Tôi còn nhớ đầu năm 2018, vợ chồng nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy, Lê Phương Liên người gốc Bắc nhưng định cư ở Sài Gòn rất yêu thích văn học nghệ thuật. Anh chị tự bỏ tiền túi lập tủ sách văn học Thơ Bạn Thơ, Văn Bạn Văn in những tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật của nhiều tác giả không kể họ là người vùng miền nào, đã mời tôi biên tập cùng thực hiện tuyển tập THƠ BẠN THƠ 9 số đặc biệt về các nhà thơ Việt đang sinh sống ở nước ngoài. Vợ chồng anh chọn tôi thực hiện vì biết tôi là người làm thơ ở miền Nam từ trước 1975 và sau 1975 tôi vẫn còn tiếp tục với niềm vui đam mê chữ nghĩa, các nhà thơ hải ngoại phần lớn là những nhà thơ khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình rất sớm ở miền Nam nên tôi có thể làm tốt công tác biên tập. Nhà thơ Phạm Cao Hoàng là một trong những người tôi đưa vào tuyển tập THƠ BẠN THƠ 9 đầu tiên. Mặc dù tôi chưa hề quen biết anh nhưng ngay từ đầu thập niên những năm 1970, thơ Phạm Cao Hoàng đã có mặt trên nhiều tạp chí văn học miền Nam như Văn Học, Bách Khoa, Văn, Vấn Đề...theo nhận xét của nhà văn Trần Hoài Thư, tạp chí Vấn Đề lúc đó nhà văn Mai Thảo chủ biên rất khó tính trong việc chọn bài, thơ anh cũng lần lượt được chọn đăng trong nhiều số.
Khi tuyển tập THƠ BẠN THƠ 9 in xong, thời may nhà văn Nguyễn Minh Nữu có về Việt Nam, biết Nguyễn Minh Nữu gần nhà anh ở tiểu bang Virginia nên tôi nhờ anh ấy đem về Mỹ tặng anh một bản. Thời gian sau anh mail cho tôi đã nhận được và có nhã ý gởi cho tôi một ít tiền bù vào ấn phí thực hiện nhưng tôi từ chối và nói với anh người khác bỏ tiền túi để in tôi chỉ biên tập nên anh đừng quan tâm đến việc đó. Tôi còn viết cho anh nếu được xin anh gởi về tôi những tác phẩm đã in của anh vẫn còn lưu giữ để tôi đọc cho vui. Qua nhà văn Phạm Văn Nhàn tôi nhận một lúc 3 tác phẩm của anh đó là: Mây khói quê nhà, Đất còn thơm mãi mùi hương, Mơ cùng tôi giấc mơ Đà Lạt, tất cả đều do nhà xuất bản Thư Ấn Quán của nhà văn Trần Hoài Thư thực hiện vào các thời điểm khác nhau. Cầm những quyển sách trên tay tôi rất vui và xúc động vì biết anh vẫn còn nhớ lời của tôi.
Nói như nhà thơ Du Tử Lê: Thơ Phạm Cao Hoàng không chạy theo xu hướng thời thượng nào ở thời điểm văn học miền Nam lúc bấy giờ: “...Thí dụ xu hướng chống chiến tranh, hay khuynh hướng mang “buồn nôn” (ảnh hưởng triết lý hiện sinh của Jean Paul Sartre) vào văn chương. Ông cũng không cho thấy có chút ý hướng biểu diễn chữ, nghĩa một cách khinh bạc (trong khi đời thường mưu cầu chức tước), với những ý niệm triết lý xào nấu, mang đầy tính khoe khoang… “đe dọa!”
Họ Phạm lặng lẽ
đem mình ra khỏi trào lưu, xốc nổi thời thế. Ông tự tin, thanh thản với những
đường bay thi ca bình thường mà sâu sắc, giản dị mà cảm động, qua những chủ đề,
tưởng như tầm thường mà, rất gần nhân thế; rất gần tình yêu con người và; đất
nước của ông.”
(Du Tử Lê- Phạm Cao Hoàng, tiếng thơ tách thoát khỏi mọi trào lưu thời thượng)
Hay nói theo một nhà văn khác: Thơ Phạm Cao Hoàng không cầu kỳ, anh thích đơn giản, chẳng cần cường điệu hóa, anh thích làm dòng suối chưa từng bị ô nhiễm hơn là lao thân vào sông hồ lắm phèn chua nước mặn. Đọc thơ Phạm Cao Hoàng ta thấy như mình đang đi dạo trong một khu vườn nhỏ chỉ vun trồng các loài hoa quen thuộc nhưng đầy hương sắc mà không du nhập bất cứ loài hoa xa lạ nào dù nó đẹp đẽ xanh tươi đến mấy nên trong không gian thơ, dòng chảy thơ của anh trước sau như một chỉ chảy một dòng thấm đẩm tâm hồn phương Đông và tôi đã đọc thơ Phạm Cao Hoàng trong một tâm trạng như vậy.
Những năm cuối thập niên 60 bước sang thập niên 70 ở miền Nam, chiến tranh bắt đầu trở nên khốc liệt, cuộc sống nhiều xáo trộn về thời thế, Phạm Cao Hoàng cũng như bao thanh niên thời chiến khác phải rời xa quê từ sớm nên quê nhà luôn là nỗi ám ảnh nhớ thương da diết nhưng cũng không kém phần đau xót khi đứng trước hai lằn đạn của cả hai phía:
Quê nhà gắn liền với bao kỷ niệm ấu thơ nơi có mái trường xưa, có cây bàng đỏ lá, có con đường đất mưa lầy nắng bụi, có cánh đồng lúa xanh rì rập rờn theo sóng gió một thời anh đi học giờ chỉ còn trong ký ức và những nỗi hoài niệm:
Hình như nỗi sầu xứ đã vận vào đời anh khi tuổi còn rất trẻ, phải chăng đó là định mệnh mà ta không thể cưỡng cầu, giống như cánh chim đơn côi bay lạc lõng giữa buổi chiều tà và người hàn sĩ ấy lại một lần nữa cất bước ra đi, trời đất mênh mông không biết đâu là nhà:
Hay trong những
câu thơ khác:
Cho đến khi rời xa quê hương anh chợt cảm thấy những hoài bảo, ước mơ đã vuột khỏi tầm tay mình từ lâu, bước chân thời gian không chờ đợi một ai nhưng biết làm thế nào níu kéo được khi phía sau là dòng sông mệnh bạc còn phía trước lại mù mù sương khói. Chỉ mấy câu thơ cũng đủ làm lòng người không khỏi ray rứt.
Nhiều năm sau trở lại quê nhà, thăm lại Phú Thứ nơi chôn nhau cắt rốn của mình anh vẫn còn có cái cảm giác hương đất hương đồng nội vẫn còn quanh quất trong tâm hồn như ngày nào và hình như thấy lại hình bóng người cha thân yêu ngày nào đã vì mình mà lam lũ cả đời:
Phạm Cao Hoàng viết
nhiều thơ về vùng đất cao nguyên Lâm Viên với một tình cảm tràn đầy và tha thiết.
Điều nầy cũng thật dễ hiểu. Bước đường viễn xứ của anh từ ngày rời trường sư phạm
đã lưu trên đất Tuy Hòa, Phan Thiết... rồi ngược lên Đơn Dương, Đà Lạt, Đức Trọng.
Nơi đây anh gặp được người con gái có tên Cúc Hoa và kể từ đó thơ anh đã có những
vần thơ bay bổng ca ngợi tình yêu. Phải nói anh viết rất nhiều bài thơ cho Cúc
Hoa, thời còn ở Đà Lạt với những hạnh phúc, những thăng trầm của cuộc sống cho
đến khi ra nước ngoài, thơ anh vẫn nồng nàn say đắm dành cho người bạn đời chia
ngọt sẻ bùi với anh trong những tháng ngày khốn khó. Anh còn viết cả một tập
truyện ký “Mơ cùng tôi giấc mơ Đà Lạt” thì đủ biết nguồn cảm hứng của anh về Đà
Lạt sương mù, thông ngàn, quì vàng, Cúc Hoa không bao giờ cạn.
Tôi có cái cảm giác mùa thu Đức Trọng vẫn níu kéo gã hàn sĩ ấy dù chỉ là sợi dây vô hình nhưng không thể bứt rời ruồng rẫy được:
Với Cúc Hoa thì luôn gắn bó thủy chung:
Nếu bạn là một người có tình cảm sâu nặng với người mình yêu quí có thể đánh đổi cả tính mạng mình cho họ chắc cũng sẽ vô cùng xúc động với tiếng hát của anh chàng hát cho Cúc Hoa nghe khi nàng gặp tai nạn phải nằm viện:
Tôi chắc rằng lúc ấy Cúc Hoa, vợ anh chắc xúc động lắm và quên đi thân xác đang chịu nhiều đau đớn tổn thương. Chắc những lúc ấy anh và người bạn đời lại nhớ về Đà Lạt, được đi dạo cùng nhau trên những dốc sương mù thời hai kẻ mới yêu nhau:
Ngoài cái tình với người bạn đời Cúc Hoa, trong thơ Phạm Cao Hoàng ta còn bắt gặp cái tình khác cũng không kém phần thắm thiết, gắn bó đó là tình bạn. Chính cái tình chân thật, sôi nổi trước sau như một đã làm hồn thơ của anh thêm sâu nặng và thơ luôn truyền tải thông điệp buồn vui muốn được san sẻ cùng bạn bè thân quen của mình:
Trong bài Mây trắng gởi tặng nhà thơ Trần Huiền Ân anh thố lộ:
Còn niềm vui nào bằng
nơi quê người còn gặp lại bạn bè qua bao dâu bể của thời cuộc:
Từ khi định cư ở nước ngoài, dòng thơ Phạm Cao Hoàng lại có thêm một chủ đề mới, đó là tình hoài hương.Ta hãy lắng nghe tâm sự của anh trong bài tùy bút: “Tuy Hòa, một thời để nhớ” để hiểu được nỗi niềm thầm kín của chàng “hàn sĩ”:“Bước giang hồ tưởng đã dừng lại, nhưng rồi tôi lại ra đi, và lần đi nầy là biền biệt. Tôi trôi dạt về Đơn Dương, Đức Trọng, Đà Lạt; cho đến một ngày tôi phải làm chuyến đi xa nhất của đời mình. Trong hành trang mang theo ngày tôi rời đất nước có những giọt sương của cao nguyên Lâm Viên, có tiếng sóng biển của Qui Nhơn, có tiếng gió biển của Phan Thiết, và có mây khói của Tuy Hòa mà một thời đã làm nhẹ bước chân tôi.”
Tôi còn nhớ đã sử dụng bài thơ nầy trong một truyện ngắn đăng trên Thư Quán Bản Thảo, anh có đọc và gởi mail cho tôi xin bản pdf để đăng trên trang web PCH như một kỷ niệm cho vui.
Tình hoài hương luôn canh cánh trong long làm thơ anh trở nên tha thiết nhưng không ủy mị yếu đuối, anh viết cho người thân ở quê nhà nhưng thật ra là anh viết cho chính mình:
Lại thêm một lần
xót xa khi phải rời Đà Lạt:
Có gì đó là ta muốn rơi nước mắt, khi ở quê người lại quay quắt nhớ thương, Khi trở về nhìn cảnh cũ lại bịn rịn không muốn bỏ đi, rời xa. Đọc thơ Phạm Cao Hoàng ở giai đoạn nầy làm tôi bắt chợt nhớ tới mấy câu thơ trong bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm mà bùi ngùi quá đổi:
Viết về Phạm Cao Hoàng, xin được gởi đến các bạn một vài nhận xét chân tình của bạn bè thân hữu nói về anh. Nguyễn Minh Nữu có nhận xét: “...thơ Phạm Cao Hoàng vẫn giữ nguyên thần sắc nhẹ nhàng, sâu lắng và đôn hậu như chính con ngưười anh. Trong thơ, Phạm Cao Hoàng ghi nhận được thiên nhiên kỳ thú bằng cái nhìn mới lạ và tìm ra mối liên quan bất ngờ đầy sáng tạo giữa thiên nhiên và tâm hồn nhạy cảm riêng mình.”(Từng có một thời), còn họa sĩ Trương Vũ với cái nhìn của kẻ cầm cọ thì: “Thơ PCH có nhạc. Lời thơ chơn chất nhưng vẫn luôn bàng bạc nét cao sang trầm lặng của một tâm hồn đẹp...”(Thơm mãi mùi hương), nhà văn Hồ Đình Nghiêm lại có cái nhìn rất riêng: “...Tôi xin được cám ơn nhà thơ Phạm Cao Hoàng vừa trao gởi cho tôi một ít đất đai thu giấu trong phong bì vàng, mở ra nghe dậy mùi thơm hoàng thổ. Hoàng thổ có thể là ám danh của ngày xưa Đà Lạt, hoàng thổ là đất vàng và hoàng thổ cũng nên hiểu là giọng thơ chân chất hiền lành của người tên Hoàng, Phạm Cao Hoàng...”(Đất hoàng thổ), Nguyễn Xuân Thiệp thật công tâm: “ Đọc thơ Phạm Cao Hoàng, ta thấy tâm hồn anh thật nhân hậu, bao dung và độ lượng, luôn mở rộng đón nhận những âm vang của đất trời. Ở Phạm Cao Hoàng, không có sự ganh ghét, thù hận hay ra vẻ trí thức triết lý với đời. Đọc thơ Phạm Cao Hoàng ta tìm được niềm an ủi trong tình yêu, gia đình, bạn bè, quê hương đất nước và cuộc sống chung quanh mình.”(Phạm Cao Hoàng&Đất còn thơm mãi mùi hương”
Tôi xin được dùng hai câu thơ trong bài “Cũng may còn có nơi nầy” của anh nói lên cái tình anh dành cho quê hương, cho người bạn đời trăm năm, cho những bạn bè thân yêu như một cái kết về thơ Phạm Cao Hoàng vậy.
Từ khi định cư ở nước ngoài, dòng thơ Phạm Cao Hoàng lại có thêm một chủ đề mới, đó là tình hoài hương.Ta hãy lắng nghe tâm sự của anh trong bài tùy bút: “Tuy Hòa, một thời để nhớ” để hiểu được nỗi niềm thầm kín của chàng “hàn sĩ”:“Bước giang hồ tưởng đã dừng lại, nhưng rồi tôi lại ra đi, và lần đi nầy là biền biệt. Tôi trôi dạt về Đơn Dương, Đức Trọng, Đà Lạt; cho đến một ngày tôi phải làm chuyến đi xa nhất của đời mình. Trong hành trang mang theo ngày tôi rời đất nước có những giọt sương của cao nguyên Lâm Viên, có tiếng sóng biển của Qui Nhơn, có tiếng gió biển của Phan Thiết, và có mây khói của Tuy Hòa mà một thời đã làm nhẹ bước chân tôi.”
Tôi còn nhớ đã sử dụng bài thơ nầy trong một truyện ngắn đăng trên Thư Quán Bản Thảo, anh có đọc và gởi mail cho tôi xin bản pdf để đăng trên trang web PCH như một kỷ niệm cho vui.
Tình hoài hương luôn canh cánh trong long làm thơ anh trở nên tha thiết nhưng không ủy mị yếu đuối, anh viết cho người thân ở quê nhà nhưng thật ra là anh viết cho chính mình:
Lại thêm một lần
xót xa khi phải rời Đà Lạt:
Có gì đó là ta muốn rơi nước mắt, khi ở quê người lại quay quắt nhớ thương, Khi trở về nhìn cảnh cũ lại bịn rịn không muốn bỏ đi, rời xa. Đọc thơ Phạm Cao Hoàng ở giai đoạn nầy làm tôi bắt chợt nhớ tới mấy câu thơ trong bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm mà bùi ngùi quá đổi:
Viết về Phạm Cao Hoàng, xin được gởi đến các bạn một vài nhận xét chân tình của bạn bè thân hữu nói về anh. Nguyễn Minh Nữu có nhận xét: “...thơ Phạm Cao Hoàng vẫn giữ nguyên thần sắc nhẹ nhàng, sâu lắng và đôn hậu như chính con ngưười anh. Trong thơ, Phạm Cao Hoàng ghi nhận được thiên nhiên kỳ thú bằng cái nhìn mới lạ và tìm ra mối liên quan bất ngờ đầy sáng tạo giữa thiên nhiên và tâm hồn nhạy cảm riêng mình.”(Từng có một thời), còn họa sĩ Trương Vũ với cái nhìn của kẻ cầm cọ thì: “Thơ PCH có nhạc. Lời thơ chơn chất nhưng vẫn luôn bàng bạc nét cao sang trầm lặng của một tâm hồn đẹp...”(Thơm mãi mùi hương), nhà văn Hồ Đình Nghiêm lại có cái nhìn rất riêng: “...Tôi xin được cám ơn nhà thơ Phạm Cao Hoàng vừa trao gởi cho tôi một ít đất đai thu giấu trong phong bì vàng, mở ra nghe dậy mùi thơm hoàng thổ. Hoàng thổ có thể là ám danh của ngày xưa Đà Lạt, hoàng thổ là đất vàng và hoàng thổ cũng nên hiểu là giọng thơ chân chất hiền lành của người tên Hoàng, Phạm Cao Hoàng...”(Đất hoàng thổ), Nguyễn Xuân Thiệp thật công tâm: “ Đọc thơ Phạm Cao Hoàng, ta thấy tâm hồn anh thật nhân hậu, bao dung và độ lượng, luôn mở rộng đón nhận những âm vang của đất trời. Ở Phạm Cao Hoàng, không có sự ganh ghét, thù hận hay ra vẻ trí thức triết lý với đời. Đọc thơ Phạm Cao Hoàng ta tìm được niềm an ủi trong tình yêu, gia đình, bạn bè, quê hương đất nước và cuộc sống chung quanh mình.”(Phạm Cao Hoàng&Đất còn thơm mãi mùi hương”
Tôi xin được dùng hai câu thơ trong bài “Cũng may còn có nơi nầy” của anh nói lên cái tình anh dành cho quê hương, cho người bạn đời trăm năm, cho những bạn bè thân yêu như một cái kết về thơ Phạm Cao Hoàng vậy.