia Việt Nam thật là bền vững biết chừng nào. Mà tất cả sự bền chặt mạnh
mẽ ấy đều do ở tinh thần độc lập mà ra, cái tinh thần đã chung đúc hàng nghìn
năm bằng xương và bằng máu."
Khái Hưng đi đoạn hậu với trường thiên tiểu thuyết Xiềng Xích, đọc tiểu thuyết này, ta mới thấy sự tự do, độc lập, có thật, bởi vì lần đầu tiên, lịch sử một tổ chức cách mạng chống Pháp (một hội kín) được tường thuật chi tiết trên báo, không sợ kiểm duyệt, không sợ bị bắt.
Ngày
Nay Kỷ Nguyên Mới số 2 (12-5-45), dùng toàn bộ để vạch mặt
chế độ thực dân. Trên tờ báo này ta thấy rõ tính cách không nhân nhượng của họ
đối với thực dân Pháp:
Tranh
bìa Nguyễn Gia Trí vẽ một tay thực dân bự đang ngồi ăn giở đĩa thức ăn là người
Viêt Nam, vừa nhai vừa nói: Ta ăn mi là ta giải thoát cho mi, báo hiệu
chủ đề của số báo này.
Phần
đầu Hoàng Đạo tiếp tục góp ý với chính phủ Trần Trọng Kim trong việc nội trị.
Tiếp
đến, dưới tiêu đề: Chính sách thực dân không thể tồn tại trên thế giới được!
Hoàng Đạo viết ba bài, chỉ cần nhìn tựa đã hiểu nội dung nói gì: Những mặt
nạ của chế độ thực dân, Mẫu quốc âu yếm các con "thuộc địa" và
Bộ mặt thực của chế độ thực dân. Ngoài ra còn có bài: Thuộc điạ hai chữ
phải xoá bỏ trên địa đồ thế giới, ký Ngày Nay chắc cũng của Hoàng Đạo.
Sau
đó là loạt bài: "Thực dân, chính sách vô nhân đạo, đã hết thời"
của nhiều tác giả.
Vũ
Ngọc Phan viết Chính sách khai hoá bằng súng đạn với đề tựa dài, in đậm:
"Trong ba năm (từ cuối năm 1929 đến năm 1933) bọn cầm quyền Pháp đã
giết bao nhiêu dân quê Việt Nam trong các cuộc biểu tình và đã tuyên bao nhiêu
án tử hình và khổ sai đối với các nhà cách mệnh Việt Nam để đàn áp phong trào
bài Pháp". Đó là một bài điều tra, nghiên cứu, với những thống kê, con
số, rút ra từ các tài liệu của Pháp:
"Trong
ba năm: 1100 người Việt Nam bị kết án, những án ấy chia ra như sau:
112
án tử hình; 229 án khổ sai chung thân và cấm cố; 250 án hai mươi năm khổ sai và
cấm cố; 130 án từ 5 đến 8 năm khổ sai và cấm cố; 318 án từ 2 tháng đến 4 năm
tù".
Về
phiá dân quê bị giết oan:
"Trong
ba năm ấy, người Pháp lại dùng bom và súng liên thanh để giải tán các cuộc biểu
tình, tổng số dân quê Việt Nam bị người Pháp giết trong các cuộc hội họp ấy
là 1320 người, [in đậm trong nguyên bản] chưa kể số
người chết ở các làng bị triệt hạ bằng phi cơ oanh tạc.
Vì
không có chỗ để giam cầm (theo lời khai của viên thiếu tá Pháp khai trước toà
án Hà Nội ngày 17-6-1933, thì các ngục thất đông tù phạm quá, Robin [Thống
sứ Bắc kỳ] đã dặn miệng rằng: "Giết bớt đi!"), tầu Martinère của
Pháp phải đưa 538 chính trị phạm ở miền Bắc Việt Nam sang Inini [Guyane].
Năm 1933, tầu Forbin của Pháp lại phải đưa 1.800 người Việt Nam nữa bị khổ thai
chung thân sang Guyane."
Bài
viết của Vũ Ngọc Phan ngắn nhưng đầy đủ chi tiết các con số về thực trạng tù
nhân chính trị Việt Nam dưới chế độ thực dân Pháp.
Khái
Hưng viết bài Bọn thực dân Pháp vô nhân đạo đã diễn một tấn thảm kịch trên
sân khấu Cổ Am, tả lại biến cố Cổ Am 1930, trong cuộc khởi nghiã Yên Bái,
việc Trần Quang Diệu chỉ huy chiếm hai huyện Phù Dực và Vĩnh Bảo, bắt giết tri
huyện Hoàng Gia Mô, và Cổ Am bị Pháp dội bom báo thù như thế nào. Bài của Khái
Hưng được viết thành một vở kịch sáu màn, mang tính chất thời sự khốc liệt như
một bi kịch Hy Lạp.
Ngày
Nay Kỷ Nguyên Mới số 3 (19-5-45) vẫn tiếp tục đưa ra những
góp ý với chính phủ Trần Trọng Kim về việc nội trị, với ba bài: Bước đầu của
nội các và Vẫn vấn đề cần nhất: Tiền, ký Ngày Nay. Và bài Vài
nguyên tắc kiến thiết: Khoa học của Nguyễn Tường Bách.
Đáng
chú ý hơn cả là bài: Cái mầm độc lập dưới mắt bọn mật thám Pháp - Việt
Nam Quốc Dân Đảng của Huyền Hà. Đây là bản lược dịch tài liệu của Marty,
với những phác họa chân dung Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu
(Xứ Nhu)… của Tô Ngọc Vân. Huyền Hà viết đoạn mở đầu như sau:
"Trong
khi chờ đợi các bậc đàn anh đã tham dự vào công cuộc của "Việt Nam Quốc
Dân Đảng" xuất đầu lộ diện để công bố những tài liệu đầy đủ rồi rào [dồi
dào] về những trang sử đẫm máu của phong trào cách mệnh hồi năm 1930, chúng
tôi may mắn được xem cuốn: Contribution à l’histoire des mouvements
politiques de L’Indochine française – Documents. Vol. n II- Le "Việt Nam
Quốc Dân Đảng" ou "Parti national annamite" au Tonkin
(1927-1932).
Góp
vào lịch sử các cuộc chính biến ở Đông Pháp – Tài liệu tập số II – Việt Nam
Quốc Dân Đảng ở Bắc Kỳ (1927-1932)[20]
do chính phủ Đông Pháp xuất bản và… giữ bản quyền!
Cuốn
sách mỏng này – nói cho đúng là bản in tờ biên bản đệ trình lên thượng ty – của
viên quyền giám đốc nha Chính trị và Liêm phóng Louis Marty viết hồi tháng 10
năm 1933. Y không quên lấy tư cách là một kẻ đắc thế mà mạt sát hết thẩy mọi
người trong Việt Nam Quốc Dân Đảng. Y cho Nguyễn Thái Học là "một gã trẻ
măng, thiếu thông minh, nhưng đầy kiêu ngạo" (un tout jeune homme,
dépourvu d’intelligence mais plein de vanité)[21],
y bảo rằng những vai chủ động hồi đó chỉ là "một dúm thanh niên, phần đông
là đói khát và vô học thức (cette poignée de jeunes gens, pour la plupart
faméliques et sans instruction). Và những cuộc tàn sát ở Cổ Am, Yên bái,
Nghệ tĩnh, Hốc môn, vân vân, là một dịp cho y phô trương "cái nền cai trị
của thuộc địa sẵn sàng những lực lượng binh bị và cảnh sát lẫm liệt mà ai nấy
đều biết (l’adminstration coloniale disposant des forces militaires et de
police imposantes que l’on sait).
Cái
lực lượng ghê gớm ấy, chúng tôi đã biết sau đêm mùng 9 tháng ba dương lịch vừa
rồi. Và chúng tôi không quên rằng cách đây ngót hai mươi năm, "một
dúm" người Việt Nam đã có can đảm đứng lên cảnh tỉnh đồng bào và đặt một
cái mốc trên con đường độc lập, mặc dầu có những cuộc đán áp dã man của
"cái nền cai trị ở thuộc địa" ấy" (Ngày Nay
Kỷ Nguyên Mới số 3, 19-5-45)
Những
số kế tiếp, Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới tiếp tục con đường tranh đấu, tiếp
tay với chính phủ Trần Trọng Kim trong việc quản trị đất nước đang đói và xây
dựng một nhà nước pháp quyền, làm luật, viết Hiến pháp…
Nhiều
loạt bài phóng sự được tung ra, như phóng sự Sống sót của Trọng Lang,
viết về những người "sóng sót" sau ngày 9-3, dưới chế độ mới mà họ
không còn là chủ nữa, Lời toà soạn nói rõ nội dung: "Thiên phóng
sự này tả tình cảnh của bọn thực dân Pháp sống sót lại sau đêm mùng 9, của tụi
Việt gian đã sống sau gót thực dân, của lũ "me" lỡ bước, của những kẻ
vong bản đã nhập Pháp tịch" (số 8, 23-6-45).
Loạt
phóng sự Chợ đen muôn mặt của Nguyễn Hoạt, từ số 8 (23-6-45) đến
số 11(14-7-45), tố cáo sự tham lạm của Mouvoisin, Giám đốc nha Kinh tế Bắc kỳ,
và bọn tay sai Pháp, Việt vô lương tâm, làm giầu trên lưng dân nghèo, trong số
đó viên Công sứ Gorrec ở Phúc Yên, từ năm 1942 đến 1944, đã "ăn cắp,
làm chợ đen và lạm dụng quyền hạn để trục lợi đến như thế nào?" Phóng
sự của Nguyễn Hoạt là những bản điều tra có con số, đúng hơn là những bản cáo
trạng trước toà án, với bằng cớ và đưa tên thủ phạm rành rành. Tệ hại nhất là
sự dung túng nạn đầu cơ, buôn chợ đen, dẫn dến tình trạng thiếu nguyên liệu,
thợ không có việc làm, thất nghiệp, đói. Nạn chợ đen thóc gạo và những mánh
khoé biển lận của bọn tay sai Gorrec đã dẫn đến nạn dân chết đói trong vùng.
Trần
Tiêu đưa ra phóng sự Cải cách trong một làng (số 9, 30-6-45) và (số 10,
7-7-45), về các tệ đoan làng xã và đề nghị cải cách. Bài đầu tiên viết về việc
cải cách ở làng Cổ Am, quê hương ông và Khái Hưng.
Nhà
thơ Vũ Đình Liên, trong bài Hiến Pháp và hội nghị lập hiến (số 10,
7-7-45), dưới ngòi bút luật gia, ông đề xuất tổ chức Hội nghị Lập hiến. Trong
số 11 (14-7-45), Vũ Đình Liên viết bài Quân chủ lập hiến giải thích thế
nào là chế dộ quân chủ lập hiến, ông so sánh hiến pháp dân chủ Pháp và hiến
pháp quân chủ lập hiến Anh, và đòi hỏi điều kiện cho một chính thể Quân chủ lập
hiến Việt Nam. Cũng trong số báo này, Vũ Ngọc Phan viết bài Ảnh hưởng của
văn học về đường xã hội và chính trị khảo luận về ảnh hưởng văn học trong
đời sống chính trị xã hội xưa và nay.
Hoàng
Đạo trong bài Vấn đề kinh tế – Đã đến lúc nước ta cần phải kỹ nghệ hoá (số
12) thúc đẩy việc kỹ nghệ hoá như một chính sách cần thiết để Việt Nam thoát
khỏi tình trạng lạc hậu.
Ngày
Nay phỏng vấn bộ trưởng Phan Anh, thành viên của Hội đồng Dự Thảo Hiến Pháp (số
12 và 13), về tiến trình của việc lập Hiến Pháp.
Vũ
Đình Liên trong bài Nhiệm vụ và địa vị của giới cần lao trong xã hội Việt
Nam mới (số 13) đưa ra vai trò quan trọng của giới cần lao. Nguyễn Tường
Bách đề nghị việc cải cách giáo dục. Vũ Ngọc Phan bàn việc cải cách nghề nông;
bàn về việc bài trừ những tệ đoan trong cách làm văn học.
Đó
là những bài viết tâm huyết của những nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, không
chuyên về chính trị, xã hội, nhưng lại có tính chất nền tảng, khởi đầu cho một
giai đoạn mới, sửa soạn cho Việt Nam trên đường kiến thiết, đi vào thế giới
hiện đại và thành lập chế độ dân chủ.
Ngày
6-8-45, quả bom nguyên tử đầu tiên nổ ở Hiroshima, ngày 9-8-45, quả thứ nhì nổ
ở Nagasaki.
Ngày15-8-45,
Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Ngày
Nay Kỷ Nguyên Mới đóng cửa sau số 16, ra ngày 18-8-1945.
Ngày
19-8-1845, Việt Minh lên nắm chính quyền.
Chiều
ngày 23-8-45, vua Bảo Đại làm lễ thoái vị, trao quyền lại cho chính phủ Việt
Minh.
***
Ngày
vua Bảo Đại thoái vị
Cách
đây hai mươi năm, khi viết về Nguyễn Tiến Lãng, tôi đọc cuốn Les chemins de
la révolte (Những nẻo đường nổi dậy, Paris, 1953), một tiểu thuyết
tự truyện viết về quãng đời ông từ 1945 đến 1951. Câu chuyện bắt đầu như sau:
Lê Văn Nguyên [Nguyễn Tiến Lãng] đang nghỉ hè ở nhà cha vợ là Trần Phạm [Phạm
Quỳnh], thượng thư về hưu. Ngày 28-8-1945, có hai người lạ mặt được lệnh đến
dẫn hai cha con đi. Ông Trần Phạm lên xe trước, Nguyên lên sau, ông Phạm nói
một câu vu vơ như với chính mình: "Các vị này bảo Hoàng đế đã thoái vị".
Nguyên hỏi lại: "Thật không thày?". Ông không trả lời.
Đó
là câu trao đổi duy nhất giữa hai cha con. Câu nói của ông Phạm đã cho biết một
sự thật mà có lẽ khi viết, Nguyễn Tiến Lãng không để ý: Vua Bảo Đại thoái vị
trước ngày 28-8-1945, là ngày Phạm Quỳnh bị bắt cùng với Nguyễn Tiến Lãng ở
biệt thự Hoa Đường. Hai người công an đã cho ông Phạm biết tin đó. (Xin chú
thích: ngày 28-8 do Nguyễn Tiến Lãng ghi lại, có tài liệu viết Phạm Quỳnh bị
bắt ngày 23-8-45).
Câu
nói của Phạm Quỳnh trong bối cảnh này làm chất bi đát thấm vào lòng người,
khiến tôi chú ý đến ngày vua Bảo Đại thoái vị. Và từ đó, cố gắng tìm hiểu, tại
sao một ngày quan trọng như thế, mà cho đến nay vẫn chưa được xác định thoả
đáng. Bởi vì ngày 30-8-1945, được chính thức công nhận, không ăn khớp với thực
tại, và không giống những gì cựu hoàng Bảo Đại ghi trong hồi ký.
Đoàn
Thêm ghi trong danh sách Việc từng ngày:
"24-8-45:
Lễ thoái vị trước cửa Ngọ Môn, Huế: Vua Bảo Đại trao kiếm vàng cùng ấn ngọc cho
đại diện VM là Trần Huy Liệu"[22].
Đoàn
Thêm thường dựa vào tin tức trên báo, hoặc vào công báo. Mà trong thời điểm ấy,
thông tin khó khăn, lễ thoái vị không đình đám (có khoảng ngàn người tham dự
như nhà vua kể lại, ở dưới), nên báo chí đưa tin sai trật một ngày là thường.
Nghiêm
Kế Tổ ghi trong Quê hương máu lửa:
"Ngày
25-8-45, không khí bàng bạc buồn tênh muôn thủa của đế đô đã chứng kiến cuộc
"bể dâu" tại Ngọ Môn Đài. Vị Hoàng Đế cuối cùng của Triều Nguyễn cũng
như của dân tộc Việt Nam nghiêm trang trao Bửu Kiếm và Ngọc Tỷ, biểu hiệu Ngai
Vàng cho Đại Diện Cách Mạng: Nguyễn Lương Bằng, đại diện tổng bộ; Trần Huy
Liệu, phó chủ tịch Ủy Ban Giải Phóng Lâm Thời và Cù Huy Cận, Uỷ viên."[23]
Nghiêm
Kế Tổ không có mặt, ông dựa vào ngày ghi dưới bản chiếu thoái vị mà ông có
trong tay và cho in lại trong sách Quê hương máu lửa.
Võ
Nguyên Giáp ghi trong Những năm tháng
không thể nào quên:
"Tại
Huế, ngày 23 tháng Tám, mười lăm vạn đồng bào nội, ngoại thành tuần hành thị uy
trên các đường phố.
Uỷ
ban khởi nghiã đưa thư đòi Bảo Đại thoái vị. Các lực lượng vũ trang khởi nghiã
chiếm các công sở và lùng bắt bọn Việt gian. Trước áp lực to lớn của cách mạng,
Bảo Đại tuyên bố sẵn sàng từ giã ngôi vua. (…)
Anh
Trần Huy Liệu, anh Nguyễn Lương Bằng và anh Cù Huy Cận được cử vào Huế. Ngày 30
tháng Tám, cửa Ngọ môn tại hoàng thành mở rộng đón phái đoàn của Cách mạng. Bảo
Đại đọc chiếu thoái vị, trao lại ấn, kiếm để trở thành người công dân của một
nước tự do. Hàng vạn đồng bào hân hoan chứng kiến những giờ phút cuối cùng của
triều Nguyễn"[24].
Võ
Nguyên Giáp cũng không ở Huế, ông ghi lại một số chuyện không biết rút ra từ
đâu và một số điểm khác theo sách Phạm Khắc Hoè.
Phạm
Khắc Hoè tường thuật kỹ những ngày cuối cùng của triều Nguyễn trong
cuốn Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, ngày tháng do ông sắp xếp
lại. Việc vua thoái vị được ông viết như sau:
"Sáng
ngày 29 tháng 8, nhân dân Huế tổ chức mít-tinh trọng thể ở sân vận động để hoan
nghênh Phái đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời từ Hà Nội vào nhận sự thoái vị
của Bảo Đại"[25]
"Trưa
30 tháng 8-1945, cờ vàng nhà vua được kéo lên lại trên kỳ đài. Đồng bào bắt đầu
tập hợp trước Ngọ Môn, khoảng 2 giờ đã có hàng vạn người. Từ các ngả đường,
những đoàn người vẫn tiếp tục kéo đến mỗi lúc một đông, đứng chật ních cả bãi
cỏ rất lớn trước Ngọ Môn.
Đúng
4 giờ, xe Phái đoàn Chính phủ cách mạng cắm cờ đỏ sao vàng tiến vào cửa chính
giữa của Ngọ Môn, giữa tiếng hoan hô nhiệt liệt của hơn năm vạn nhân dân nội
ngoại thành Huế.
Phái
đoàn trên xe bước xuống, thì tôi và Hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn đón mời lên lầu Ngũ
Phụng của Ngọ Môn. Ở đây, Bảo Đại khăn vàng, áo vàng, quần trắng; giầy dừa thêu
rồng ra đón phái đoàn.
Sau
câu chuyện xã giao, buổi lễ bắt đầu:
Trước
hết, ông Trần Huy Liệu nói cho đồng bào rõ ý nghiã của việc Phái đoàn thay mặt
Chính phủ cách mạng lâm thời vào nhận sự thoái vị của Bảo Đại (…)
Sau
đó, Bảo Đại đọc tờ Chiếu thoái vị một cách xúc động có khi tắt cả tiếng. Bảo
Đại đọc xong thì trên kỳ dài cờ vàng của nhà vua từ từ hạ xuống và lá cờ nền đỏ
thắm tươi long lanh năm cánh sao vàng được kéo lên giữa những tiếng vỗ tay,
những tiếng hoan hô như sấm cắt ngang bởi 21 phát súng lệnh vang lên chào quốc
kỳ mới của tổ quốc hồi sinh."[26]
Phạm
Khắc Hoè là người thân cận vua và hoàng hậu, nên những điều ông thuật lại được
nhiều người tin, tuy ông tô điểm cho hoành tráng hơn nhiều so với thoại của cựu
hoàng Bảo Đại. Ở trang 77, ông viết: Trưa 30 tháng 8-1945, Bảo Đại làm
lễ thoái vị, vậy mà sáu trang trước, trang 71, ông lại viết:
"…Khoảng
11 giờ đêm hôm ấy [26-8] anh Tôn Quang Phiệt đến đánh
thức tôi dậy nói: "Tối hôm kia, say sưa nói chuyện thơ Tố Hữu, tôi quên
hỏi anh cho xem bản chiếu thoái vị. Chiều nay nghe dân chúng đi xem ở Phú Văn
Lâu về tấm tắc khen hay và đã làm cho nhiều người rơi nước mắt"[27].
Câu:
"Chiều nay nghe dân chúng đi xem ở Phú Văn Lâu về tấm tắc khen hay và
đã làm cho nhiều người rơi nước mắt" có nghiã là: chiều hôm 26-8, dân
chúng đi xem vua đọc chiếu thoái vị ở Phú Vân Lâu về, khen hay, nhiều người rơi
lệ.
Nhưng
ở trang trước, trang 70, ông lại viết: "Hai giờ chiều ngày 26, Bảo Đại
làm lễ báo cáo việc thoái vị với tổ tiên ở Thế miếu là nơi thờ Gia Long và các
vua nối tiếp. Việc này đã được loan báo trước cho "văn võ bá quan"
mời tới dự, nhưng đến phút cuối cùng không ai tới cả"[28].
Câu
này có nghiã là: Hai giờ chiều ngày 26-8, vua Bảo Đại làm lễ bá cáo thoái vị
với tổ tiên ở Thế miếu, có mời văn võ bá quan tới dự, nhưng không ai tới cả.
Vậy,
chiều ngày 26-8, vua làm gì? Vua đọc chiếu thoái vị ở Phú Vân Lâu, khiến dân
chúng đi xem về tấm tắc khen hay, hay vua làm lễ báo cáo thoái vị với tổ tiên ở
Thế miếu, không ai đến dự?
Tóm
lại, Phạm Khắc Hoè, có lẽ vì phải sửa ngày vua đọc chiếu thoái vị thành 30-8,
cho nên ông loạng quạng khi lắp ghép thứ tự mọi việc đã xẩy ra.
Hồi
ký của cựu hoàng Bảo Đại
Hồi
ký Le Dragon d’Annam, của cựu hoàng Bảo Đại do Nxb Plon in tại Paris,
năm 1980, được Nguyễn Phước Tộc dịch sang tiếng Việt là "Con rồng Việt
Nam", xuất bản năm 1990. Cuốn sách này khá phổ biến, được trích dẫn
nhiều trong các bài Wikipédia tiếng Việt, viết về vua Bảo Đại hoặc ngày lễ
thoái vị. Trừ ngày thoái vị, Wikipédia vẫn viết theo thoại "chính
thống" là 30-8-1945.
Về
ngày lễ thoái vị, cựu hoàng Bảo Đại, trong hồi ký Con rồng Việt Nam, kể
lại:
Một
hôm (ông không nói rõ ngày nào) viên Chủ sự Bưu điện Huế đem vào trình ông một
bức điện tín đặc biệt, từ Hà Nội gửi vào, nội dung như sau:
"Trước
ý chí đồng nhất của toàn thể dân chúng Việt Nam, sẵn sàng hy sinh tất cả để cứu
vãn nền độc lập quốc gia, chúng tôi thành kính xin đức Hoàng đế hãy làm một cử
chỉ lịch sử để từ bỏ ngai vàng."
Bức
điện này được ký dưới là "Ủy ban Nhân dân Cứu quốc" đại diện cho tất
cả mọi đảng phái, và tầng lớp dân chúng.
Chẳng
cần biết rõ ai là người thủ xuống, bản điện văn này đã phản ảnh một ý chí vô
cùng thành thực. Người thảo ra bức điện văn là những nhà ái quốc y như tôi, đều
mong mỏi độc lập và thống nhứt cho tổ quốc Việt Nam (…)
Tôi
liền gởi một điện tín vu vơ, y như người ném cái chai xuống biển… Bằng vô tuyến
điện, tôi gửi cho "Uỷ ban Nhân dân Cứu quốc" ở Hà Nội:
"Đáp
ứng lời kêu gọi của Uỷ ban, tôi sẵn sàng thoái vị. Trước giờ quyết định này của
lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất
cả mọi quyền lợi, để cho sự đoàn kết được thành tựu, và yêu cầu đại diện của Uỷ
ban sớm tới Huế, để nhận bàn giao.
Trong
đêm ấy, vẫn chỉ có Vĩnh Cẩn bên cạnh, tôi soạn bản tuyên ngôn thoái vị.
Sáng
ngày 23 tháng tám, hai phái viên của Việt Minh đến cung điện. Đó là những người
đại diện cho Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, do Hà Nội cử vào. Trần Huy Liệu trưởng
phái đoàn là phó chủ tịch của Uỷ ban. (…) Kẻ đồng hành là Cù Huy Cận trông thật
vô nghiã. Tôi không khỏi thất vọng.
Trần
Huy Liệu trình tôi một tờ giấy ủy quyền, tên ký lằng nhằng khó đọc, và tuyên bố
một giọng khá trịnh trọng:
-
Nhân danh dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh của mặt trận giải phóng đất
nước cho chúng tôi vinh dự đến gần Hoàng thượng, để nhận ấn kiếm.
Đó
là lần đầu tiên mà tôi nghe thấy tên Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi liền đưa bản
tuyên ngôn thoái vị. Trần Huy Liệu bàn với người đồng hành, nói nhỏ vài câu,
rồi ngoảnh sang tôi và nói:
-
Thưa Hoàng thượng, nhân danh dân tộc Việt Nam, chúng tôi nhận bản văn này rất
nhẹ nhàng, không câu nệ. Nhưng, chúng tôi kính xin Hoàng thượng cho tổ chức một
buổi lễ vắn tắt, trong đó xin Hoàng thượng công khai tuyên bố cho mọi người
biết.
Đến
chiều, trước hàng nghìn người tụ hội vội vàng trước cửa Ngọ Môn, tôi bận trào
phục và đọc bản tuyên ngôn thoái vị, đề ngày 25 tháng 8 năm 1945 dưới đây:
(…)
Bản
tuyên ngôn được đọc trong sự yên lặng hoàn toàn. Tôi quan sát các khán giả đứng
hàng đầu. Tất cả các vẻ mặt đều tỏ vẻ ngạc nhiên cùng cực. Nam và nữ đều ngẩn
ngơ. Bản tuyên ngôn thoái vị của tôi như tiếng sét đánh xuống ngang đầu họ. Họ
lặng người đi.
Trong
một bầu không khí bực dọc, tôi trao nhanh ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho
Trần Huy Liệu, mà chính ông ta cũng có cảm tưởng như tự trên mây mà lại. Trong
khi tôi hồi cung, đám đông tan rã, không một tiếng kêu. (…)
Rất
ít tin tức lọt đến tai tôi. Không có báo chí, không có đài. Chỉ riêng Việt Minh
có những phương tiện truyền tin.
Nhờ
một người cán bộ ở Hà Nội cho biết, ngày 29 tháng 8, một chính phủ lâm thời do
Hồ Chí Minh cầm đầu đã được thành lập. Đến ngày 2 tháng 9, tuyên ngôn long
trọng về nền độc lập của Việt Nam và mở đầu triều đại của nền Dân chủ Cộng hòa"[29].
Qua
những dòng trích dẫn trên đây trong sách của cựu hoàng Bảo Đại, một số sự kiện
lộ rõ:
Sáng
ngày 23 tháng tám, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận vào yết
kiến vua, họ chỉ là đại diện của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, tức
Việt Minh. Lúc đó chưa chính thức có Chính phủ Lâm thời.
Theo
lời yêu cầu của Trần Huy Liệu, vua cho tổ chức lễ thoái vị ngay chiều hôm
đó ở Ngọ Môn, tức là lễ thoái vị được tổ chức chiều ngày 23
tháng 8. Buổi lễ có hàng nghìn người tham dự, chứ không phải hàng vạn người
như Phạm Khắc Hoè viết.
Vua
đọc bản Tuyên ngôn thoái vị đề ngày 25 tháng 8.
Ngày
29 tháng 8, mới chính thức có Chính phủ Lâm thời.
Cho
nên phải sửa ngày thoái vị thành 30 tháng 8, vì Chính phủ Lâm thời mới đủ chính
danh để tiếp nhận ấn tín của hoàng triều nhà Nguyễn.
Việc
sửa ngày vua thoái vị, thành 30 tháng 8, có lẽ chỉ vì lo lắng sự chính danh của
một chính phủ vừa thành lập. Nay đã 76 năm qua, sự chính danh không còn quan
trọng nữa, mà sự thực lịch sử quan trọng hơn. Chúng tôi nghĩ các nhà viết sử
nên quan tâm đến vấn đề này: Nếu muốn bác bỏ ngày lễ thoái vị là ngày 23 tháng
8, do chính tay vua viết, thì phải đưa ra những chứng cớ thuyết phục.
(Còn
tiếp)
Thụy
Khuê
thuykhue.free.fr
[1]Theo
François Guillemot, Đại Việt, indépendance et révolution au Việt Nam,
L’échec
de la troisième voie (1938-1955) (Đại Việt, độc
lập và cách mạng ở Việt Nam, Sự thất bại của con đường thứ ba
(1938-1955), Nxb Les Indes Savantes, Paris, 2012. t. 87.
Tác
phẩm của François Guillemot là một công trình nghiên cứu khoa học, ông đọc
nhiều tài liệu Pháp-Việt và phỏng vấn những nhân chứng Đại Việt đã sống trong
thời kỳ này, ở Mỹ. Guillemot phối hợp những thông tin về phiá Đại Việt, Việt
Minh, và sao lục những tin tình báo của Pháp, tạo ra một tác phẩm công phu, hơn
700 trang khổ lớn, không những về các đảng Đại Việt mà còn soi sáng
những điểm quan trọng khác trong thời kỳ lịch sử cận đại này.
[2]
Nguyễn Tường Triệu, Papa toà báo, Thế Kỷ 21, số tưởng niệm Khái Hưng
(tháng 12-1997), in lại trong Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ,
Nxb Thế Kỷ, California, 2004, t. 167.
[3]
Nguyễn Tường Triệu, Papa toà báo, in trong Nhất Linh người nghệ sĩ,
người chiến sĩ, t. 167.
[4]
Nguyễn Thị Thế, Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch
Lam, Văn Hoá Ngày Nay, tái bản lần thứ ba, 1996, CA, Hoa Kỳ, t. 124.
[5]
Như Phong Lê Văn Tiến và bộ sưu tập ký hoạ, phác thảo của Nguyễn Gia Trí,
Thế Kỷ 21, số 189-190, tháng 1 và 2, năm 2005.
[6]
Nguyễn Tường Triệu, Papa toà báo, Thế Kỷ 21, số tưởng niệm Khái Hưng
(tháng 12-1997), in lại trong Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ,
Nxb Thế Kỷ, California, 2004, trang t.168.
[7]
Hoàng Hưng, Nguyễn Gia Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghệ thuật (SG, 5-4-1998,
in lại trên vanviet.info, tư liệu, 5-12-2017).
[8]
Hoàng Hưng, Nguyễn Gia Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghệ thuật. Bài đã
dẫn.
[9]
Trong tập tài liệu: Những lá thư Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng, bài 3,
Số phận bức tranh lớn nhất của Nguyễn Gia Trí, in trên: thuykhue.free.fr
và vanviet.info.
[10]
Như Phong Lê Văn Tiến và bộ sưu tập ký hoạ, phác thảo của Nguyễn Gia Trí,
Thế Kỷ 21, số 189-190, tháng 1 và 2, năm 2005, t. 45.
[11]
Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, Nxb Mai Lĩnh, in tại nhà in Võ Văn Vân,
Sài Gòn, 1954, trang 85.
Theo
Hoàng Văn Đào, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội được thành lập ngày
10-10-1942; ông ghi thành phần của những người sáng lập: Nguyễn Hải Thần,
Trương Bội Công, Trần Bảo, Trương Trung Phụng (vô đảng phái), Vũ Hồng Khanh,
Nghiêm Kế Tổ (Việt Nam Quốc Dân Đảng), v.v. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc
Dân Đảng, trang 182-183).
[12]
Nguyễn Thị Thế, Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, t. 124.
[13]
Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, trang 184-185.
[14]
Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, Nxb Mai Lĩnh, in tại nhà in Võ Văn Vân,
Sài Gòn, 1954, trang 29.
[15]
Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, lời Võ Nguyên Giáp,
Hữu Mai ghi, Nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội 1974, trang 61-62.
[16]
Sách Hoa vông vang, Ả Hẩu, Như Băng hồi ký (Việt tide, 2019,
California), trang 199-203.
[17]
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, Tủ sách nghiên cứu sử
địa, Montréal, 1981, trang 38-39.
[18]
Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, t. 198.
[19]
Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, t. 242, 243, 246.
[20]
Những chữ in đậm là trong nguyên bản.
[21]
Câu này, năm 1967, Long Điền, trong tập san Sử Điạ, dịch là "Nguyễn
Thái Học là một người rất trẻ, đần độn nhưng đầy tự kiêu".
[22]
Đoàn Thêm, 1945-1965 Việc từng ngày Hai mươi năm qua, Xuân Thu tái bản,
không đề năm, trang 12.
[23]
Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, trang 38.
[24]
Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, Nxb Quân Đội Nhân
Dân, Hà Nôi, 1974, trang 21.
[25]
Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nxb Hà Nội,
1983, trang 75.
[26]
Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nxb Hà Nội,
1983, trang 77-78.
[27]
Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nxb Hà Nội,
1983, trang71.
[28]
Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nxb Hà Nội,
1983, trang 70-71.
[29] Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trích các trang 183, 186, 188 và 190.