Nhà
văn cộng tác với Phong Hóa Ngày Nay
Phần
II
Nguyên
Hồng – Trần Tiêu – Bùi Hiển
Từ
năm 1934 trở đi, xuất hiện nhà xuất bản Tân Dân do Vũ Đình Long chủ trương,
phát hành Tiểu thuyết thứ bảy, số đầu tiên ra ngày 2-6-1934, tại Hà Nội.
Hai năm sau ông ra tiếp Ích Hữu (25-2-1936) và Phổ thông bán nguyệt
san (1-12-1936), tạo thành một nhóm văn học quy tụ những tác giả: Nguyễn
Công Hoan, Lê Văn Trương, Nguyễn Tuân, Thanh Châu, Ngọc Giao, Vũ Bằng, Vũ Trọng
Phụng, Tô Hoài, Nam Cao…
Nguyễn
Công Hoan và Lê Văn Trương là hai cây bút chính, tương tự như Khái Hưng, Nhất
Linh bên Phong Hóa Ngày Nay. Theo Thanh Châu, Nguyễn Tuân vào Tiểu thuyết
thứ bảy, từ 1935, với truyện ngắn Vườn xuân lan tạ chủ, Vũ Trọng
Phụng muộn hơn, với truyện Trúng số độc đắc. Truyện ngắn Nghèo,
ký tên Thúy Rư, trên Tiểu thuyết thứ bảy số 158 (5-6-37), có thể là
truyện ngắn đầu tiên của Nam Cao.
Nhóm
Tân Dân được coi như "đối lập" với Tự Lực văn đoàn từ khi có vụ bút
chiến Đoạn Tuyệt – Cô giáo Minh (Phong Hóa số 177, 6-3-36 và số 180,
27-3-36). Trong thời kỳ này, Vũ Trọng Phụng viết Số đỏ, gián tiếp chế
nhạo những cải cách của Tự Lực văn đoàn.
Tuy
nhiên, trên Ngày Nay số 100 (6-3-38), Khái Hưng viết bài phê bình Một mình
trong đêm tối, tiểu thuyết của Vũ Bằng, phân tích những chỗ dở, giả tạo và
khuyên Vũ Bằng nên thay đổi để tiến. Trên Ngày Nay số 212 (15-6-40), Thạch Lam
viết bài Phê bình Vang bóng một thời hết sức khen ngợi tài năng của
Nguyễn Tuân.
*
Bùi
Hiển (1919-2009)
Nằm
vạ của Bùi Hiển là khám phá truyện ngắn
sau cùng của Ngày Nay trước khi nhắm mắt, được Thạch Lam giới thiệu như sau:
"Nằm
vạ
là một hành động rất annam, đặc biệt cho các bà ở nhà quê. Ông
Bùi Hiển, tác giả truyện ngắn đăng dưới đây, đã phác họa rất đúng một vài nhân
vật ở thôn quê: lối viết của ông giản dị và mạnh mẽ, thoáng qua một chút duyên
kín đáo, và có nhiều nhận xét tinh vi. Đó là một bức tranh có giá trị về cảnh
sinh hoạt trong làng xóm".
Đó
cũng là lời giới thiệu tác phẩm cuối cùng của Thạch Lam trên báo Ngày Nay số
224, ra ngày 7-9-1940, số chót.
Nhưng
với Bùi Hiển, là một sự khởi đầu. Khởi đầu một văn nghiệp.
Nếu
Nằm vạ không gửi đến Ngày Nay kịp thời, và không được Thạch Lam đọc và
đăng, có thể ta đã không có nhà văn Bùi Hiển.
Việc
này cũng tựa như việc Dương Nghiễm Mậu gửi truyện ngắn Rượu chưa đủ đến
Bách Khoa, bị vứt vào sọt rác, Mai Thảo lại chơi, nhặt ra, đem về đăng trên
Sáng Tạo, nên chúng ta có nhà văn Dương Nghiễm Mậu.
Bùi
Hiển vào truyện như thế này:
"Chị
Đỏ chợt rùng mình nhẹ, vì thấy buồn buồn ở bụng chân. Và, trong cử động nửa ý
thức của giấc ngủ bị quấy phá, chị rụt chân lại. Cái buồn buồn, chị cảm thấy rõ
rệt nó chạy trên ống chân rồi tới gót thì biến đi."
Một
cách vào truyện lạ lùng, nên người sành văn như Thạch Lam lướt qua là biết ngay.
Cho
tới bấy giờ, người viết thường kể hoặc tả những gì thấy bề ngoài trước đã: thí
dụ chị Đỏ mặc quần áo như thế nào, mặt mũi làm sao, chị Đỏ làm cái này, nghe
thấy cái kia… Chẳng ai đi thám thính sự gì xẩy ra trong thân thể chị Đỏ,
như Bùi Hiển. Một lối viết lạ và rất chì: Tên nhà văn đàn ông này tự nhiên khám
phá ra một con mụ có cái gì "buồn buồn" ở "bụng chân" là
rất kỳ, không thể được, hắn bịa. Mà không! Hắn không bịa! Hắn chỉ chui vào thân
thể chị Đỏ để làm công việc nhà văn! Tức là hắn làm cái mà người ta gọi là
gián điệp nội trùng (agent infiltré) lọt vào lòng địch để rình sự vận hành
của địch. Việc làm của Bùi Hiển hệt như thế: ông lẻn vào trong da thịt chị Đỏ
để thám thính cái thân thể ấy ra sao, làm gì.
"Chị
cựa mình, thân thể đau dần dần khắp cả. Cùi tay mỏi mệt rơi đánh thịch và tuy
vẫn nhắm mắt, chị thu cảm giác về. Chị Đỏ biết mình vẫn nằm trên nền đất, trong
gian buồng hẹp mà mùi ẩm mốc tanh nhạt đọng thành lớp đặc xông lên mũi".
Và
như thế, bắt đầu một phong cách văn chương độc đáo. Sau Đỗ Đức Thu, Nguyên
Hồng, đây là Bùi Hiển!
Số
là, chị Đỏ sau khi bị chồng "xông vào túm lấy vợ trong hai bàn tay sắt,
lôi xềnh xệch vô buồng, đoạn anh ném vợ xuống đất như ném một đống giẻ. Chị Đỏ
bổ nhoài ra, nằm thẳng cẳng như người chết rồi. Anh đạp vào mông vợ mấy cái
đoạn bỏ ra", chị Đỏ bèn nằm vạ.
Sau
cú đạp của chồng, chị Đỏ nằm vạ. Một hành động phản kháng, chống lại
"bạo quyền" của chồng. Hiện tượng nằm vạ chỉ có ở vùng Nghệ
Tĩnh, quê Bùi Hiển, không có ở "xứ" khác.
Chị
Đỏ nằm vạ đến bảy ngày. Cơ sự trở thành nghiêm trọng. Bà mẹ chồng phải
nhờ ông Lý đến phân giải.
Giá
trị truyện ngắn này không chỉ ở chỗ mô tả tài tình cách phản kháng của người
đàn bà Nghệ Tĩnh, mà Bùi Hiển còn sáng tạo ra thứ hiện thực xã hội nội trùng,
như tôi vừa nói ở trên, tức là ông không giữ vị trí đứng ngoài mà tả, ông chui
luôn vào da thịt chị Đỏ, để biết "tình hình" bên trong của chị ta:
ông thấy được cái buồn buồn ở bụng chân chị Đỏ và còn biết cái buồn
buồn ấy nó chạy trên ống chân rồi tới gót thì biến.
Trong
bảy ngày chị nằm vạ, tác giả theo dõi "từ trong ra ngoài" không sót
một ly và biết chị đã trải qua những trạng thái như thế nào: nằm vạ nhịn đói
hai hôm, thì thân thể "rã rời, xương mền thịt nhão ngón tay co
quắp", mà thằng chồng vẫn tỉnh bơ không thương xót, còn dọa dẫm nữa.
Bên ngoài, bọn chúng (chồng và mẹ chồng) vẫn xào xáo thơm phức, cơm cơm nước
nước, mà mình bụng rỗng. Đợi lúc chị chết, quan về khám xét án mạng, chúng sẽ
biết tay.
"Chị
cựa mình, quay nghiêng, vì trong dáng diệu nằm ngửa, da bụng bị căng ép lên dạ
dày trống rỗng, như một hòn đá nặng. Chị nằm co như con chuột chết, bụng thóp
lại. Mắt mở trân trân dán vào một vuông sáng". Chính nhờ cái vuông
sáng này chị nhìn thấy một chú chuột nhắt, chị bèn theo dõi lối đi về của
y, chặn đường, cướp giật được miếng khoai khô trong miệng y, đút vào mồm. Ngon
tuyệt. Chị quờ thấy cái choé nằm trong bóng tối, kho lương của y, thế là bắt
chước y, chị cũng ăn vụng. Có phương tiện "sống còn", chị càng ra
gan, tiếp tục cuộc đấu tranh, mụ già lo sốt vó đến lạy lục ông Lý từ mấy hôm
nay. Mấy ngày sau, lão Lý mới hạ cố đến nhà, hỏi:
"-
Rứa mụ muốn hai bên li dị hả?
-
Bẩm không! Bẩm không! Là tui trình rứa để làng biết cho rứa thôi".
(Đời
nào mụ thả đứa con dâu làm hùng hục như trâu bò suốt ngày).
Anh
Đỏ bước ra rót nước. Thấy anh mặc chiếc áo dài ngày cưới, mắc cười quá, chị
nhịn không nổi, anh cũng ngượng nghịu cười theo. Ông Lý phán:
-
Ừ, anh ả cười ví nhau rồi đó tề! Cần gì ai phân xử nữa!"
Đằng
sau truyện ngắn dí dỏm thâm thuý này là cả một lối sống, một "bản sắc dân
tộc" của người miền Trung, qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và miêu tả kiểu
gián điệp nội trùng của Bùi Hiển.
Hiện
thực Bùi Hiển hóm hỉnh mà sâu sắc, đặc biệt lối Nghệ Tĩnh, khác với lối lý luận
có duyên thầm của Phan Khôi, khác lối trào phúng bộc trực Bắc hà của Hoàng Đạo,
thâm thúy hơn Nguyễn Công Hoan, nhưng sau này Bùi Hiển nói học thầy Nguyễn Công
Hoan, một sự lạ kỳ vì học trò đã vượt thầy một bực, từ khi bắt đầu viết văn.
Bùi
Hiển sẽ cùng với Đỗ Đức Thu, Nguyên Hồng trở thành những kiện tướng trong nền
văn xuôi Việt Nam.
*
Trần
Tiêu (1899-1954)
Trần
Tiêu là em ruột Khái Hưng, bắt đầu viết trên Phong Hóa từ số 18 (20-10-32)
truyện ngắn Cái bánh ngọt. Rồi ngừng. Bốn năm sau, mới xuất hiện lại
trên Ngày Nay số 25 (3-9-36) với truyện ngắn Ai ơi chớ phạt trẻ thơ. Cả
hai truyện này đều tầm thường. Hai tháng sau có truyện vừa Dưới ánh trăng
sáng tác chung với Khái Hưng[1], vượt trội hẳn, cấu trúc chặt chẽ,
văn phong điêu luyện, đúng là Khái Hưng viết, truyện một cô gái quê, bị người
anh họ, ở Hà Nội về chơi, quyến rũ, có mang, rồi bỏ.
Sau
khi chiếm hữu người con gái, Văn tỉnh mộng ngay.
"Văn
rón rén đến bên giường, vén màn đứng ngắm Tẹo: Cái đẹp mơ màng, ngây thơ đã
biến mất. Chàng chỉ thấy Tẹo giống hệt các cô gái quê khác, thô lỗ, đần độn,
ngu ngốc. Cặp mắt mở trắng dã như nhìn thẳng vào mặt chàng, cái miệng há hốc
thở phì phò, một giòng nước bọt chảy từ một bên mép xuống khăn giải giường.
Chàng cáu tiết, gọi:
-
Tẹo!"
Phải
có kinh nghiệm của Khái Hưng mới mô tả được sự tàn nhẫn của kẻ sở khanh như
thế: cái xấu ở đây không phải là diện mạo xấu xa của cô gái quê, ngủ mê mệt sau
khi làm tình, mà ở trong con mắt sở khanh của Văn, trai thanh Hà Nội, sau khi
thoả mãn nhục dục, trở mặt, nhìn người em họ mà trước đó, y cho là đẹp ngây thơ
tuyệt diệu; nhưng chiếm đoạt rồi, trở thành quê kệch ghê tởm. Lợm hơn nữa, y
dúi vào tay cô em năm đồng bạc, còn nói: "Năm đồng chứ không phải một
đâu!" Sau khi Tẹo về, "Văn bĩu môi ghê tởm nghĩ thầm:"Nó
chỉ thích tiền!". Những khốn nạn của Văn, cộng hưởng với sự tàn bạo
của cha mẹ và làng xóm, đã đẩy Tẹo đến chỗ huỷ hoại thân mình.
Sau
đó, truyện ngắn Bức thư tuyệt mệnh của Trần Tiêu đăng trên Ngày Nay số
47 (21-2-37), là bức thư của một người đàn bà sau khi lừa chồng, bỏ con, đi
theo tình nhân, bị bội bạc, rơi vào cảnh trụy lạc, chết ở nhà thương thí.
Truyện này vào loại trung bình.
Truyện
vừa Sau lũy tre đăng trên Ngày Nay từ số 76 (12-9-37) đến số 77, 78 và
79, mới thực mở đầu sự nghiệp của Trần Tiêu như một nhà văn chuyên viết về
thôn quê, và cũng là nhà văn duy nhất của Phong Hóa Ngày Nay, viết về chủ
đề này. Khái Hưng đã viết chung với Trần Tiêu, như ông đã từng viết chung với
Nhất Linh buổi đầu, để dẫn cách vào văn chương. Rồi ông lại khuyến khích Trần
Tiêu chọn địa hạt thôn quê, chưa ai viết. Lời giới thiệu ký Ngày Nay, có lẽ của
Khái Hưng, như sau:
"Sau
lũy tre" là một cảnh đời của dân quê, người ta nói đến luôn mà không biết
rõ. Các nhà văn ta chỉ ưa ca tụng cái tính mộc mạc hay ngây thơ của các cô thôn
nữ, hay ngợi khen những vẻ đẹp của cánh đồng ruộng lúa. Chưa có ai suy xét tâm
lý, tách bạch những ý nghĩ, tư tưởng và mong ước của các tâm hồn ấy.
Bằng
một lối văn giản dị, với những điều quan sát đúng, tác giả "Sau lũy
tre" rất khéo tả những giáng [dáng] điệu, tính tình của các hạng
người đặc biệt nơi thôn ổ, làm cho họ hoạt động dưới mắt người đọc."
(Ngày Nay số 76).
Anh
Chính là con bác cả Bật. Cạnh nhà bác Bật là nhà bác khán Bún có cô con gái tên
Diếc. Chính lấy Diếc làm vợ. Vợ chồng Chính làm ruộng, căn cơ, có của ăn của
để. Nhưng từ khi dồn tiền mua chức xã, rồi chức lý, để cho có vai
vế trong làng, khỏi bị ức hiếp, thì bao nhiều vốn liếng, ruộng đất, trôi dần
vào cỗ, lễ, xôi thịt, gia đình khánh kiệt, nghèo đói.
Lũy
tre xanh là dàn bài, sẽ được mở rộng thành truyện dài Con trâu,
bắt đầu in trên Ngày Nay, một năm sau.
Con
trâu
Xuất
hiện sau Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Con trâu của Trần
Tiêu in trên Ngày Nay từ số 140 (10-12-38) đến Ngày Nay số 168 (1-7-39), là
cuốn tiểu thuyết hiện thực xã hội đầu tiên về đời sống dân quê, trên
Ngày Nay.
Tác
phẩm viết về sinh hoạt hàng ngày của gia đình bác Chính, ở làng Cầm. Trong lời
giới thiệu Con trâu, ký N.N. có lẽ vẫn do Khái Hưng viết, có câu:
"Làng
Cầm trong truyện "Con trâu" của ông Trần Tiêu là một làng ở vùng bể,
có lẽ chính làng tác giả, một làng đã sản xuất ra nhiều danh sĩ về thời Trần,
thời Lê, thời Mạc.
Xem
truyện "Con trâu" độc giả sẽ thấy cái làng văn vật ấy vẫn như còn
chôn sâu trong thời xưa với những phong tục và nhân vật bất di bất dịch"
(Ngày Nay số 140)
Vậy
chữ Cầm chính là hai chữ Cổ Am viết gọn lại. Và cái xã hội thôn
quê được mô tả trong truyện, chính là xã hội Cổ Am của hai anh em Khái Hưng,
Trần Tiêu.
Biết
thế, ta mới hiểu tại sao Trần Tiêu không phê phán mà chỉ trình bày cho chúng ta
thấy, và chính ở sự không phê phán, không đấu tranh, mà Con trâu có một
giá trị khác với những tác phẩm tranh đấu, thường được gọi là hiện thực phê
phán, cùng thời.
Điểm
thứ hai, là con quan, nhưng Trần Tiêu phải sống sát, sống sâu, với quần chúng
bình dân trong làng lắm mới có thể miêu tả họ sâu sắc như vậy.
Con
trâu
không có truyện gì cả, chỉ là cuộc sống hàng ngày của một gia đình, trong ngôi
làng miền Bắc mà ta biết là Cổ Am: Bác Chính nghèo lắm, công nợ ngập đầu, phải
đi cấy thuê nuôi gia đình. Nhưng trong thâm tâm bác lúc nào cũng chỉ mơ tưởng
có tiền mua một con trâu cho riêng mình để làm ruộng, không phải thuê
trâu người khác. Vậy mà khi có tiền, bác lại không mua trâu, mà
mua xã. Và đó là nguồn gốc băng hoại của gia đình bác Chính, cũng là của
dân quê miền Bắc, dân quê Việt Nam.
Lý
do như sau:
"Sao
bác giai chịu bỏ ra băm nhăm đồng bầu xã mà lại không để tiền tậu ngay con trâu
cái, con trâu cái mà bác hằng mơ tưởng bấy lâu? Đó cũng là sự vạn bất đắc dĩ.
Bác năm nay đã hơn bốn mươi tuổi đầu mà động có rước là bác phải ra cầm tán hay
khiêng kiệu với bọn mục đồng; động có quan về là bác phải thân ra dọn đường,
dẫy cỏ dưới con mắt hỗn xược của một anh quản xã chỉ nhớn bằng chạc [trạc]
con bác. Động có viêc gì nặng nhọc là đến tay bác. Trăm nghìn sự thiệt thòi
đổ dồn cả xuống đầu bác và đầu những kẻ bạch đinh như bác.
Lại
còn một nhẽ nữa: bác đi đến đâu cũng bị người ta chế riễu, khinh bỉ. Họ cho bác
là keo kiệt, coi đồng tiền hơn phẩm giá. Bác động mở mồm là họ đã chặn họng:
"Còn danh giá gì cái thằng bạch đinh mà cũng ăn với nói!"
(Ngày Nay số 143).
Trần
Tiêu không phê phán sự mua xã của bác Chính mà ông giải thích tại sao bác không
mua trâu mà lại mua xã. Cách viết của ông thật thà, có thể thiếu nghệ thuật,
nhưng rất khác các nhà viết tiểu thuyết hiện thực đương thời: họ thường mô tả
cảnh nghèo khổ cùng cực một gia đình bên cạnh sự bóc lột của cường hào ác bá,
để chỉ tội bọn này (nhiều khi quá đáng) như Ngô Tất Tố trong Tắt đèn. Trần
Tiêu không "đánh" ai, cũng không đả phá cái gì, ông đào sâu vào cuộc
sống của dân quê làng ông, từ bọn mục đồng, bọn lý, xã, đến các cụ tiên chỉ, để
hiểu sự vận hành trong hệ thống xã hội làng xã ở ta. Ví dụ: về việc mua xã, của
Chính, Trần Tiêu không chỉ trích mà còn coi hành động này là thiết thực, phải
làm, không thể tránh được, khác cả những bài viết của Tự Lực văn đoàn lên án
việc mua nhiêu, mua xã như một hành động ngu si, hám danh hám lợi.
Quan
điểm của Trần Tiêu về dân quê khá rõ: ông chỉ ra những thói tục hủ lậu của
người dân, nhưng đứng vào địa vị của họ để hiểu hành động của họ. Khiến cho,
khi ta đã thấy rồi, lại càng thương họ hơn và càng muốn thay đổi. Cách tranh
đấu của Trần Tiêu là thầm lặng, lặn xuống chiều sâu cuộc sống dân quê để hiểu.
Ông đưa ta vào đời sống hàng ngày của người dân làng ông qua những buổi hát
đúm, gặt lúa, gieo mạ, các dịp lễ tết, cỗ mừng thôn, hội quan lão… không bỏ sót
chi tiết nào. Một nhà xã hội học, muốn khảo sát đời sống dân quê Việt Nam giữa
thế kỷ XX, khó có thể bỏ qua tác phẩm của Trần Tiêu.
Anh
Chính, sau trở thành xã Chính, rồi lý Chính, mà thực chất đời sống vẫn không
khá hơn thằng Chính bạch đinh, chỉ thêm việc đình đám, việc họ, việc làng… càng
phải tham dự tích cực hơn vì đã có danh có chức: xã Chính, lý Chính, chức càng
cao, càng lún sâu vào nợ nần đói khổ, thêm các thiên tai hạn hán; càng phải
gánh vác việc làng, cỗ bàn, hầu hạ các cụ tiên chỉ, càng phải cày bừa thêm… cho
đến lúc kiệt sức, chết đi, trong lòng vẫn còn mơ đến con trâu cái
chưa bao giờ có được.
Chồng
con viết sau khi Ngày Nay đóng cửa, ngòi bút sống động hơn, dấn
thân hơn, Trần Tiêu mô tả gia đình xã Bổng, người chồng không được tích sự gì
ngoài việc cờ bạc, tính tình có những nét tiêu cực, tức cười, của người đàn ông
miền Bắc:
"Xã
Bổng, từ hôm vợ đẻ, không dám bén mảng vào trong buồng. Hắn sợ bẩn, sợ hôi hám
chăng? Không, hắn sợ đứa bé. Ở đời, hắn sợ nhất chuột con đỏ hỏn rồi đến những
đứa bé mới đẻ"[2]
Chị
xã Bổng, người phụ nữ nông thôn miền Bắc suốt đời cần kiệm, làm ruộng, dệt cửi
nuôi mẹ chồng, chồng và ba con. Ở đây không có chuyện mẹ chồng nàng dâu, mà là
tình yêu hòa hợp: mẹ chồng thương nàng dâu vất vả, giận con trai hư hỏng, không
được tích sự gì.
Chị
Bổng chỉ có cái khung cửi, nhưng làm việc đến tàn canh:
"Mẹ
chồng nàng tỉnh giấc vẫn thấy nàng dệt, liền hỏi:
-
Chưa đi ngủ cơ à con?
-
Con dệt nốt dăm chỉ này nữa thôi ạ.
Nàng
vừa rời khung cửi thì gà gáy. Nàng vươn vai ngáp: "Quanh quẩn đã gần sáng
rồi, chóng thật!"[3]
Chỉ
có cái khung cửu mà chị đã mua cho chồng: từ xã, đến lý, mua cả quan tài gỗ
vàng tâm cho mẹ chồng, đóng tiền cho mẹ chồng vào hội Phật giáo trước khi quy
tiên.
Hai
người con gái, tiếp tục phận bạc của mẹ: Cái Hĩm, bị người cha cờ bạc, tham 50
đồng tiền đút lót của nghị Ích, ép phải làm lẽ ông ta. Ngày cưới, Hĩm gào khóc
van xin: "Cháu cắn cỏ cháu lạy thím, cháu không bằng lòng lấy người ta
đâu. Thày bu ơi! Thày bu không thương con với, thầy bu!"[4]
Cưới
đã hơn một năm mà bà lý Bổng không biết tin con, bà lặn lội đến thăm, vợ chồng
nghị Ích đóng cửa không tiếp. Hĩm bị vợ cả và hai cô con chồng hành hạ tàn
nhẫn, trốn về nhà, rồi đi biệt Cẩm Phả với anh người làm nhà nghị Ích. Bà lý
vừa giận con làm nhục nhã nhơ nhuốc cho thanh danh nhà bà, vừa phải bồi
thường một trăm hai mươi đồng lễ cưới. Đem tiền đến trả tận nhà, bà mới thấy
mặt nghị Ích lần đầu: "Bà đã giáp mặt ông nghị, bà đã thấy ông nghị của
con bà già chẳng kém gì chồng bà, bà đã thấy mặt bà nghị quăm quắm như mặt diều
hâu, bà đã thấy hai cô con gái ông nghị dữ tợn và to béo như lợn ỷ. Hĩm lọt vào
nhà ấy như con chuột sa vào cũi mèo. Thế thì Hĩm chịu sao nổi mà chả phải trốn
đi."[5]
Đớn
đau vì Hĩm, bà lý gả Sồi, đứa em, cho một người nghèo. Nhưng Sồi cũng không
thoát khỏi định mệnh. Theo chồng đi làm ăn ở tỉnh, ngày sinh con đầu lòng, Sồi
sợ, không dám vào nhà thương, vì ghe đồn vào nhà thương sẽ bị mổ bụng; Sồi đòi
về quê chồng sinh con. Về đến nhà, người anh chồng kiêng, không cho đẻ ở nhà sợ
xúi quẩy, đuổi hai vợ chồng ra cửa. Sồi chết ở quán bên đường vì băng huyết.
Con
trâu
và Chồng con của Trần Tiêu là hai tiểu thuyết hiện thực sâu sắc về cuộc
sống dân quê làng Cổ Am, với những u mê, tập tục nhiều đời dồn lại, biểu hiệu
đời sống làng quê đất Bắc, giữa thế kỷ XX, cũng giống như Nhốt gió và Rừng
mắm của Bình Nguyên Lộc sau này, miêu tả đến cốt lỗi những khó khăn, gan dạ
của những người di dân, lấp sông, bồi đất, lập nên vùng đất mới Nam bộ.
*
Nguyên
Hồng (1918-1982)
Nguyên
Hồng là nhà văn bẩm sinh. Đi tù từ 14 tuổi; gần ba năm sau ra tù, viết văn từ
16, 17 tuổi, tiểu thuyết đầu tiên là Bỉ vỏ.
Bỉ
vỏ[6]
đoạt
giải tiểu thuyết phóng sự của Tự Lực văn đoàn năm 1937. Hai tháng sau khi phát
giải, Ngày Nay bắt đầu đăng các tác phẩm của Nguyên Hồng, từ đầu năm 1938 đến
đầu năm 1939, có những bài sau đây:
Tết
trong trại "trẻ con" (ký), Cơm tây… một xu (phóng
sự), Tại sao tôi viết Bỉ vỏ (tự thuật), Hai nhà nghề (truyện
ngắn); Khương Hữu Tài diễn thuyết (về truyện Kiều) (tường thuật); Những
ngày thơ ấu (tự truyện) và Tết của người đi đầy (ký)[7].
Bài
đầu tiên là bút ký Tết trong trại "trẻ con", sau này trong hồi
ký ông cho biết, đó là bài viết đầu tay của ông. Sau đó, là hai bài: phóng sự Cơm
tây… một xu và bài tự thuật Tại sao tôi viết Bỉ Vỏ. Bẵng đi bốn
tháng không thấy bài Nguyên Hồng trên Ngày Nay; tôi chắc thời kỳ này, Khái
Hưng, Thạch Lam "bắt" Nguyên Hồng phải viết lại Bỉ vỏ, tới 5
lần, để in thành sách, như lời Nguyễn Thạch Kiên kể lại sau đây:
"Hiện
chúng tôi giữ trong tay "kỷ vật đầu tay"[8]
này của Khái Hưng và cả cuốn "Hồn Bướm Mơ Tiên" tái bản năm 1939 nữa.
So sánh hai cuốn sách, tỉ mỉ đối chiếu từng trang, từng đoạn, người đọc sẽ nhận
ra ngay sự cần cù, nhẫn nại, nhiệt tình với nền văn học Việt Nam của riêng Khái
Hưng cũng như chủ trương chung của Tự Lực văn đoàn.
Điểm
"cần phải giúp đỡ các nhà văn trẻ", ngoài Khái Hưng ra còn có các nhà
văn Thạch Lam và Hoàng Đạo cùng các thành viên khác, trong Tự Lực Văn Đoàn, góp
ý kiến, sửa chữa, nêu những ưu khuyết điểm cho tác giả rõ và đề nghị tác giả bổ
sung, sửa lại cho thật hoàn chỉnh (Xin đọc bài của Đinh Hùng "Chia ngọt sẻ
bùi…" có in trong tuyển tập này).
Cuốn
tiểu thuyết "Bỉ vỏ" của Nguyên Hồng là một thí dụ. Tác giả phải sửa
đi sửa lại tới 5 lần mới được Đời Nay cho xuất bản. Nhờ đó mà tập truyện ngắn,
cuốn thứ hai của Nguyên Hồng nhan đề "Những ngày thơ ấu" -cũng do Đời
Nay xuất bản- đã như một "Khúc ca chiến thắng vinh danh nhà văn sĩ",
nơi lòng các độc giả mến mộ Nguyên Hồng.
Công
lao ấy nhờ ở cái nhìn sáng suốt, bộ óc tế nhị và cái tài "tay tiên gió táp
mưa sa" của Thạch Lam cũng như của Khái Hưng, mới thành."[9]
Tôi
không tìm được bài "Chia ngọt sẻ bùi…" của Đinh Hùng, và
cũng không thấy bài này in trong tập Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, như
Nguyễn Thạch Kiên đã ghi, nhưng tin những điều ông viết trên đây là đúng.
Tết
trong trại "trẻ con"
Là
bài viết đầu tiên của Nguyên Hồng được đăng trên Ngày Nay số 96 (30-1-38) số
Xuân, thuật lại cảnh Tết trong trại tù "mi-nơ"[10] mà ông đã trải qua trong gần ba năm
từ 14 đến 16 tuổi. Theo lời giới thiệu của Ngày Nay và Nguyên Hồng cũng kể lại
trong hồi ký, toà soạn có cắt đi vài đoạn (chắc chỉ giữ phần hay nhất). Bài ký
ngắn này cho thấy bút pháp độc đáo của Nguyên Hồng và hiểu tại sao ông hướng về
những đứa trẻ bụi đời và cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông viết về thế giới trộm
cắp, vì ông là một thành phần của xã hội đó:
"Tôi
hồi hộp trông ngóng được gọi ra truyện trò và nhận quà bánh của mẹ tôi hay em
tôi (…)
Có
hai đứa cũng buồn rầu và yên lặng như tôi. Một thằng bị bốn tháng, án rượu. Nó
mới 10 tuổi, ngây ngô, dại dột và dễ sai bảo hơn ai. Thằng "vỏ" [ăn
cắp] nào cũng có thể ăn chặn phần thịt của nó được. Nó không bao giờ dám nói
chuyện, hay cười góp với chúng tôi. Còn nhớ một lần, tôi nghe thấy nó hát se sẽ
ở dưới gầm sàn, thì câu hát lố lăng hết sức, riêng của tụi chăn trâu cắt cỏ ở
nhà quê:
Cào
cào giã gạo tao xem,
Sáng
mai tao may quần đỏ, áo đen cho mày.
Và:
Cái
cò mày mổ cái mâm,
U
ơi, u lấy vợ đầm cho tôi.
Thằng
thứ hai, mang thuốc phiện cho chủ bị bắt rồi bị tù: 9 tháng. Nó 14 tuổi, mặt
rỗ, lúc nào cũng nhăn nhó, môi dưới chẩy sễ [xễ] như mếu. Nó
bồ côi cha mẹ từ thuở lên hai, nhưng nó cũng hy vọng có người vào phép cho nó:
anh chủ nhà buôn thuốc phiện lậu nhận nó làm con nuôi kia (…)
Nặng
chĩu trên xác thịt và tâm hồn tôi lúc bấy giờ là những sức đè nén của sự tủi
nhục, hối hận, thương nhớ lần đầu tiên mãnh liệt nhất trong đời thơ ấu". (Ngày
Nay số 96)
Lúc
đó Bỉ vỏ chưa in thành sách, người đọc chưa biết Nguyên Hồng là ai,
nhưng bài ký ngắn này cũng làm ta giật mình: câu hát vớ vẩn của thằng tù nhân
mười tuổi: U ơi, u lấy vợ đầm cho tôi, bắn trúng tim ta, nó là hồng tâm
của tủi nhục, là tiếng nói của đứa bé bị bỏ rơi thăng hoa thành ca dao, pha
trộn những yếu tố hài hước, tự trào của dân tộc bị trị, đầy ham muốn không được
thoả mãn, kết tinh trong lời hát của thằng lỏi du đãng lên mười.
Cách
viết tự nhiên và bộc trực này đã có đầy đủ những yếu tố nghệ thuật, là lối hiện
thực xã hội đớn đau hai chiều: vừa mô tả bức tranh hiện thực, vừa nói lên thực
trạng lầm than nằm sau bức tranh. Và Nguyên Hồng sẽ trở thành ngòi bút hiện
thực xã hội có tầm vóc nhất trong văn học Việt Nam.
Bài
ký này mở đầu cho tự truyện Những ngày thơ ấu, tác phẩm thứ hai mà cũng
là chính yếu, qua đó ta biết được "cuộc đời đích thực" của Nguyên
Hồng:
Cha
chết năm 13 tuổi, mẹ vụng trộm đi bước nữa, đứa bé sống với bà nội và các cô,
bị ghét bỏ, phải tự kiếm tiền nuôi mình bằng nghề đánh đáo, vì thầy giáo ác
nghiệt, bỏ học, đi lang thang, ắn cắp và vào tù.
Cơm
tây… một xu
Là
một phóng sự rất ngắn, in trên Ngày Nay số 97 (18-2-38), làm lộ rõ hơn nữa nghệ
thuật hiện thực độc đáo của Nguyên Hồng, chỉ qua mấy dòng đầu:
"-
Cha mẹ ơi! Hai xu hai đồng "đồng bảo đại" mà mẹ bán rệu ra như thế
này à?
Nói
đoạn, thằng cha khoác cái khố tải bện với hai chiếc chiếu ấy thọc liền tay vào
chiếc gáo dừa, khêu lên từng miếng một:
-
Này, sáu khoai, bốn thịt gà, ba cà-rốt và một bánh tây.
Rồi
nó dí mũi xuống gáo hít sìn sịt:
-
Mà đã chua cả rồi!
Cả
một tạ xương thịt của mụ hàng ngồi lún hẳn chiếc chõng rung lên, miệng mụ quạc
ra rõ thật dài như chiếc gầu giai buột cạp, và cánh tròn như ống bương của mụ,
nhanh như chớp, giật lấy gáo thức ăn nọ:
-
Thôi chua không ăn được thì đổ mẹ vào đây. Bà tống cho lợn.
Đoạn
mụ đưa ngón tay trỏ vét tròn một lượt là chiếc gáo nhẵn quẹn, không còn lấy một
tí khoai dính lại.
-
Con ba xu bà!
Tiếng
nói như mếu máo ấy, không biết của ai.
-
Con hai xu một đồng bà!" (Ngày Nay số 97)
Đó
là một hàng cơm… Tây, đông khách, bán thứ xúp một xu cho ăn mày, có cả khoai
tây, thịt gà, thịt bò, cà-rốt, rau cần và bánh tây. Mụ chủ chỉ thầu có một món
hẩu lốn, độc nhất vô nhị này. Đó là đồ ăn của hơn bốn trăm lính Tây ăn thừa,
thải ra, tống vào hai ba cái thùng sắt tây, để ít ra đã một buổi, bắt đầu chua.
Mụ này được gọi là "bà chủ thầu nước gạo trong trại lính",
mụ mua về, bán lại. Thực khách của mụ chen chúc vòng trong, vòng ngoài, xô đẩy
nhau, đứa này chưa kịp chìa ống bơ đã bị đứa kia sấn lên cướp trước. Mụ chủ
nghiến răng thét:
-
Ăn cướp đây! À! chúng mày định ăn cướp hàng bà đây! Séo! Séo!
-
Không bà ơi, bà bán cho con.
-
Bà bán cho con, bà ơi!
Mấy
dòng này hét lên sự thật, xác nhận tài năng hiếm có của Nguyên Hồng: mô tả cuộc
đời những đứa bé, mới tí tuổi đầu đã trải ba kiếp ăn mày:
-
Bản thân chúng làm nghề ăn mày: ăn mày cấp một.
-
Chúng đứng sắp hàng van xin mụ chủ thầu nước gạo bán thí cho lon xúp: ăn
mày cấp hai.
-
Thứ xúp thiu chúng mua, là sản phẩm ăn xin lính Tây thải ra: ăn mày cấp ba.
Mấy
ai có thể tả được đến ba lần cấp độ ăn mày như thế trong một cảnh? Về
nồng độ hiện thực, Nguyên Hồng đông đặc gấp ba người khác. Chữ tây xuất
hiện ở đây, rất tự nhiên, như bánh tây, lính tây, không ai nghi
ngờ đến sự cướp nước. Cả ba chữ đồng bảo đại cũng hết sức tự
nhiên, nó chỉ định tình trạng mất nước. Dù hôm nay, có ai đọc được bài
phóng sự này của Nguyên Hồng, cũng vẫn còn thấy thấm thía số phận ăn mày ba
cấp của dân tộc ta, thời ấy.
Những
ngày thơ ấu
Đăng
trên Ngày Nay từ số 133 (22-10-38) đến số 140 (10-12-38), với lời giới thiệu
sau đây của Thạch Lam:
"Người
ta hay dấu diếm và che đậy sự thật, nhất là những sự thật đáng buồn trong gia
đình. Có ích lợi gì không? Những ngày thơ ấu mà Nguyên Hồng kể lại dưới đây,
tôi không muốn biết là có nên hay không; tôi chỉ thấy trong những kỷ niệm cũ
đau đớn ấy, sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại, lạc loài trong
những lề lối khắc nghiệt của một gia đình sắp tàn. Trên những trang mà Nguyên
Hồng viết ra đây, chúng ta thấy nổi lên hình ảnh một người mẹ chịu khổ và âu
yếm, một người mẹ hiền từ mà tác giả nói đến với tất cả tình yêu tha thiết của
người con."[11]
Nhận
xét của Thạch Lam thực là chân xác. Lối viết thâm trầm, thẳng và thực của
Nguyên Hồng sẽ lộ dần ra như một giá trị nghệ thuật chưa từng thấy, trong tập
tự truyện Những ngày thơ ấu. Qua tác phẩm này, ta thấy sự khác thường
trong bút pháp của ông, Những ngày thơ ấu là một tác phẩm tuyệt hay,
nhưng đã không được quan tâm đúng mức. Sau này, trong hồi ký không biết vì lý
do gì, Nguyên Hồng không nhắc đến, hoặc có nhắc nhưng đổi tên khác, tôi sẽ nói
đến ở dưới.
Câu
đầu tiên đã xác định lối viết đặc biệt không che đậy sự thực của Nguyên Hồng:
"Thầy
tôi làm cai ngục, mẹ tôi con nhà buôn bán. Tuổi thầy tôi hơn ba mươi, gấp đôi
tuổi mẹ tôi." (Ngày Nay số133)
Chính
câu này đã khiến Thạch Lam giật mình vì sự thật phũ phàng được trần trụi tung
ra không bao bọc. Khái Hưng đọc văn Thạch Lam có chỗ đã thấy "nổi da
gà" vì Thạch Lam dám viết thật những điều mà ông không dám viết. Thế mà
"cậu Lam" còn phải bái phục "cậu Hồng". Bởi vì Cậu Hồng kể
về bà mình, khơi khơi như sau, trong một màn âu yếm giữa hai bà cháu:
"Một
lần, bà tôi vẫy tôi lại, ôm tôi vào lòng xoa đầu hỏi:
-
Ai đẻ con?
Nhìn
những miếng bánh, kẹo thơm phức trong giấy bóng đỏ ở tay bà tôi, tôi nũng nịu
đáp:
-
Bà đẻ con.
Bà
tôi mỉm cười tát sẽ vào má tôi.
-
Bố mày chỉ được cái hóm thôi. Không phải!
-
Vậy là con cậu, bà nhỉ? (…)
-
Còn cái Quế là con ai?
Tôi
đã hơi cáu vì thèm ăn lắm mà chưa được miếng nào, tôi nghẹo đầu nghẹo cổ phụng
phịu nói:
-
Con không biết!
Bà
tôi sẽ tát vào má tôi:
-
Cái quái đâu! Bố mày, nói đi, rồi bà mới cho.
Nhưng
tôi dại gì chậm nói để mà chậm ăn, liền kéo tay bà tôi – cầm bánh xuống thấp tý
nữa:
-
Em Quế cũng là con cậu.
Nhưng
tôi đã thất vọng. Bà tôi hứ mạnh một cái, đổi nét mặt:
-
Không phải.
Tôi
tức giận đến cực điểm, gắt lên:
-
Chả con cậu là con ai? Không cho con thì thôi! (…)
-
Không phải, cái Quế nó là con thằng…" (Ngày Nay số 133)
Cảnh
này tiêu biểu cho lối viết đặc biệt của Nguyên Hồng khiến ta khâm phục: Ở trên,
ông đã tả hàng cơm Tây của mụ chủ thầu nước gạo thành tình trạng ăn
mày ba cấp của dân Việt. Ở đây, ông tả cảnh bà âu yếm cháu thành một
bản tử hình con dâu mà người bà tuyên án dưới mắt cháu: gieo vào lòng thằng bé sự
nghi ngờ người mẹ mà nó yêu quý nhất cái tội ngoại tình, phản bội. Cái ác
của người bà, người mẹ chồng, ở đây, tàn phũ hơn tất cả mọi hình thức chửi rủa,
đánh đập, vì thế Nguyên Hồng luôn luôn sâu sắc hơn tất cả các tác giả hiện thực
khác cùng thời. Sự thực đáng sợ ông tung ra ở đây không nằm trong câu Thầy
tôi làm cai ngục, mà ở mằn ở màn bà âu yếm cháu, lạ lùng, quái đản này.
Người
mẹ trẻ khốn khổ ấy chỉ có mỗi một "tội" là chiều chiều, khi đội lính
(với anh thổi kèn đẹp trai) đi qua; nàng dắt con ra sân đón "mắt sáng
lên nhìn người thổi kèn và hai gò má ửng hổng khi mắt long lanh của người đàn
ông chiếu tới".
Ngoài
cái nhìn này, nàng không làm gì cả. Bởi vì: "Quế chính là con cậu tôi,
các anh họ tôi, các cô tôi, cả bà tôi và mấy người hàng xóm đều bảo như thế,
sau này người cai kèn đổi đi nơi khác, không biết là ở đâu; mà mẹ tôi càng kính
cẩn hầu hạ bà tôi, càng chiều chuộng thầy tôi và chăm nom anh em tôi. Nhưng từ
ngày ấy, tôi ít thấy hai thân tôi trò truyện vui vẻ với nhau…" (Ngày
Nay số 134).
Mẹ
ông, người đàn bà có hai đứa con với người chồng nghiện hút, bệnh hoạn, gấp đôi
tuổi nàng, qua hai lần gần gụi -mà Hồng biết chắc là chỉ có hai lần ấy thôi- để
thoả mãn đòi hỏi nối dõi tông đường của dòng họ.
Mẹ
ông, nàng sống không tình yêu, không tình dục, trong sự lạnh lùng của người
chồng, sự thù ghét của mẹ chồng và hai cô em chồng.
Mẹ
ông, người con gái ấy, lấy chồng ở tuổi vị thành niên, chưa từng được hưởng một
tia hạnh phúc nào, nàng phải trộm tìm ánh mắt của người lính thổi kèn
đẹp trai qua đường.
Bà
mẹ chồng cũng không làm gì cả, nhưng những câu hỏi vớ vẩn bà rót vào tai thằng
bé cháu còn cay nghiệt hơn các thứ đòn phép tàn ác của các loại mẹ chồng bà
tuần, bà án khác. Bởi vì, bà mẹ chồng này thám thính cả đến ánh mắt của
con dâu, bà là thứ KGB nghiệp chướng, gieo nọc độc nghi ngờ vào đầu đứa cháu
nội, để chia rẽ mẹ con nó.
Nguyên
Hồng không viết Những ngày thơ ấu, để ca tụng những ngày êm đẹp của tuổi
thơ như người khác, mà để ghi lại cuộc đời bất hạnh của người mẹ mà ông yêu quý
nhất, và nói lên những sự thật hãi hùng trong một gia đình có người cha nghiện
hút bệnh hoạn, nướng hết tài sản cho bàn đèn, chết trong lao đờm tủi nhục, chết
trong thói tục hủ lậu, dẫn đến sự tàn tạ của gia đình. Một gia đình bị nô lệ
trong ghen tỵ nàng dâu mẹ chồng, chị dâu em chồng, dẫn tới sự trả thù khốn nạn
của người cô trên đầu đứa cháu mồ côi cha, mới mười ba tuổi.
"Gần
giỗ đầu thầy tôi. Mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về. Trong đó nghe đâu mẹ tôi đi
bán bóng đèn vào những phiên chợ chính, cả vàng hương nữa.
Tôi
nói "nghe đâu" vì tôi thấy người ta bắn tin rằng mẹ tôi sinh nhai
bằng cách đó, và một hôm kia cô tôi gọi tôi đến bên, tươi cười hỏi:
-
Hồng, mày có muốn vào Thanh Hóa thăm mợ mày không? (…)
Tôi
toan trả lời có. Nhưng khi nhận ra những ý nghiã mỉa mai cay độc trong giọng
nói và trên nét mặt tươi cười của cô tôi, tôi cúi đầu yên lặng không đáp.
Vì
tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu tôi những sự
hoài nghi khinh miệt và ruồng rãy một người đàn bà góa chồng, túng bấn và nợ
nần nhiều quá, không thể ở tỉnh nhà nuôi con, đành phải bỏ chúng lại cho bà nội
và cô nó, rồi đi tha phương cầu thực (…)
-
Mày dại quá, cứ vào đi, tao cho tiền tầu.
Vào
mà bắt mợ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ.
Nước
mắt tôi đã ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đià ở cằm và cổ.
Hai tiếng "em bé" mà cô tôi ngọt ngào ngân dài ra cho thật ngọt ngào
rõ ràng quả nhiên đã soắn chặt lấy tâm can tôi như ý cô muốn.
Nhưng
không phải vì thấy mẹ tôi chưa đoạn tang thầy tôi mà đã chửa đẻ với người khác
mà tôi có những cảm giác đau đớn ấy. Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức tại
sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến cổ hủ mà xa lià anh em tôi, để sinh
nở một cách dấu diếm, trốn tránh như một kẻ giết người lúng túng với con dao
đẫm máu của nó. Tôi cười dài trong tiếng khóc, hỏi cô tôi:
-
Sao cô biết mợ con có con?" (Ngày Nay số 136).
Chính
những cái ác nhỏ trong gia đình, từ bà đến cô, chưa kể những ngọn roi dứ để
"khảo của" (tiền đánh đáo) của người cha nghiện ngập, hay hình phạt
tàn bạo của thầy giáo, bắt đứa học trò quỳ trong suốt hai tháng giời, vì một
tội nó không phạm, tất cả đã sản xuất ra đứa nhỏ già trước tuổi, cha chết, mẹ
đi lấy chồng, ở với bà và cô, hành nghề đánh đáo nuôi thân, rồi biến thành du
dãng, vào tù từ tuổi 14, ra tù năm 16, trở thành nhà văn Nguyên Hồng với những
tác phẩm hiện thực cực kỳ nhân bản.
Nguyên
Hồng là một khám phá độc đáo của Tự Lực văn đoàn.
Hiện
thực xã hội ở Nguyên Hồng, sâu sắc và có nghệ thuật hơn tất cả những ngòi bút
hiện thực khác như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Tô Hoài… Đứng cạnh Nguyên
Hồng, các nhà văn này chỉ là những ngòi bút mô tả, đôi khi họ viết được những
đoạn văn sống động, nhưng họ chưa chìm sâu vào mặt trái của con người, lật ra
khía cạnh tối tăm trong một hành vi tốt đẹp, tính nhân bản trong những kẻ sát
nhân, như Nguyên Hồng.
Bỉ
vỏ
Là
tiểu thuyết đầu tiên của Viêt Nam viết về xã hội trộm cắp.
Bỉ
vỏ
có cốt truyện éo le, đầy tình tiết, như Giông tố của Vũ Trọng Phụng,
nhưng nghệ thuật hiện thực của Nguyên Hồng cao hơn nhiều.
Bính
là cô gái quê đẹp và hiền, bị một chàng trai thành thị dụ dỗ, có mang rồi bỏ.
Không chịu nổi áp lực gia đình và những hình phạt quái ác của làng vì
tội có con hoang, bố mẹ Bính đối với Bính ác hơn dã thú, bán đứa bé lấy
mười ba đồng bạc; Bính phải bỏ làng ra đi. Ra Hải Phòng, Bính bị hãm hiếp, bị
lường gạt, phải vào tù. Một mụ chủ chứa chuộc Bính về làm "nhà thổ".
Bính gặp Năm Sài Gòn, một tay anh chị khét tiếng. Năm chuộc Bính về làm vợ, hết
sức yêu thương, chiều chuộng. Bính có mang. Năm bị bắt. Đồ đệ chăm sóc Bính tận
tình. Bính sẩy thai. Năm được thả. Bính muốn cải hoá chồng, nhưng không được.
Hai người bỏ nhau. Bính nhận làm vợ lẽ một tay mật thám gác xà lim để có 100 đồng
nộp phạt cho bố mẹ khỏi bị tù. Một hôm tay này kể cho Bính biết y vừa bắt được
tên trùm cướp của giết người khét tiếng. Biết ngay là Năm, Bính tìm cách giải
cứu cho chồng, rồi trốn theo. Lần này, Bính hoàn toàn "nhập cuộc",
trở thành bỉ vỏ, con ăn cắp, nhanh như cắt, gan lì và tàn nhẫn như
chồng. Lần cuối cùng, Năm cướp giật một đứa bé đeo khánh vàng trên tầu thuỷ rồi
nhảy xuống sông, đem về, Bính nhận ra con mình, nhờ vết chàm trên trán. Đứa bé
đã chết.
Bỉ
vỏ
có cấu trúc chặt chẽ, trừ lúc đầu, sự bất hạnh xẩy ra cho Bính ở Hải Phòng hơi
giả tạo, phần còn lại hoàn toàn lô-gích. Mỗi cảnh đều được mô tả với ngòi bút
nhà nghề trên ba mặt: nghệ thuật mô tả, văn chương điêu luyện và sự vận hành
của xã hội cướp giật. Tác phẩm hay toàn diện cả về văn phong lẫn tư tưởng.
Bỉ
vỏ
mở đầu bằng câu:
"Bữa
cơm chiều nay khác hẳn mọi ngày, buồn bã và uể oải lắm.
Bính
ngồi sát bức vách lâu ngày đã nứt nẻ loang lổ, cầm bát cơm đầy nhưng chẳng buồn
và. Thằng Cun, cái Cút hai đứa em nhỏ của Bính sợ lây, lấm lét nhìn điã đậu phụng
om tương vàng ánh mỡ, thèm quá mà không dám gắp. Những tiếng ho khàn khàn của
bố chúng và cặp mắt toét nhoèn cau có của mẹ chúng luôn luôn lườm Bính, làm
chúng càng rụt rè kinh hãi."
Bi
kịch đời Bính bắt đầu bằng những dòng như thế. Nghiã là không có gì là bi kịch
cả: Nhà Bính cũng không nghèo quá, không đói, cơm có đậu om mỡ là khá. Bố mẹ
không quát tháo roi vọt. Vậy mà hai đứa nhỏ, thằng Cun con Cút lại sợ, chúng
sợ lây cái gì mà mất vía không dám gắp đậu?
-
Chúng sợ cái "không khí" bữa ăn: chúng sợ gián tiếp, sợ cái tai họa,
ngầm, sẽ lây sang chúng. Cái mà chúng sợ không "có mặt" ở đây, nhưng
nó hiện diện bằng những dấu hiệu: bức vách nứt nẻ, chị nó cầm bát cơm đầy nhưng
không và, tiếng ho khàn khàn của bố đầy đe dọa và cặp mắt toét nhoèn của mẹ
lườm chị, như muốn đánh.
Đó
là nghệ thuật của Nguyên Hồng: ông luôn luôn dùng những sự không ngờ để nói lên
cái bất ngờ, mà cái bất ngờ ở đây là: Bính đẻ con hoang. Khó có thể tìm
thấy một cách sắp đặt nào hoàn chỉnh và bất ngờ như thế.
Điểm
thứ hai: nhân vật của Nguyên Hồng, ngay từ đầu, cũng không trắng đen rõ ràng kẻ
ác chỉ có ác, kẻ thiện chỉ có thiện. Tám Bính chính là nguyên mẫu con người
Nguyên Hồng: sống trong môi trường độc ác, nhưng có tâm hồn cao thượng, cố ngoi
lên, để sống còn. Nguyên Hồng thoát được và thành nhà văn, còn Tám Bính lỡ đò,
thất vận.
Từ
giã đứa con, mà bố mẹ quyết định bán nó, Bính đi vào mưa gió:
"Bính
tê mê nâng đứa con lên tận mặt, rít miệng vào má nó, vào trán nó, rồi Bính nhìn
ngước lên như để phân trần với bóng tối nỗi đau đớn trong lòng. Sau đó Bính đăm
đắm trông con thiêm thiếp ngủ. Dưới ánh đèn lù mù ở bên ngoài qua kẽ liếp lọt
vào, da dẻ nó hồng hào biến thành xanh trong xanh bóng, mớ tóc đen láy, lơ phơ
trở nên hung hung mốc mác khô cứng. Vệt chàm dài hơi giống hình con thạch sùng
bò từ một bên trán đến mang tai xám ngắt hẳn đi như một vệt máu. Và cái vết lẹm
trên mí mắt cũng ở bên phải thấy thương như một lốt dao chém vậy".
(Chương 1, trang 8, bản điện tử)
Làm
sao một thanh niên 17, 18 tuổi lại có thể viết được những dòng đậm tình mẫu tử
như thế? Nếu như không phải đây chỉ là sự sống lại kinh nghiệm của đứa bé đã
được người mẹ rứt ruột bỏ con, ra đi trong một hoàn cảnh khác: để tục huyền và
kiếm ăn trong những ngày thơ ấu. Vết chàm thạch sùng trên mặt đứa bé,
như đã vạch sẵn những nét định mệnh giang hồ của người mẹ.
Ở
Hải Phòng, thủ đô "chạy vỏ" (ăn cắp), trong buổi họp lớn đủ mặt anh
hùng tại nhà Năm Sài Gòn: sau chầu khai khói thuốc phiện, Chín Hiếc khoe khoang
thành tích tối hôm kia hắn ăn cắp một người đàn bà sang trọng, bế con:
"Mẹ
vận quần lĩnh, áo nhiễu tây nâu, con mặc quần lụa hồng, áo gấm lam, đeo vòng
khánh vàng và khóa xích bạc (…) cái thắt đớm [thắt lưng] của
chị ta phồng lên một nấc, chắc chắn là nấc bạc giấy (…)
Sương
đã xuống, trời tối mờ, hắn không rõ mặt người ấy. Mãi sau nhờ ánh đèn điện đằng
xa, hắn mới nhận thấy đôi mắt rất sắc trên gương mặt trái xoan lóng lánh đôi
hoa tai vàng. Đường thật là vắng vẻ. Một chiếc xe tay đi khỏi thì không còn một
bóng người khác. Chín Hiếc vội rút giao ra, nhảy xổ lại bóp cổ dìm người đàn bà
xuống đường. Thằng tiểu yêu theo sau bế ngay đứa bé chạy ra lối ao than. Người
đàn bà không kịp kêu lên một tiếng, Chín đã cắt đứt ruột tượng. Sờ lên đôi hoa
tai, hắn không tháo mà nghiến răng dứt nốt. Hắn lẳn gói bạc vào túi áo trong
đoạn lần khắp người đàn bà. Nhưng không thấy tiền nong gì nữa, hắn bèn rút thắt
lưng, trói chân tay người ấy lại và lấy mùi soa nhét đầy miệng. Trong chớp mắt
Chín đã đặt người ấy còng queo trong khu vườn hoang bên đường. (…) thằng
"vỏ lỏi" (thằng nhỏ ăn cắp) bế đứa bé ra ao
than chực tháo khánh và vòng xích thì có bốn "so quéo" (thằng ngù
ngờ) ở trong ấy đi ra bắt gặp nó, nó hoảng hốt vội vứt đứa bé xuống một cái
hố rồi chạy mất." (Chương VI, trang 24-25)
Hành
động nhanh như cắt, bọn cướp giật này hoàn toàn dã man, không coi tính mạng con
người ra gì, chỉ cốt chiếm vàng bạc. Nhưng mấy hôm sau, trong một "buổi
họp" khác, ta thấy "tư tưởng" của chúng còn tàn bạo hơn.
Tư-lập-lơ thông tin:
"Người
đàn bà mất tiền ấy là vợ một cớm chùng (mật thám) ở Hòn Gai mới đổi về đây,
không biết "tiểu yêu" của mày làm sao để đến nỗi thằng bé rơi xuống
hố, dập cả sống mũi, vào nhà thương được năm hôm thì chết.
Không
một vẻ cảm động trên mười mấy khuôn mặt đen xạm, Năm Sài Gòn chậm rãi nói:
-
Nó chết thì bố mẹ nó chôn, việc gì mình phải lo.
Ba
Trâu Lăn và Ba Bay đồng thanh:
-
Đúng đấy!" (Chương VIII, trang 32)
Lời
tuyên bố của Năm Sài Gòn và sự đồng tình của bọn đàn em chứng tỏ y không còn
một chút lương tâm con người. Vậy mà Bính được y cứu khỏi cuộc đời đầy đọa, tận
tình săn sóc cưu mang, với những lời yêu thương ngọt ngào tha thiết nhất.
Vụ
cướp của, giết trẻ con này liên quan đến vợ con một người mật thám, nên cả bọn
bị họa lây, tất cả giới đội xếp, mật thám Hải Phòng thắt chặt vòng vây bọn côn
đồ du đãng, khiến chúng không làm ăn gì được. Lại thêm vụ: bọn tù nhân lập toà
án xử một tên "phụ cớm", buộc y phải xúc phân ăn, vụ việc lọt ra
ngoài, bọn "cớm" quyết bắt hết bọn "yêu vỏ". Trong tình
trạng khẩn cấp, Tư-lập-lơ nói khích:
"-
Mình để cho người ta chém tức là mình kém, mình chém người ta rồi ngồi tù mới
giỏi chứ, và mình sả cả "cớm" mới can trường hơn. Nội bọn ta đây, tôi
dám hỏi rằng ai là tay chơi, ai can trường, quyết bênh vực anh em mà thí cho
"cớm" vài nhát nào?
Năm
Sài Gòn nóng sôi người lên, nghiến răng, nắm chặt bàn tay đập mạnh một cái
xuống giường, làm rung chuyển cả chân niễng:
-
Chú muốn thịt ai?
-
Đội "cớm" Minh, "cớm chùng" [mật
thám] Hiếu và các thằng Xếp Bảy mề đay anh lạ gì, còn phải hỏi?
Năm
đã đỏ tiá mắt lên, vùng dậy rút lưỡi dao sáng loáng cài trên đình màn xuống,
xăm xăm chực đi. Bính chạy xổ ra, run cấm cập, ôm chặt lấy Năm, ríu lưỡi kêu:
-
Đừng hung tợn thế!… Em van mình! Đừng hung tợn thế!… Em van mình!… Em van
mình!…
Năm
gỡ tay Bính, mắt sáng quắc, long lên, miệng sùi bọt mép:
-
Mặc tôi! Mặc tôi!
-
Em lạy mình đấy! Thương em chứ!
Năm
toan gạt Bính ra bên nhưng Bính nằm lăn ra đất và giữ lấy ống quần Năm khóc nức
nở. Năm vội cúi xuống, ẳm bổng Bính đặt lên giường, thì Bính vòng hai tay qua
nách, túm chặt lấy áo Năm:
-
Em lạy mình! Đừng hung tợn thế! Em van mình! Mình thương em! Giời ơi!…
Mấy
giọt nước mắt của Bính qua lần lụa mỏng thấm vào da thịt Năm Sài Gòn. Một cảm
giác ghê lạ chuyển khắp người Năm khi bụng Bính ép vào lưng Năm. Hắn ngoái cổ
trông lại. Mắt long lanh vừa gặp mắt Bính chan hoà, Năm Sài Gòn cực chẳng đã
thở hồng hộc ngồi xuống giường:
-
Ừ, thì mình cứ buông tôi ra.
-
Để mình đi à?
-
Không, tôi không đi đâu, mình đừng sợ." (Chương XIX, trang
34-35)
Những
dòng trên đây bộc lộ lương tâm Bính, tha thứ cho Bính. Cái bào thai trong bụng
mẹ đã giữ chân Năm không cho đi giết người, lần này. Bính là cô gái quê hiền
lành, đầy lòng trắc ẩn, lạc vào cái bể hung bạo, bốn bề trùng trùng không lối
thoát. Tất cả được xếp đặt một cách tế nhị mà chi li, lạ thường.
"Đêm
khuya rồi, Bính muốn chớp mắt ngủ, song không được (…) Bất giác Bính quay nhìn
Năm Sài Gòn ngủ bên cạnh. Nhờ ánh đèn vặn to, Bính nhận rõ từng nét mặt Nam.
Năm đen cháy, cằm bạnh, xạm râu, hai mắt sếch, mé trên mắt bên phải vẹt hẳn một
nửa lông mày dưới vết dao chém sâu hõm. Trên má Năm, trên trán
Năm, mấy cái sẹo nữa chằng chịt như những vết rạn của chiếc vại sành…
Bính
lắc đầu, thở dài… Bính ngạc nhiên cho cách đối đãi lạ lùng của Năm, đã săn sóc
Bính từ miếng cơm, từ hớp thuốc, suốt mấy tháng ròng, Bính nằm liệt giường liệt
chiếu. Nhất là mấy tháng nay Bính có mang, Năm càng nâng nhấc chiều chuộng."
(Chương XIX, trang 35)
Nhưng
Năm Sài Gòn, tay côn đồ cùng hung cực ác, cũng có một tâm hồn nhân đạo giấu kín
bên trong.
Rồi
Tám Bính không cảm hoá được Năm Sài Gòn. Vụ xử tội Ba Bay chứng tỏ sự thất bại
của Bính, nét nhày nhụa của tội ác theo đuổi Bính đến cùng: Ba Bay hớt tay trên
của đàn anh một món bở. Năm biết, tìm cách đoạt lại "của" của mình:
"Chợt
Năm ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn hút một bóng người thất thểu trên đường về lối
Bến Đò Niệm. Năm nghển lên nghiêng nghé rồi hét lên một tiếng, cắm cổ
chạy. Bính nhận ra ngay là Ba Bay bèn vội chạy theo.
Thoáng
cái Năm đuổi kịp Ba. Ba chưa kịp quay đầu lại nhìn đã bị Năm bóp chặt cổ vật
xuống đường. Ba Bay ú ớ muốn kêu song không sao cất tiếng lên được vì hai bàn
tay sắt của Năm khoá khít lấy họng.
Biết
đã vỡ chuyện, Ba hết sức giãy dụa khư khư giữ túi tiền. Năm nóng mặt nghiến
răng thoi luôn ba bốn chiếc trúng mạng mỡ Ba. Ba phải dùng tận lực đấm trả vào
mặt Năm. Năm hoa cả mắt vẫn không chịu buông tay. Dưới đầu gối Năm, Ba Bay thở
không ra hơi, xương ngực Ba như sắp gãy hết mất. Nhìn mắt Năm long sòng sọc, Ba
Bay rởn cả da thịt, cảm thấy hết mọi sự ghê gớm sắp xảy ra.
Nhưng,
Ba nhất định giữ chặt ví tiền. Còn Tám Bính run cầm cập xanh mắt nhìn chồng và
bạn chồng vật lộn.
Mấy
phen Năm mím môi thích mạnh khuỷu tay xuống cổ Ba, luồn tay xuống lưng Ba, cố
lập sấp Ba đi để rút cái ví tiền gài trong túi dưới nách áo, nhưng Năm đều bị
Ba co đầu gối thúc vào chỗ hiểm, Năm Sài Gòn đã sôi máu, rút lưỡi dao giắt ở
bắp đùi ra giơ thẳng cánh, dằn tiếng nói:
-
Có đưa mau không?
Ba
Bay lắc đầu. Năm Sài Gòn nghiến răng nói một lần nữa.
Cánh
tay Năm rung rung. Lưỡi dao nhọn lấp lánh dưới trăng mờ…
Tám
Bính hốt hoảng chạy xô đến định gỡ hộ cho Ba thì Năm liền hắt bắn vợ đi. Ba Bay
thừa cơ toan giật lấy dao, Năm đã đâm thẳng xuống ngực hắn, chẳng để hắn kịp
cất một tiếng van lơn xin nhượng bộ.
Máu
tươi phọt lên, Năm Sài Gòn nghiêng đầu tránh, rồi bồi thêm một nhát trúng cổ
họng Ba.
Ba
trợn ngược mắt. Sau hai tiếng ằng ặc, hắn giãy lên một cái đoạn nằm thẳng cẳng,
cái ví tiền giờ mới rơi ra ngoài. Nam rút mùi xoa lau máu đẫm bàn tay, đoạn
nhặt ví tiền nhét vào túi và khẽ gọi Bính:
-
Ba "củ" rồi mình ơi!
Bính
chạy lại, cuốn quít lay người Ba. Thấy Ba cứng đò, máu ở ngực, ở cổ họng cứ
tuôn ra. Bính ríu lưỡi nói:
-
Thế này thì chết cả mất!
Nghe
Bính nói không nên tiếng, Năm cười rộ lên, rồi lạnh lùng xốc Ba Bay lên vai,
chạy lùi lũi về phía bờ ruộng tận đằng xa.
Mảnh
trăng vừa nhô ra khỏi đám mây xám, trút xuống cảnh vật một làn ánh sáng xanh
trong xanh bóng lẫn với sắc xanh đặc của ruộng rì rào.
Tám
Bính chỉ chực khuỵu xuống. Bính hoa mắt trông thấp thoáng trong sương xác Ba
Bay rũ trên vai Nam, Bính rợn cả người, sực nhớ tới bức tranh vẽ một người tội
lỗi lúc chết bị ma quỷ lôi kéo đi. Bức tranh này treo trên tường ở buồng ông Cố
Đạo già giải tội cho Bính dạo năm xưa." (Chương XXIV, trang
86-87-88).
Xã
hội côn đồ được Nguyên Hồng mô tả bằng một ngòi bút tài hoa thơ mộng đầy bạo
lực kinh hoàng, không phải để cho ta thù ghét, khinh bỉ, mà cho ta hiểu hơn
những con người này: họ cũng là ngươi, cũng biết "trọng nghĩa khinh
tài". Nhưng khác người lương thiện ở chỗ: họ kiếm tiền với bất cứ giá nào,
miễn là khỏi phải làm việc.
Vì
tiền họ giết người, vì tiền họ cũng có thể thí mạng như Ba Bay. Và có tiền là
phải "tiêu" ngay, tức là làm ba việc: cờ gian bạc lận, hút thuốc
phiện và đi "nhà thổ". Vì cờ gian bạc lận tàn phá bao nhiêu gia đình
mà Ba Bay bị giết không ai thương xót. Nhờ nhà thổ mà Năm Sài Gòn gặp được Tám
Bính. Năm không thể cưỡng lại được cái thú là cứ có tiền phải chui vào sòng bạc
ngay, có khi chỉ một đêm là sạch túi.
Bỉ
vỏ
không phải là tác phẩm bênh vực người lao động, cùng đinh, vì đói khổ mà hoá
thành trộm cắp như nhiều ngưởi tưởng.
Bỉ
vỏ
nhận diện phường trộm cướp như một lối sống, lối kiếm tiền không cần lao động,
có tiền phải thủ tiêu ngay trong trận địa đỏ đen, sẵn sàng giết người đoạt của
và sẵn sàng thí mạng để giữ tiền. Loại xã hội đen này có mặt khắp nơi, không cứ
gì dưới thời Pháp thuộc.
Tám
Bính, tín đồ thuận thành đạo Chúa, chưa bao giờ chối bỏ lòng nhân. Bính
"bán mình" để chuộc mẹ cha, hai kẻ tán tận lương tâm, bán cháu lấy
mười ba đồng bạc. Bính lọt vào xã hội vỏ, muốn cải hóa nó, nhưng thất
bại. Rồi chính Bính cũng bị sa lầy. Cái chết khủng khiếp của Ba Bay ám ảnh tâm
trí Bính, trông đâu Bính cũng thấy xác Ba Bay rũ trên vai Năm dưới bóng
trăng nhợt nhạt.
Cuối
cùng, Bính gặp lại xác con với vết thằn lằn trên trán, trong một vòng luân hồi oan
nghiệt: gieo ác thì phải đền tội. Ở đây cả Chúa lẫn Phật đều có mặt. Tác phẩm
có giá trị đạo đức cao siêu mà những tiểu thuyết thường được gọi là hiện thực
phê phán, không mấy ai đạt được.
Trong
trường thiên tiểu thuyết Sóng gầm (1961), Nguyên Hồng chỉ thành công nửa
đầu, khi ba mẹ con Thanh [Thanh là hình ảnh của Nguyên Hồng] dọn ra Hải Phòng,
nương náu trong một xóm nghèo. Với những nhân vật lạ lùng như cụ Ứớc, ông đã
lột tả được những nét nhân từ, bác ái, tiên phong, đạo cốt của một ông lão cùng
đinh. Với những cụ Cam, cụ Coóng, mẹ La…ông diễn tả được tình yêu trăm mặt, sự
đùm bọc lẫn nhau trong cảnh lầm than, đói khổ, ông vẽ nhũng chân dung con người
thành thật, bộc trực, hy sinh, can đảm. Ông tả được điều kiện làm việc ghê rợn
của những người thợ mỏ ở Hải Phòng.
Nhưng
ông không thành công khi mô tả giai cấp bóc lột, những nhân vật Thy San, Giáng
Hương, Đờ-Vin-Xi chỉ là những nét phóng, hời hợt, không thuyết phục. Giống như
Nhất Linh không viết được về người nghèo, Nguyên Hồng cũng không viết được về người
giàu. Ngay cả chân dung những người cách mạng tù Côn Đảo trở về, cũng chỉ nhàn
nhạt, không ai rõ nét, nổi trội cả. Tóm lại, khi Nguyên Hồng rời khỏi những
mảnh đời có thực mà ông đã sống để đi vào địa hạt hoàn toàn tưởng tượng, ông
thất bại.
Nguyên
Hồng kể lại chuyện viết Bỉ vỏ
Tại
sao tôi viết Bỉ Vỏ là bài tự thuật đầu
tiên về việc viết Bỉ vỏ, cũng là bài viết thứ ba của Nguyên Hồng in trên
Ngày Nay số 104 (3-4-38), sau khi Bỉ vỏ trúng giải Tự Lực văn đoàn 1937.
Bài này mở đầu như sau:
"Năm
ấy, tôi mười sáu tuổi [1934] hết hạn tù, được tha. Mẹ tôi
lên tận nơi đón tôi. Nhưng chúng tôi không về Nam Định- quê hương của chúng
tôi- mà giắt nhau ra Hải Phòng.
Khi
tôi đi tù, đoạn tang thầy tôi, mẹ tôi bước đi một bước nữa. Nên lúc rời bỏ cái
tỉnh đã chứng kiến bao nhiêu việc không hay kế tiếp phá tan gia đình tôi, sự
ngậm ngùi của mẹ tôi bắt tôi nghĩ đến lòng héo hắt của một người đàn bà cải giá
trước sự khinh bỉ, rẻ rúng của họ hàng nhà chồng, và trước sự ghê tởm của mọi
người quen biết đối với con mình, mới một dúm tuổi mà đã trải hết lao này sang
lao khác (…).
Ra
Hải Phòng chúng tôi càng khổ sở. Trông vào vài hào làm vốn buôn trầu cau, mẹ
con tôi được bữa sớm mất bữa tối. Lắm phen, luôn mấy hôm, chỉ một bữa cháo lót
lòng.
Bao
nhiêu ngày tháng, bị câu thúc thân thể và bắt buộc phải làm những công việc bẩn
thỉu, nặng nhọc quá sức mình, tôi tưởng khi thoát khỏi cảnh tù tội, đầy ải ấy
sẽ sống một sự no ấm hơn… ngờ đâu!
Vì
thế, xác thịt tôi dần suy nhược; ôm cái ngực thỉnh thoảng đau nhói lên, tôi cảm
thấy đời tôi đã bị rút ngắn đi, và một ngày rất gần kia sẽ hết! Thế là tâm trí
tôi bị một ám ảnh ghê sợ, khủng bố: "chết!" (…) Tôi chết đi, mới mười
sáu tuổi, sẽ làm cho mẹ tôi đau đớn biết chừng nào! Và trong cái phút cuối cùng
của một đời sớm tắt ấy, tôi sẽ quằn quại như con bướm non bị hai ngón tay giữ [dữ]
tợn kẹp chặt, vừa lúc nó đánh thấy mùi nhị hoa thơm ngát.
Những
lúc lo sợ, bối rối, đau đớn quá, trong tâm trí người ta hay nẩy ra những ước
muốn khác thường. Tôi, tôi muốn sẽ có một cái gì để an ủi mãi mãi mẹ tôi, và để
tỏ lòng tôi mến tiếc và thương nhớ những người và vật đã làm tôi vui thích đến
say mê.
Nghiã
là tôi phải để lại một cái gì tinh khiết của hồn, xác tôi cho cõi đời mà tôi
yêu mến!
Ý
quyết viết tiểu thuyết thụ thai trong trí tưởng tôi mỗi ngày một mạnh mẽ thêm,
lan rộng mãi ra". (Ngày Nay số 104).
Và
Nguyên Hồng đã viết, viết trong hoàn cảnh khốn khó cùng cực của gia đình, rồi
người mẹ phải đi Vinh vay tiền làm vốn, bà trở về với hai sọt trầu vỏ. Gia đình
không đói nữa, đã có tiền mua một thếp giấy để viết.
"Mấy
truyện ngắn tôi đã viết xong từ lâu, và phóng sự tiểu thuyết "Bỉ vỏ"
trải bao nhiêu ngày tháng đã dàn xếp kỹ càng trong đầu óc tôi (…)
"Bỉ
vỏ" đã viết xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra những vũng
nước đen ngàu bọt, và chuồng lợn ngập ngụa phân tro, "Bỉ vỏ" đã viết
xong trong một căn nhà lụp xụp cứ đến chập tối là ran lên muôn vàn tiếng
muỗi." (Ngày Nay số 104).
Bỉ
vỏ
nhận được giải thưởng trị giá 50 đồng. Trong hoàn cảnh người mẹ buôn bán mỗi
ngày chỉ kiếm được mấy hào, thì số tiền 50 đồng này quý giá là nhường nào, đối
với người thanh niên Nguyên Hồng thời ấy. Theo quy định đăng trên Ngày Nay,
sách dự thi giải 1937, phải gửi đến toàn soạn trước ngày 30-12-1936, việc này
phù hợp với lời Nguyên Hồng ghi cuối sách: Viết trong năm 1935-1936. Vậy
Bỉ vỏ được sáng tác khoảng 1935 -1936, năm ông 17-18 tuổi.
Hồi
ký Bước đường viết văn
Trong
cuốn hồi ký Bước đường viết văn[12],
Nguyên Hồng viết sau này, rất khác.
Dưói
đây là một số chi tiết trong hồi ký, không có trong bài Tại sao tôi viết Bỉ
Vỏ, in trên Ngày Nay số 104 (3-4-38):
-
Tập truyện ngắn đầu tay Những linh hồn đầy đọa hay Những linh hồn đau
khổ và truyện thứ nhì Cát bụi lầm, không đâu đăng.
-
Truyện ngắn đầu tiên Linh hồn, đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy khoảng
tháng 9 tháng 10 năm 1936 (trang 1148-1952).
-
Đây là đoạn ông viết về Bỉ vỏ, không giống những điều ông đã viết trong
bài Tại sao tôi viết Bỉ vỏ, năm 1938:
"Tôi
được sống một cách căn cơ và lại còn được viết, viết đều hơn, viết nhiều hơn!
Tôi
sửa chữa lại mấy truyện trong tập "Những linh hồn đau khổ". Tôi viết
những truyện mới. Tôi viết bản thảo lần thứ hai, thứ ba, Bỉ vỏ. Và tôi đã gửi
bài lên nhà báo trên Hà Nội:Tiểu thuyết thứ bẩy."(trang
1200) (Chúng tôi in đậm).
-
Và đây là những dòng ông viết về bài "Tết trong trại trẻ con"
mà một người bạn cho ông biết là đã được đăng trên Ngọ Báo 1935:
"Anh
đưa cho tôi một tờ báo gấp tư mà hai cột rành rành chữ in có tên tôi dưới một
đầu đề rất lạ. Tôi vồ ngay lấy, chỉ một loáng mắt, tôi đọc cả một đoạn đầu, rồi
xuống gần hết đoạn cuối. Người tôi như sốt. Bừng bừng hết cả mặt mày và da
thịt. Phải! Từng chữ, từng câu một đúng là của tôi mà tôi nhớ lại rành rành. Có
khác là bài báo ngắn hơn, ngắn hơn vì bị bỏ một vài đoạn.
"Cảm
tưởng của một người học trò nhỏ sau khi thôi học bị tù".
Cái
khác chính còn là cái đầu bài trên đây thay đi thành: "Trong trại tù trẻ
con".
Bài
này tôi đã viết cùng lúc với những truyện ngắn trong tập "Những linh hồn
đau khổ". (trang 1215-1216).
Như
chúng ta đã thấy ở trên: bài Tết trong trại "trẻ con", được in
trên Ngày Nay số 96 (30-1-38). Ở đây biến thành Ngọ Báo năm 1935. Không
lẽ bài này đăng hai lần, cùng bị đổi tên như vậy? Báo Ngày Nay có chấp nhận
đăng lại như vậy không?
-
Trong suốt cuốn hồi ký, không thấy ông nhắc gì đến tác phẩm Những ngày thơ
ấu, in trên Ngày Nay từ số 133 (22-10-38) đến số 140 (10-12-38); nên tôi
đoán Những linh hồn đau khổ chính là Những ngày thơ ấu, bởi vì
được ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
-
Nhưng lạ nhất là đoạn dưới đây, ông thuật lại việc ông "nhận được thư
của Tiểu Thuyết Thứ Bảy", vào đúng thời điểm Tự Lực văn đoàn phát giải
thưởng 1937 cho Bỉ vỏ:
"Tôi
vẫn vừa dạy học, vừa viết. Vào khoảng tháng bảy năm ấy (1937), tôi nhận được
thư đặc biệt của Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Phong bì đã viền xanh, lại còn viền mấy
đường chỉ màu, tên và chổ ở nhà báo in rất to. Giấy viết thư thì màu lụa mỡ gà,
vân kiểu giấy bạc, mấy đường viền trong đây còn rực rỡ hơn, đúng là băng tam
tài, còn cái thư thì như một cái bằng đấu sảo, địa chỉ và tên báo, chức vị chủ
báo in toàn chữ nổi đen nhánh. Thư đánh máy, chính ông chủ nhà báo kiêm chủ nhà
xuất bản ký tên.
Tôi
đã hoa cả mắt, run rẩy cả tay và cả người, đọc đi đọc lại, cố hiểu thật sâu
thật hết mọi ý của từng lời từng câu trong thư.
Thư
nhà báo hoan nghênh tôi, mong muốn tôi viết tiếp nhiều truyện cho nhá báo. Để đáp
lại sự cộng tác chặt chẽ đó, nhà báo sẽ trả tiền bài cho tôi bắt đầu từ ngày
viết thư này. A ha! Thế là tôi thành một người viết báo có tiền nhuận bút, một
văn sĩ mà các truyện viết ra không phải chỉ được đăng mà còn được trả tiền. Tôi
sẽ có thể, rất có thể sống bằng viết báo, viết truyện. Tôi thành văn sĩ nhà
nghề. Tôi là trợ bút của hẳn một tuần báo to, có tiếng bên cạnh những văn sĩ có
tên tuổi, vào bực đàn anh trong làng văn làng báo lúc bấy giờ! Tôi đã tranh
được một sự làm ăn mà bao nhiêu người viết văn khác mơ ưóc, trong số đó có
nhiều kẻ đã phải tìm các thứ mánh khoé, mưu mẹo, cày bảy, luồn lọt, chạy chọt,
thậm chí bán rẻ cả tài năng của mình để thực hiện ý đồ.
Tôi
không khoe việc này với ai cả, kể cả mẹ tôi và em gái tôi. Nhưng có lẽ vì sự
sung sướng hân hoan không thể nào không lộ liễu của tôi, và hình như em gái tôi
đã đọc trộm đươc bức thư của toà báo ấy, nên cả hai người cũng vui ra mặt, và
trong những câu nói với nhau, tôi thấy còn bàn tính cả đến sự sắm sửa chi tiêu
của nhà từ nay trở đi. Hơn thế nữa, những bà con xóm lán thân thuộc cũng thì
thào và tỏ ý mừng cho sự làm việc chịu thương chịu khó, cặm cụi đêm ngày của
tôi đã tới lúc khấm khá (…) Tôi bắt đầu mặc Tây (…) Tôi thôi dạy học, bỏ hẳn
nhà, lên Hà Nội. Tôi lên Hà Nội để đi học. Tôi lại đi học."
(Trang 1231-1233)
Ngoài
mấy chữ Tự Lực văn đoàn được đổi thành Tiểu Thuyết Thứ Bảy, còn
tất cả nội dung đoạn văn này xem ra rất thành thực, và cho ta biết, hồi đó giải
thưởng Tự Lực văn đoàn có thể thay đổi cuộc đời một nhà văn nghèo như thế nào.
Nguyên
Hồng viết hồi ký "cải biến" như thế, có lẽ vì trong thời điểm đó, cái
tên Tự Lực văn đoàn gây nguy hiểm cho những người "liên hệ", khiến Những
ngày thơ ấu cũng phải đổi tên thành Những linh hồn đau khổ, vì đã
đăng trên Ngày Nay.
Bây
giờ, thời điểm đó qua rồi, chúng ta nên tái lập sự thật, bởi vì hồi ký Bước
đường viết văn của Nguyên Hồng đã tái bản và phát hành rộng rãi.
Đôi
dòng về lối viết hiện thực xã hội
Trường
phái Hiện thực (Réalisme) phát sinh giữa thế kỷ XIX ở
Âu châu, chủ trương trình bày sự vật đúng y như thực tế, không thăng hoa hay lý
tưởng hoá và là cha đẻ của trường phái Tự nhiên (Naturalisme).
Hiện
thực xã hội chủ nghiã (Réalisme Socialisme) là một chủ nghiã
có điều luật quy định, ra đời trong Đại hội nhà văn Liên-xô 1934, chủ yếu đòi
hỏi văn nghệ sĩ phải có nhiệm vụ cải huấn và giáo dục người lao động theo con
đường xã hội chủ nghiã.
Ở
Việt Nam, năm 1943, ông Trường Chinh viết bản Đề cương văn hoá theo tinh
thần đó. Nhưng bản Đề cương văn hoá 1943, chưa được quảng bá rộng rãi. Phải đến
ngày 19-7-1948, khi ông Trường Chinh đọc bài Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt
Nam tại Đại hội văn hoá toàn quốc lần II ở Việt Bắc, thì mọi sự mới rõ
ràng: bài này chỉ định đường lối văn nghệ hiện thực xã hội của Việt Nam, gồm
các yếu tố: Văn nghệ thi đua, văn nghệ tuyên truyền, phục vụ công nông binh,
phân biệt ta-địch, vv… Văn kiện này gây đổ vỡ: Nguyễn Hữu Đang lúc đó còn là
cánh tay phải của cụ Hồ, bỏ về Thanh Hóa và sau này ông cầm đầu phong trào Nhân
Văn Giai Phẩm, như ta đã biết.
Nhưng
từ thời kỳ đổi mới đến nay, chủ nghiã hiện thực xã hội, không còn được
nhắc đến như một quy luật sáng tác nữa, nhà văn có quyền sáng tác theo những
chiều hướng khác, tuy nhiên cụm từ "văn học hiện thực phê phán"
vẫn còn thông dụng và vẫn được tôn sùng, người ta vẫn cho Nguyễn Công Hoan là
chủ soái, mặc dù chữ phê phán hoàn toàn phản văn học, vì nhà văn không
phải là quan toà, nhà văn chỉ có nhiệm vụ trình bày hiện thực như đã xẩy ra.
Chủ
nghiã hiện thực xã hội, trong thời điểm được áp dụng triệt để
tại miền Bắc, đã đưa đến sự độc tôn phái hiện thực và loại bỏ những cách viết
khác. Thí dụ Nguyễn Tuân, đã phải từ bỏ những tác phẩm hay nhất của ông như Vang
bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa đàn.
Trong
bao nhiêu năm ở Pháp, mỗi lần có bạn văn trong nước sang Paris, tôi đều hỏi
chuyện văn chương, sự trả lời hầu như bất biến: Chí Phèo của Nam Cao là đỉnh
cao.
Sự
độc tôn một lối viết, một nhà văn, cũng giống như các sự độc tôn khác, thường
đưa đến sai lầm. Vũ Trọng Phụng cũng được lên đài vinh quang, sau những thăng
trầm vì lý do chính trị. Nguyên Hồng không có trong bảng vàng này.
Vì
vậy, ở đây, tôi muốn so sánh giá trị của Nguyên Hồng với Nam Cao và Vũ Trọng
Phụng.
Nguyên
do như thế này: Tất cả những kiệt tác của nhân loại đều có khuynh hướng nâng
cao đạo đức của con người. Chữ đạo đức ở đây, hiểu theo nghiã triết học,
tức là chữ nhân của Khổng Tử, chữ nhân ái trong đạo Phật, đạo
Chúa, chữ lương tri trong triết học Kant, chữ lương thức[13] trong triết học hiện sinh. Chữ đạo
đức này nằm trong mỗi lựa chọn của con người, đặc biệt nhà văn khi cầm bút.
Nói khác đi, nhà văn trong tận cùng chiều sâu của tử tưởng, luôn luôn có tính
cách nhân bản.
Vũ
Trọng Phụng và Nguyên Hồng
Về
Vũ Trọng Phụng, chính tôi cũng bị lầm, nên đã viết những bài khen ngợi quá
đáng, sau này đọc lại thấy không đúng, phải rút xuống, không để trên mạng
thuykhue.free.fr nữa.
Vũ
Trọng Phụng nổi trội trong hai địa hạt: phóng sự và tiểu thuyết. Về phóng sự,
trong chương Ngày Nay phóng sự tôi đã chứng minh: Phóng sự của Tam Lang
và Vũ Trọng Phụng, dù viết rất sống động, lôi cuốn, nhưng hoàn toàn tưởng tượng
(nói nôm na là bịa), nên không thể có giá trị như phóng sự điều tra thực thụ
của Trọng Lang. Kết quả, những phóng sự này, vì tưởng tượng, nên sự tố cáo của
nó cũng trở thành vô dụng: không ai tố cáo cái điều mình bịa ra.
Còn
lại tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, mà hai cuốn tiêu biểu là Số đỏ và Giông
tố.
Số
đỏ
là cuốn tiểu thuyết hoạt kê, có tính sáng tạo. Trước hết, Vũ Trọng Phụng tạo ra
hai câu nói đầu lưỡi của cậu Phước (con cầu tự): em chã, em chã, và của
cụ cố Hồng (lẩm cẩm): biết rồi khổ lắm nói mãi, hết sức thần tình. Chỉ
hai câu này cũng đã tả được bộ mặt lố lăng nham nhở của những nhân vật trong Số
đỏ. Hoàng Hải Thủy sau này phổ biến ngôn ngữ Số đỏ thành một thứ
"kinh-điển-bình-dân-ngôn-ngữ-miệng".
Nhưng
tư tưởng của tiểu thuyết Số đỏ là con dao hai lưỡi: Nếu chủ đề của nó
chống lại xã hội lai căng thời Pháp thuộc, qua nhân vật chính Xuân tóc đỏ,
ma cà bông, nhờ phong trào bình dân hô hào thể thao, may quần áo mốt, mà trở
thành vô địch quần vợt và anh hùng dân tộc, thì Số đỏ còn có một phần
giá trị.
Nhưng
Số đỏ cũng đem những chủ trương canh tân của Tự Lực văn đoàn ra làm trò
cười, thì lại khác: Vũ Trọng Phụng cổ vũ con đường bảo thủ, chống lại tất cả
những hình thức tiến bộ mà văn đoàn này đề ra.
Còn
lại tiểu thuyết Giông tố.
So
sánh Bỉ vỏ của Nguyên Hồng với Giông tố của Vũ Trọng Phụng (hai
tác phẩm chính của hai nhà văn hiện thực nổi tiếng, cả hai đều có nhiều tình
tiết éo le) ta thấy nghệ thuật của Nguyên Hồng cao hơn Vũ Trọng Phụng rất
nhiều.
Sự
thăng trầm của Bính, người đàn bà bị hiếp dâm, trở thành con ăn cắp trong Bỉ
vỏ, bám chặt tâm ta, bởi vì Bính rất thật, bởi vì Tám Bính sống lại những
khổ đau bầm vập của cậu bé Nguyễn Nguyên Hồng từ những ngày thơ ấu.
Còn
sự thăng trầm của Thị Mịch, cũng bị hiếp dâm trong Giông tố, khó tin
ngay từ đầu:
Tại
sao Nghị Hách, tối đó, trên đường về nhà, có mười một nàng hầu trẻ đẹp đang
chờ, mà lại đi hiếp dâm Thị Mịch, cô gái gánh rạ bên đường? Hách bị bệnh cuồng
dâm chăng, nên mới không "nhịn" được? Tại sao bệnh này không thấy tái
phát lần nào nữa?
Nhân
vật Nghị Hách xa rời thực tế, vì Việt Nam không có "loại" người nào
như thế: Miền Bắc chỉ có một ông tỷ phú Bạch Thái Bưởi, được mọi người kính
trọng. Còn các nghị viên chỉ làm bù nhìn, báo Phong Hóa Ngày Nay chế giễu suốt,
vì họ không có quyền thế gì cả.
Tính
cách ly kỳ quá đáng và hành động đầy sơ hở của Nghị Hách lại nhiều chỗ rất hề.
Vũ Trọng Phụng vẽ chân dung các nhân vật bằng cách phóng họa, chứ ông không
quan sát thực tế và sống với con người, để tạo thành nhân vật, như Nguyên Hồng.
Vũ
Trọng Phụng còn theo quy luật huyết thống (rất cổ hủ): cha tồi sinh con tồi
(Long là con Nghị Hách) cha hay sinh con hay (Tú Anh là con Hải Vân). Ta tưởng
Vũ Trọng Phụng viết Giông tố để chống Pháp và chế độ thực dân, thực ra
ông không chống Pháp: Ông dành cho viên Công sứ những hàng thầm kín khen ngợi.
Tất cả xấu xa ông đánh vào đầu Nghị Hách: một viên trọc phú, dân biểu, hiếp dâm
thị Mịch, trong một bối cảnh vô lý. Đoạn Hải Vân tố cáo cuộc đời tồi bại hai
mươi nhăm năm trước của Nghị Hách, cũng được viết rất tuồng:
"Nghị
Hách còn đương trố mắt ngạc nhiên thì bỗng Tú Anh ngã lăn đánh huỵch xuống sàn
gác. Cả bọn quay lại… Trên miệng Tú Anh thấy ứa ra một chén máu. Người ta không
kịp để ý xem Tú Anh uất mà thổ huyết hay cắn lưỡi tự tử… Nghị Hách chạy lại đỡ
Tú Anh dậy, thất thanh kêu:
-
Con ơi!… Ối con ơi!…
Nhưng
bà Nghị cong cớn:
-
Con mày! Thôi đi! …Mày đừng có nhầm!"[14]
Những
tình tiết khác trong Giông tố cũng được móc nối hời hợt như thế cả, cho
nên Giông tố chỉ là một tiểu thuyết có tình tiết éo le, lôi cuốn, mà
thôi.
Nam
Cao và Nguyên Hồng
Tác
phẩm chính của Nam Cao là Chí Phèo[15] trong đó ông vẽ chân dung Chí Phèo
và Thị Nở hết sức độc đáo. Chí Phèo và Thị Nở trở thành biểu tượng của lớp người
cùng đinh, bị xã hội khinh rẻ, đàn áp. Câu nói nổi tiếng của Chí Phèo "Ai
cho tao lương thiện!" thường được dẫn chứng để cho thấy Chí Phèo phẫn
uất, hung bạo, vì bị bóc lột tới cực điểm.
Thực
ra, nếu đọc kỹ tác phẩm, ta sẽ thấy Nam Cao không có ý ấy:
Chí
Phèo bị bỏ rơi từ thuở lọt lòng, một kẻ thả lươn lượm được, bán cho một người
đàn bà goá mù, bà này bán lại cho một bác phó cối. Bác phó chết, Chí bơ bơ, đi
ở hết nhà này đến nhà khác. Năm 20 tuổi, Chí làm canh điền cho bá Kiến, được vợ
ba bá Kiến gọi lên xoa bụng, đấm lưng… Nghe đồn Chí bị tù, không biết bao lâu.
Khoảng bảy, tám năm sau, Chí về làng, trở thành Chí Phèo, say rượu, rặch mặt,
chửi đổng cả làng.
Cho
tới đây, Nam Cao chưa cho ta thấy Chí Phèo bị ai áp bức gì cả, ngay chuyện đi
tù, tác giả cũng lập lờ không cho biết lý do. Chỉ nghe đồn Chí tư tình với vợ
ba, hoặc ăn cắp, hoặc cả hai, và xem kỹ ra Bá Kiến cũng không dây dưa gì đến
chuyện Chí bị tù.
Giai
đoạn hai, Chí Phèo về làng hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu
với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai
đến cổng nhà bá Kiến gọi tận tên tục ra mà chửi". Lý Cường, con trai
bá Kiến đi về, thấy thế tát cho một cái. Hai bên đấm đá nhau. "Bỗng
"choang" một cái… hắn đập cái chai vào cột cổng… Hắn vừa chửi vừa kêu
làng như bị người ta cắt họng. Ồ hắn kêu!
-
Ối làng nước ơi! Cứu tôi với… Ối làng nước ôi! Bố con thằng Kiến nó đâm chết
tôi! Thằng lý Cường nó đâm chết tôi rồi, làng nước ôi!… Và họ thấy
Chí Phèo lăn lộn dưới đất, vừa kêu, vừa lấy mảnh chai cào vào mặt. Máu
ra loe loét trông gớm quá!"
Màn
này cho ta thấy rõ: Chí Phèo vừa đánh trống vừa ăn cướp. Những vết cào trên mặt
hắn là do hắn tự làm. Không ai cào hắn. Bố con bá Kiến vô can.
Nhưng
Bá Kiến khéo léo, biết dây với thằng khùng vô ích, nên thu xếp, cho hắn tiền,
thỉnh thoảng sai hắn làm mấy việc mờ ám: đòi nợ hoặc đe dọa đánh đấm ai. Theo
"nhận định" của Thị Nở khi nhìn Chí Phèo ốm nằm vật ra: "Muốn
ác, phải là kẻ mạnh. Hắn đâu còn mạnh nữa… Xưa nay hắn chỉ sống bằng nghề giật
cướp và dọa nạt. Nếu không còn sức mà dật cướp, dọa nạt thì ra sao?",
ta lại thấy rõ thêm "lối sống" của Chí Phèo: Hắn đàn áp người chứ hắn
không bị người ta đàn áp.
Màn
cuối cùng càng tỏ rõ bản chất của Chí Phèo. Lần này, hắn lại đến nhà bá Kiến
sinh sự. Bá Kiến đã để sẵn năm hào để cho và chửi:
"Rồi
ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:
-
Cầm lấy mà cút đi đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi à?
Hắn
trợn mắt, chỉ tay vào mặt cụ:
-
Tao không đến đây xin năm hào.
Thấy
hắn toan làm dữ, cụ đành dịu giọng:
-
Thôi cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.
Hán
vênh cái mặt lên, rất là kiêu ngạo:
-
Tao đã bảo tao không đòi tiển
-
Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế thì anh cần gì?
Hắn
dõng dạc:
Tao
muốn làm người lương thiện!
Bá
Kiến cười ha hả:
-
Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.
Hắn
lắc đầu:
-
Không được! Ai cho tao lương thiện! Làm thế nào cho mất được những vết mảnh
chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có
một cách… biết không!… Chỉ có một cách là… cái này! Biết không!…
Hắn
rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy. Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá
Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật
to." [16]
Màn
án mạng này soi rạng toàn diện con người Chí Phèo: chính hắn tự rạch mặt, rồi
đổ vạ. Hắn lại còn hỏi: Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên
mặt này? Như thể bá Kiến bắt hắn làm bậy, nên mới bị người ta chém nát mặt.
Sự thực thì Chí Phèo thường đến nhà bá Kiến vòi tiền uống rượu. Lần này hắn dở
chứng, không lấy tiền, mà giết bá Kiến.
Màn
Chí Phèo giết Bá Kiến trên đây là một màn sát nhân vô cố, khác hẳn màn
Năm Sài Gòn giết Ba Bay trong Bỉ vỏ của Nguyên Hồng: Năm Sài Gòn giết Ba
Bay vì y cướp tay trên món mồi của y, mà trong giới anh chị, tội phản bội không
tha thứ được. Năm cũng chỉ đòi cái ví tiền, nếu Ba Bay thả cái ví ra, chưa chắc
đã chết.
Còn
bá Kiến – dù có làm những việc ám muội – đối với Chí Phèo, vẫn là "ân
nhân". Không có chi tiết nào chứng tỏ bá Kiến đáng tội chết, và cũng không
có bằng chứng nào cho thấy Chí Phèo bị bóc lột tàn nhẫn.
So
sánh với Bỉ vỏ của Nguyện Hồng, riêng việc sát nhân thôi, Chí Phèo cũng
không thể bằng Năm Sài Gòn: Năm giết người có lý do, còn Chí Phèo giết người
không có lý do. Và làm sao so sánh Chí Phèo với Tám Bính được? Sự khác biệt là
như thế: Tám Bính có lòng nhân ái, là nạn nhân của một gia đình độc ác, một xã
hội mù loà, rơi vào tay bọn côn đồ, nhưng vẫn luôn luôn muốn ngoi lên để trở về
với cuộc đời lương thiện.
Cho
nên, nếu coi Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho những người cùng đinh bị bóc
lột là lầm.
Nhược
điểm chính của Nam Cao là đây: Với Chí Phèo, ông mô tả sự tàn
ác vô cố. Bởi không có lý do gì khiến Chí Phèo phải tàn ác. Y tàn ác, vì y
khùng hoặc vì y lựa chọn như thế: Chí là một chàng lực điền, mạnh mẽ, có thể
tìm được việc, có thể làm ăn lương thiện, nhưng y đã chọn sai đường, nên phải
vào tù, rồi sau, y thích theo bá Kiến, thích làm việc ác. Thế thôi.
Trong
truyện ngắn Nghèo[17], Nam Cao mô tả cảnh anh đĩ
Chuột vì nghèo đói và ốm đau, treo cổ tự tử. Một hành động có thể hiểu theo hai
nghĩa: hoặc anh hy sinh để vợ con sống còn, hoặc anh ích kỷ, chỉ muốn thoát
thân, để vợ một mình, đương đầu với nghịch cảnh. Dù trong trường hợp nào, anh
đĩ Chuột cũng chưa đến nỗi phải tự hủy như thế, vì anh vẫn còn có vẻ "khoẻ
mạnh", tức là anh vẫn ăn cơm được, vẫn đi lại được. Nhược điểm ở đây là
thiếu quan sát và không xác định được lý do tự tử.
Trong
truyện ngắn Trẻ con không được ăn thịt chó[18] Nam Cao trình bày một người
cha tàn ác, ích kỷ, tồi bại, thèm rượu, bẫy giết con chó nhà, rồi mời bạn đến
đánh chén, nhưng nhẫn tâm ăn nhẵn hết cả một con chó mà không để lại một miếng
cho vợ con, đang đói, chờ dưới bếp. Không hiểu tác giả muốn nói gì với truyện
ngắn này?
Truyện
ngắn Cái chết của con Mực[19] hoàn toàn vô luân: người con
cả là Du, đi xa, sắp về, bà mẹ quyết định để dành con chó Mực (mà Du là chủ cũ
của nó) làm tiệc mừng. Nam Cao tả tỷ mỷ việc giết con Mực: phải dụ nó, bẫy nó,
đánh đập tàn nhẫn đến ba lần trong hai ngày (vì nó thoát ra được) với những
hình ảnh cực kỳ dã man, mới giết được con Mực. Chủ, con ở và lũ trẻ đều góp
phần vào cuộc hành hạ, sát sinh con vật trung thành, không ai có chút động
lòng. Nhưng kinh hoàng nhất là chính Du cũng có ý tưởng quái đản này: "Sau
cùng thì chàng bực mình: chàng nhận thấy rằng một con chó đã làm mất sự bình
tĩnh của tâm hồn chàng. Và đột nhiên chàng muốn giết con Mực lắm. Chàng
muốn có đủ can đảm để giết người. Phải dám giết mà không run tay khi cần phải
giết. Còn làm được trò gì nữa nếu chỉ giết một con chó mà tim cũng đập"[20]
Có
thể vì thế mà Vũ Ngọc Phan không đưa Nam Cao vào bộ Nhà văn hiện đại. Dù
sao chăng nữa, chúng ta cũng nên tương đối hóa giá trị hiện thực của Nam Cao,
bởi vì ông đã viết những đoạn văn dã man vô cố.
Nguyên
Hồng có truyện ngắn Con chó vàng (in trong tập Những ngày thơ ấu)
hay vô cùng. Ông thuật truyện hai đứa trẻ ăn cắp, thằng Điều và thằng Tý, theo
dõi một ông già ăn mày mù, để cướp cái bị quần áo có gói tiền. Nhưng chúng
không thể hành sự được vì con chó vàng dắt chủ đi ăn xin rất khôn ngoan, không
cho ai đến gần chủ nó để giật cái bị. Nó can trường bảo vệ chủ đến cùng, đến
khi nó bị bọn ăn cắp đánh bả chết. Ông già mù khóc nấc lên, nằm lăn bên xác
chó, cái bị cũng lăn ra. "Một luồng khí lạnh chạy ran khắp người Điều.
Điều run cầm cập lùi dần bước. Thì nhanh như cắt, Tý sáu đến cướp cái bị".
Linh hồn con chó đã đột nhập vào thằng ăn cắp, chạy ran khắp người nó, bắt nó
phải tức thời sám hối.
Vì
vậy, tôi xin nói lại một lần nữa: Tính nhân bản trong tác phẩm của Nguyên Hồng
nổi trội hơn tất cả các tác giả hiện thực khác, cùng thời.
Việc
đề cao quá đáng một số tác giả như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất
Tố, Nam Cao, Tô Hoài… và không nhân diện đúng mức những tác phẩm có giá trị của
Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển… là rất đáng tiếc. Chưa kể những tác phẩm
"ngoài lề" như tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy
Tưởng, viết về những ngày sôi bỏng Hà Nội đào hầm sửa soạn chiến tranh, trung
đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội và kịch Những người ở lại, cũng của Nguyễn
Huy Tưởng nói lên suy tư của những trí thức lựa chọn ở lại trong thành.
Vấn
đề ở đây là vẫn theo lối mòn, đề cao văn học hiện thực phê phán mà
Nguyễn Công Hoan là chủ soái. Không phân biệt giá trị hay dở của tác phẩm, tác
giả. Đánh đồng các nhà văn có trình độ khác nhau. Co cụm lại trong một số tên
tuổi được "chính thức" công nhận. Bỏ qua những mảng văn học lớn như
Tự Lực văn đoàn, Văn học miền Nam.
Đất
nước thống nhất đã gần nửa thế kỷ, chúng ta cần chấn chỉnh lại cách làm văn
học, thì mới mong có được cái nhìn toàn diện về văn học Việt Nam, một nền văn
học cực kỳ đa dạng với những tác giả và tác phẩm giá trị.
(Còn
tiếp)
Thụy
Khuê
thuykhue.free.fr
[1]
In trên Ngày Nay số 32 (1-11-36) và số 33 (8-11-36), 34 (15-11-36), 35
(22-11-36).
[2]
Chồng Con, nxb Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2000, trang 77.
[3]
Chồng Con, trang 111.
[4]
Chồng Con, trang 197.
[5]
Chồng Con, trang 268.
[6]
Cùng giải với kịch Kim tiền của Vi Huyền Đắc và tập thơ Tâm hồn tôi
của Nguyễn Bính được khuyến khích (Ngày Nay số 80, 10-10-37).
[7]Tết
trong trại "trẻ con", Ngày Nay số 96 (30-1-38); Cơm tây…
một xu, Ngày Nay số 97 (18-2-38); Tại sao tôi viết Bỉ Vỏ, Ngày Nay
số 104 (3-4-1938); Hai nhà nghề, Ngày Nay số 122 (7-8-38); Bài
tường thuật Khương Hữu Tài diễn thuyết (về truyện Kiều), Ngày Nay số 131
(8-10-38); Những ngày thơ ấu, in từ Ngày Nay số 133 (22-10-38) đến số
140 (10-12-38); Tết của người đi đầy, Ngày Nay số 149, Báo Xuân
(15-2-39).
[8]
Tức là bản Hồn bướm mơ tiên, in lần đầu năm 1933. Bản này chỉ có tám
chương. Khi tái bản, Khái Hưng đã sửa lại câu văn và tăng thành 9 chương.
[9]
Nguyễn Thạch Kiên, Đốt lò hương ấy…, in trong tập Kỷ vật đầu tay và
cuối cùng, cuốn 1, nxb Phượng Hoàng, Cali, 1997, trang 16-17.
[10]
Mi-nơ tiếng Pháp là mineurs, trẻ vị thành niên
[11]
Lời giới thiệu Những ngày thơ ấu của Thạch Lam, trên Ngày Nay số 133 .
[12]
Chúng tôi dùng bản Bước đường viết văn in năm 1970 của nhà xuất bản Văn
Học, in lại trong bộ sưu tập Những tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí
Minh, từ trang 1108 đến trang 1365, tài liệu của Thư viện Đại học Quốc gia
Hà Nội.
[13]
Chữ conscience tiếng Pháp có hai nghiã: lương tâm và ý thức.
Sartre chủ trương: ta phải vận hành cả lương tâm lẫn ý thức trong
mỗi lựa chọn. Điều này ngụ ý ta không thể chọn cái ác. Và đó là giá trị đạo đức
của triết học hiện sinh, mặc dù Sartre vô thần.
[14]
Giông tố, Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập I, nxb Văn Học, Hà Nội, 1996,
trang 477.
[15]
Chí Phèo, tên cũ là Đôi lứa xứng đôi, nxb Đời Mới, 1941, in lại trong Tuyển
tập Nam Cao, tập I, nxb Văn Học, Hà Nội, 1987.
[16]
Chí Phèo, Tuyện tập Nam Cao, Nxb Văn Học, Hà Nội, 1987, tập I,
trang 130-131.
[17]Nghèo
ký tên Thúy Rư, in trên Tiểu thuyết thứ bày, số 158 (5-6-37), in lại
trong Tuyển tập Nam Cao, tập I, trang 73).
[18]
In trên Tiểu thuyết thứ bảy, số 444 (19-12-42), in lại trong Tuyển
tập Nam Cao, tập I.
[19]
Ký tên Xuân Du, in trên Hà Nội Tân Văn (14-5-40), in lại trong Tuyển tập Nam
Cao, tập I.
[20]
Cái chết của con Mực, Tuyển tập Nam Cao, tập I, nxb Văn Học, Hà
Nội, 1987, trang 95.
Nguồn: Văn Viêt