Văn
Học Press
22 Agostino, Irvine, CA 92614 USA • vmail: +1-949-981-3978
email:
vanhocpress@gmail.com • Facebook: Van Hoc Press
Trân trọng giới thiệu:
KẺ PHÁ CẦU
7 Đoản kịch của Lữ Kiều
Tranh bìa: Lữ Kiều
Thiết kế bìa: Lê Giang Trần
Tựa: Khuất Đẩu
Bạt: Trần Hoài Thư – Nguyên Minh – Huyền Chiêu – Sâm Thương –
Nguyễn Lệ Uyên – Mang Viên Long – Trần Lê Sơn Ý – Nguyễn Thị Tịnh Thy
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021
Sách đã có bán trên BARNES & NOBLE:
Giá: US$18.00
Xin bấm vào đường dẫn sau:
https://www.barnesandnoble.com/w/ke-pha-cau-lu-kieu/1140043981?ean=9781668532126
Keyword: Ke pha cau, kich lu kieu
TỰA
KHUẤT ĐẨU
Kịch
là một từ Hán Việt. Theo định nghĩa của Đào Duy Anh, là rất mạnh. Như một cơn
địa chấn tạo nên những đứt gãy, những hố sâu. Từ đó, Kịch được dùng để gọi
những tuồng hát, những tuồng đời.
Trái
đất là một tinh cầu. Mỗi vở kịch là mỗi tiểu tinh cầu. Và tác giả chính là mỗi
tiểu thượng đế. Như trong kinh thánh, tác giả tạo ra ánh sáng và bóng tối, tạo
ra gió và mưa, tạo ra không khí và sau cùng tạo ra nhân vật. Nhân vật được tác
giả cài đặt định mệnh. Những định mệnh nâng đỡ nhau, va đập vào nhau tạo nên
những số phận. Tất cả những chuyển động âm thầm ấy làm nên kịch.
Vở
kịch được coi là thành công khi tạo được những dư chấn trong hồn người xem sau
khi đã cho họ thấy những đứt gãy, những hố thẳm. Nhưng nếu vở kịch được viết mà
chưa lên sân khấu, thì vẫn chỉ là một tinh cầu chưa chuyển động. Chúng nằm im
trên giấy như cô công chúa ngủ trong rừng chờ hoàng tử đến thức dậy. Hoàng tử
ấy là đạo diễn. Anh ta dùng bàn tay kỳ ảo của mình như phù thủy hô phong hoán
vũ kêu gọi âm binh, làm chuyển động ánh sáng, bóng tối, gió mưa và những nhân
vật. Vở kịch có da có thịt trở nên sống động là nhờ anh. Hiểu như thế để thấy
rằng từ tim óc người viết cho dù là tiểu thượng đế cũng phải cần có nhiều cơ
may mới có thể đến được với người xem.
Trên
các sân khấu Việt Nam, có rất ít cơ may như thế. Thì đành phải “đọc” vậy. Đọc
như thế nào? Đọc một cách ơ hờ như đọc một thông báo? Hỏng! Đọc như một chút
tình bè bạn, cũng hỏng! Phải đọc như một đạo diễn có tài đang dựng kịch. Tức là
phải làm cho vở kịch chuyển động, phải đánh thức những con chữ để nó phát ra
tiếng nói. Và phải nghe bằng sáu giác quan, trong đó giác quan thứ sáu là vô
cùng cần thiết. Như Kim Thánh Thán “nghe” Tây Sương Ký. Như Bùi Giáng “nghe”
Malentendu, kịch của Albert Camus.
Tôi cũng tin là mình đang “nghe” như thế trước những tiểu tinh cầu của Lữ Kiều.
Thức
dậy đi KẺ PHÁ CẦU!
Kịch
được viết năm 1969, sau Mậu Thân đúng một năm. Cứ cho là vào những ngày giỗ đầu
của hàng vạn con người đã chết oan để làm nên một tiếng nổ lớn còn hơn bom
nguyên tử. Chiếc cầu tuy không gọi tên nhưng ai cũng biết là cầu Trường Tiền.
Cây cầu yểu điệu thục nữ đưa những bờ vai “như giấy mới” bắc qua hai bờ sông
Hương, con sông như kiếm dựng trời xanh dưới mắt nhìn Cao Bá Quát.
Cây
cầu còn là một niềm kiêu hãnh như một nét mày cong vẽ trên tâm hồn Huế. Vậy mà
có kẻ muốn phá, dám phá!
Kẻ
ấy là Trung, tổ trưởng đặc công, là người từng lớn lên bên bến sông ấy, từng
tắm dưới chân cầu kia. Trung còn là bạn của Miên một thương binh “ngụy” mù mắt,
và đã từng thầm yêu Kim, chị của Miên, từng biết Văn chồng của Kim, từng lui
tới đề huề coi mẹ Kim như mẹ. Anh cùng đồng chí chọn đúng ngôi nhà thân quen để
làm nơi xuất phát cho cuộc tàn sát một cây cầu. Khi biết được nhiệm vụ của anh,
Kim và Miên ra sức cản ngăn. Nhân danh tình bạn, một thời đã rất lãng mạn cùng
ầm ĩ hát bài Chiều vàng dưới nắng vàng để tương tư một người con gái, Miên đã
tranh luận với Trung, quyết liệt đến nỗi, ngày mai, khi nghe tin cầu gãy, nếu
tôi còn sống, tôi xem như cậu đã chết. Nhưng Trung vẫn khẳng định là cầu phải
bị phá hủy. Để chi vậy? Để ngăn đường tiến quân của địch? Không! Mà chỉ để xác
tín bọn họ có mặt ở thành phố này và để cho thế giới biết được sức mạnh của họ.
Cuộc chiến ý thức giữa hai người một thời là bạn dữ dội không kém những cuộc
đấu kiếm hay đấu súng. Cuối cùng kẻ mù lòa nhưng sáng suốt đã thua kẻ sáng mắt
có sức mạnh mù quáng.
Cây
cầu đã bị giựt sập. Và Trung đã chết cùng với cây cầu.
Gần
một phần tư của vở kịch, tác giả để Trung khạc nhổ vào quá khứ, hận thù hiện
tại, nhưng lạ một điều là Trung không thuyết giảng về tương lai, một tương lai
màu hồng như ta thường nghe thấy từ miệng lưỡi của “những đứa con mang gươm đao
về xóm làng”. Từ lời nói, từ cử chỉ, rắn và lạnh như thép súng. Trước mặt người
chỉ huy và đồng chí Út, Trung có vẻ sừng sững cao ngạo của một kẻ mà lập trường
đã được trui rèn trong lửa đạn. Ở đây ta thấy sức mạnh của ngụy tín đã thắng áp
đảo những mong manh yếu đuối của tâm hồn.
Trung
cho thấy dưới mắt nhìn của cả hai phía, tâm hồn anh đã hóa thạch. Một tâm hồn
còn chai cứng hơn cả Martha trong Malentendu của Camus. Nếu Trung còn sống trở
về hay bị tử thương vì chất nổ thì toàn bộ những sự kiện, những nhân vật chỉ là
vật chứng, người chứng để tôn vinh là anh hùng của phía bên kia, hay để kết tội
là kẻ phá hoại của phía bên này. Nhưng, qua lời nói hổn hển của người chỉ huy
bị thương trở về, chứng nhân cuối cùng của cuộc ám sát, ta bỗng thấy dung nham
của sự thật đang trào lên sau tiếng nổ lớn. Như đêm bỗng sang ngày. Như chết
bỗng thành sống. Tất cả đã quay ngoắt 180 độ.
Giật
mình nhớ lại một phần tư vở kịch, ta thấy Trung đóng kịch. Anh đóng kịch trước
Miên, trước Kim, trước đồng đội. Đóng kịch quá giỏi. Không ai có thể moi ra lời
nào, cử chỉ nào để xác tín anh là kẻ sẽ chết theo cây cầu. Vậy mà chỉ một lời
như trối trăng của người chỉ huy, phía bên kia không thể tôn vinh anh là anh
hùng, phía bên này không thể kết án anh là kẻ phá hoại. Anh là kẻ tuẫn tiết.
Anh
chết theo cây cầu như trước đó anh nói với Miên, tôi còn thân thiết cây cầu hơn
cả cậu.Từ một kẻ tâm hồn tưởng chừng hóa thạch, bỗng trở nên nóng ấm vì sự phục
sinh của một tâm hồn đắm đuối.
Cái
quyết định bi tráng ấy không phải bỗng dưng mà có. Nó bùng nổ trong tâm hồn
Trung khi được biết cây cầu sẽ bị phá để gây một tiếng vang lớn trên toàn thế
giới sau khi cuộc tổng tấn công đã bị thất bại. Trung được chọn, còn hơn thế,
tự nguyện trở về để làm cái việc mà trước khi lên núi anh không hề nghĩ đến.
Anh vẫn tưởng làm cách mạng là lau rửa khuôn mặt Huế đã nhớp nhơ, xấu xí vì bàn
tay lông lá của ngoại xâm, để giữ cho nét mày cong ấy đẹp hơn, tô điểm cho xứ
Huế thêm yêu kiều lộng lẫy.
Cái
chết của anh chính là một thức tỉnh sau những đêm dài ngộ nhận. Nó còn là một
lời tạ tội với những người thân quen cũ, là sự đoạn tuyệt dứt khoát với những
người “bạn” mới, mặc dù dưới mắt họ, trước đó anh là một anh hùng. Cái chết của
anh bỗng dưng bi tráng hơn cả Kinh Kha. Vì sao? Vì Kinh Kha còn có cả ba ngàn
tân khách tiễn đưa bên bờ sông Dịch, còn tỏ được cái hào khí trên sông lạnh với
những câu hát làm tóc trên đầu tân khách dựng ngược. Còn Trung lặng lẽ, âm
thầm. Một mình mình biết, một mình mình hay. Khi bơi đến đặt chất nổ vào lòng
cầu, trái tim Trung chắc đập dữ dội. Cây cầu bình yên ôm lấy anh như đã ôm anh
suốt cả thời thơ ấu. Lúc này anh như một kiếm khách, một tay ôm chặt người yêu,
mặt sát mặt, môi sát môi, một tay đâm cây kiếm bén ngót từ phía sau, xuyên qua
tim nàng và xuyên qua tim mình!
Từ
trong sâu thẳm, nhân vật Trung cho ta thấy vẫn còn chất người. Còn rất nhiều.
Một người dám chết với những gì mình dấu yêu còn người hơn một người sống thấp
hèn với những gì mà mình căm ghét. Chỉ một cái chết nhưng dưới hai mắt nhìn,
một bên cho Trung là kẻ phản bội, một bên có thể gọi Trung là kẻ chung tình.
Còn
một nhân vật khác, cô đọng như một giọt máu khô. Đó là mẹ Kim, một người đàn bà
câm (hay bỗng dưng bị câm?). Bà chỉ kêu lên A! A!, những tiếng kêu quái dị khi
nhìn những xác chết. Bà là hình ảnh tượng trưng của Linh Hồn Huế. Trước nỗi đau
sâu dài khiến bà hóa câm, chỉ phát ra những tiếng kêu đứt ruột.
Đọc
xong vở kịch, tôi mơ hồ tưởng như mình đang ngồi trước một sân khấu mà ánh sáng
và bóng tối được sử dụng bởi những kỹ sư tài giỏi, một dàn nhạc biết rải vào
khoảng lặng những âm thanh nhiều màu sắc, những nhân vật được thể hiện bởi
những nghệ sĩ đích thực, và tất cả được phù phép dưới bàn tay của một đạo diễn
bậc thầy. Tôi như trông thấy ngọn lửa của cây cầu đã hóa thân trong đó có máu
thịt của Trung. Ngọn lửa ở phía sau và người Mẹ câm ốm yếu, đen đúa ở phía
trước. Bà đưa hai tay lên trời kêu A!A! trong khi màn từ từ hạ. Tôi nghe như
Trời Đất ơi!
Tiếc
rằng đó chỉ là giấc mơ. Cũng như tiếc rằng tác phẩm ai điếu cho một cây cầu này
của Lữ Kiều chỉ là những trang bản thảo cho dù đã được bạn in thành sách như
một tiếng thở dài.
CON SÂU TRONG MẮT
Kịch
được viết năm 1972, năm ký kết hiệp định Paris. Ở thời điểm này cuộc chiến
tranh đã xuống thang, một số tù binh sẽ được hai bên trao trả. Nhưng trước đó
và sau đó, những tù binh ở Phú Quốc vẫn không phải là tù chính trị như ở Côn
Đảo. Một chừng mực nào đó, người ta vẫn phải tuân theo công ước quốc tế Genève
về tù binh (không có những cai ngục miệng luôn mắng chửi, tay luôn đánh đập).
Bên cạnh những giám thị ăn nói khá hòa nhã (gọi tù là các anh) còn có thêm những
bác sĩ mặc áo lính. Một trong những bác sĩ ấy là tác giả.
Chứng
kiến những người tù đói khát, ốm đau, thương tật, những âm mưu đào thoát, một
người đã từng tuyên thệ trước Hippocrates cảm thấy những nỗi đau âm ỉ, khạc
chẳng ra nuốt chẳng vào, nên phải viết thành kịch. Viết cho chính mình, trước
hết, như một băng bó tạm thời trước khi có một cuộc đại phẫu. Viết, sau đó,
những mong để lại trong văn học một nét khắc cho dù không bóng bẩy tài hoa như
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, nhưng vẫn là một vết khắc của lịch sử.
Cái
tập thể với hơn 500 con người tạm thời thua một vài trận nhưng vẫn tin ở chiến
thắng cuối cùng. Dù bị giam cầm canh giữ nghiêm mật, họ vẫn nung nấu một ý đồ
vượt thoát. Kịch phơi bày cái khát vọng tự do dưới hình thức một cuộc tuyệt
thực để đấu tranh những đòi hỏi mà họ cho là chính đáng: thả những người bị
biệt giam mà họ nghi ngờ là bị thủ tiêu. Trả xác những người đã bị bắn chết khi
vượt thoát. Họ không còn vũ khí để chiến đấu. Họ chỉ còn cái quyền từ chối được
ăn. Dĩ nhiên là làm reo. Ta chẳng lạ gì cách đấu tranh của họ. Chỉ lạ là họ
ngồi lì giữa trời nắng cháy hay giữa trăng khuya lạnh buốt để che giấu cho một
âm mưu táo bạo. Họ âm thầm đào một địa đạo dưới lòng đất dài cả trăm thước, đào
bằng gà-men, bằng tay không, để đưa cả trăm người tù thoát qua bãi mìn rồi biến
mất giữa rừng lau lách. Công cuộc ấy kể ra cũng khá vĩ đại nếu thành công. Đó
là công cuộc quật khởi giữa lòng quân thù, là thắng trước mũi giặc, là tiếng nổ
lớn vang dội tận hòa đàm Paris.
Nhưng
họ không thành công. Cuộc vượt thoát đầy mưu trí và kiêu hãnh ấy bị nhận chìm
trong biển máu. 99 con người bị bắn chết ngay khi vừa ló đầu ra khỏi miệng hầm,
mũi chưa thở được chút khí trời tự do. Chỉ có một người bị thương may mắn sống
sót nhờ giả chết. Người mà số phận bỗng được nuông chiều một cách kỳ lạ ấy bắt
đầu một cuộc trả thù. Không phải những kẻ đã vãi những tràng đạn đại liên trên
lưng anh em đồng đội, mà là kẻ phản bội đã bán đứng cả trăm con người cho địch.
Kẻ
ấy là ai? Là người đàn ông trung niên tên Quyết, người đã bằng đầu óc kỹ sư của
mình vẽ ra cái địa đạo tuyệt mật ấy, người đã khước từ cái phần thưởng xứng
đáng là được đào thoát, người cao thượng hão, người để lộ cái bản chất tiểu tư
sản kiêu bạc khi tuyên bố chỉ ra đi cuối cùng với địa đạo sau cùng. Và nếu có chết
thì cũng chết như một thuyền trưởng dày dạn chết theo con tàu của mình sau khi
thủy thủ đã xuống hết thuyền cứu hộ. Chính cái lãng mạn bi tráng ấy đã bị những
người tù còn lại kết án là phản bội, vì sau đó ông ta đã được đưa vào trại giam
khác để rồi lặng lẽ biến mất.
Người
thanh niên suốt ba năm đi tìm ông ta với một quyết tâm không gì lay chuyển:
phải giết ông ta bằng được để giải oan cho những linh hồn của những người đã
chết. Đã tìm là phải gặp. Người thanh niên đã gặp ông ta nằm ngủ trước cổng tam
quan một ngôi chùa nhỏ cô tịch. Máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu. Anh ta đã
giết được người kỹ sư sau khi đã trưng ra những bằng chứng không thể chối cãi
của sự bội phản.
Kẻ
phản bội đã phải đền tội nhưng câu chuyện chưa phải đã hết. Vì như thế thì có
khác gì những cuộc trả thù nhàm chán trong những phim kiếm hiệp. Cái đáng xem
của vở kịch này là mặt trái của câu chuyện, là thấy vậy mà không phải vậy. Cũng
như Trung kẻ phá cầu, thực ra là kẻ, bằng cái chết của mình, đã bắc một cây cầu
mới nối những tâm hồn đồng điệu.
Ở
đây, kịch là một bí mật được gói kín bởi nhiều dữ kiện. Người xem giống như
những nhân vật trong Quán củ hành trong Chiếc Trống Thiếc của G. Grass. Mỗi
người được phát cho một củ hành, một con dao. Cứ thế mà bóc vỏ, mà băm vằm cho
đến khi nước mắt nước mũi lòng thòng, nổi khùng lên ôm nhau hôn, ôm nhau khóc.
Trong
kịch Lữ Kiều, cái lớp vỏ lụa vàng óng bên ngoài là cuộc đối thoại ngắn giữa một
chú tiểu vừa mới nhập môn, hãy còn những nét trẻ con ngây ngô của thế tục với
một người đàn ông trần tục lại nói ra toàn những lời của nhà Phật. Cái vỏ ấy
kêu lạo rạo đôi chút, chẳng có gì là mùi vị hăng nồng đặc trưng của củ hành.
Lớp
vỏ thứ hai là cuộc gặp giữa người đàn ông và người thanh niên. Người đàn ông
chưa nhận ra người thanh niên, nhưng người thanh niên thì biết ông ta quá rõ.
Ông ta tên Quyết, người mà anh ta kiếm tìm để kết thúc cho một mối hận thù. Khi
nghe nói đến hận thù ông ta liền nhận ra anh ta đã từng là người tù như ông,
những người cùng chí hướng cùng lý tưởng ở trại tù A trên đảo Phú Quốc. Lẽ ra
họ đã ôm chầm lấy nhau mừng mừng tủi tủi, nhưng giữa họ đã có một con dao giấu
sẵn trong áo của người thanh niên. Đến đây người xem đã chắc một điều rằng, đây
chính là củ hành chứ không phải củ khoai tây.
Nhưng
vẫn chưa thấy mùi hăng. Phải đến lớp vỏ thứ ba mới thấy. Đó là một lớp vỏ đã
ngả màu hư thối, dậy lên một mùi khó chịu, vừa cay vừa chua, mùi của một lớp
tuồng đã cũ. Sân khấu chuyển cảnh bằng cách sử dụng nhuần nhuyễn ánh sáng và
bóng tối, đưa ta trở lại ba năm trước. Cảnh hàng trăm tù binh tuyệt thực và
biểu tình ngồi để đòi trả xác những người bị bắn chết. Người chỉ huy, tên Năm,
đưa ra những yêu sách rất cương quyết nhưng cũng rất ôn hòa. Một người cho dù
là đã bị tước khí giới, bị nhất thời làm người thua cuộc, vẫn bằng lời nói đĩnh
đạc chứng tỏ mình xứng đáng là người chỉ huy, thay mặt cả 500 con người, hiên
ngang đứng thẳng, mặt đối mặt với kẻ địch.
Trước
một cuộc đấu tranh bất bạo động và được điều khiển bởi một người có tư cách,
ban giám thị cũng đã tỏ ra là những quân nhân có giáo dục. Họ đã trả lời một
cách hòa nhã tuy không kém phần cương quyết. Ở nơi tưởng chừng chỉ có gậy sắt
bọc cao su, chó berger, những khuôn mặt lầm lì, không ngờ lại được nghe những
lời đối đáp khôn ngoan kín kẽ như những nhà ngoại giao trong các cuộc đàm phán lâu
dài mỏi mệt. Ta bất ngờ cảm được cái vị ngọt ít ỏi trong cái cay nồng của củ
hành.
Lớp
vỏ tiếp theo đã bắt đầu làm ta cay mắt. Những người tù đang âm thầm tổ chức
cuộc vượt thoát. Cái cảnh sử dụng quyền không muốn ăn của bọn họ chỉ là bức màn
làm bằng 500 con người ngồi để che giấu những lớp đất đựng trong thùng phân
được chuyển lên từ hố sâu. Một địa đạo dài gần 100 mét sắp hoàn thành. Nhưng
nếu mở miệng hầm thì tất cả sẽ phải đi qua một bãi mìn, tức là tự sát.
Một
cuộc tranh luận gay gắt giữa anh Năm và người thanh niên, trưởng toán đào hầm.
Người thanh niên sôi nổi muốn vượt thoát bằng bất cứ giá nào. Nếu phải hy sinh
50 cũng đã là một chiến thắng. Nhưng anh Năm thì không, một người cũng không.
Dù có phải lấp lại hầm để bảo toàn bí mật, lấp vùi luôn bao nhiêu công sức của
cả trại A, ông vẫn cứ làm. Sau cùng, theo lời người đàn ông tên Quyết, nếu kéo
dài thêm 6 tiếng thì mọi việc sẽ hoàn thành trọn vẹn. Người chỉ huy đã chứng tỏ
tài lãnh đạo của mình khi thuyết phục được ban chỉ huy trại tù cho kéo dài thêm
6 giờ để ngồi mặc niệm những người bạn đã hy sinh. Hãy nghe ông nói, chúng tôi
xin ngồi đến giờ giới nghiêm của trại. Bởi vì đêm nay là đêm Rằm, đêm Rằm tháng
Bảy, ngày xá tội vong nhân… Chúng tôi sẽ im lặng mặc niệm cho tất cả anh em,
bạn cũng như thù đã chết… Một lời thỉnh nguyện có tình như thế làm sao ban chỉ
huy từ chối được. Họ đồng ý và địa đạo được đào xong.
Vấn
đề đặt ra cấp bách ở đây là ai đi ai ở lại. Anh Năm thưởng công cho người kỹ sư
bằng cách bảo đêm nay anh hãy trốn đi. Nhưng người kỹ sư bảo anh Năm phải đi để
lãnh đạo những người vượt thoát trốn lên phía bắc. Phần ông, cho dù bị kết tội
là anh hùng cá nhân ông vẫn muốn ở lại để đào thêm những địa đạo mới mặc dù
biết rằng ở lại là phải chịu đựng những cây gậy sắt bịt cao su quất vào đầu vào
lưng.
Lớp
vỏ tiếp theo, qua lời kể của người thanh niên trưởng toán đào hầm, tất cả đã bị
ba khẩu đại liên giấu trong rừng lau quét sạch trừ anh ta.
Chưa
hết bàng hoàng bởi cái chết của 99 con người đói khát, ta lại đối mặt trước một
tòa án kỳ dị với một bồi thẩm đoàn 8 người trong đó có người kỹ sư, vừa ở tư
thế quan tòa vừa ở vai bị cáo. Mỗi đêm, cứ một ai đó khả nghi là kẻ phản bội
liền bị đưa ra trước hội đồng. Chỉ cần 5 cánh tay của 5 người trong bọn là kẻ
đó liền bị hành quyết ngay giữa hội đồng bằng cách đâm một vật nhọn vào giữa
ngục. Cứ thế, mỗi đêm một người mới trước đây là đồng chí phút chốc đã trở
thành kẻ phản bội. Mỗi đêm một người chết và sáng ra tất cả tù còn lại phải
chịu tra khảo để tìm cho ra ai là kẻ chỉ huy của cuộc thanh trừng.
Cái
cảnh những người tù xử với nhau thật kinh hoàng. Còn hơn cửa ngục thứ mười vì ở
đó là những con quỷ bảy màu với cái chĩa ba, chứ không phải những người anh em
đã cùng sống chết có nhau. Mà bằng chứng tội phạm của những kẻ bội phản là gì?
Chỉ là nửa mẩu thuốc lá thừa, một chút cặn trong lon đồ hộp, hay vô ý đánh rơi
một miếng giẻ rách dùng làm khăn… Bằng chứng còn là được thân nhân ở bên ngoài
tiếp tế mà lại lén lút để ăn riêng… Nếu không có một người trước cái án oan của
mình hốt hoảng đặt ra một nghi vấn, anh Quyết sao không đi? Sao không nghi ngờ
anh ấy mà lại nghi ngờ em chỉ vì em thèm thuốc quá! Thì mỗi đêm một người cứ
phải chết cho dù có phải lần lượt chết đến người thứ gần bốn trăm!
Mọi
nghi ngờ giấu kín được trút hết vào người kỹ sư. Ông ta bị đóng đinh câu rút
giữa những người anh em mà ông đã yêu từ lúc còn trẻ tuổi. So với người thanh
niên, ông là thế hệ đi trước. Ông có bằng kỹ sư. Ông yêu cuộc cách mạng này,
ông nguyện hiến cả đời mình cho sự nghiệp ấy. Thế nhưng ông bị buộc tội tổ chức
đào cả một đường hầm để đưa cả trăm chiến sĩ vào giữa những họng súng của kẻ
địch. Ông bị tội chết là phải lắm. Người thanh niên có nghĩa vụ to lớn và chính
đáng giết ông ta.
Người
kỹ sư tuyệt vọng, không phải vì phải chết mà vì niềm tin đã sụp đổ. Khi một
người sống mà không niềm tin nào cả thì chết là một giải thoát. Ông ta chịu để
cho người thanh niên đâm dao vào ngực mình. Cái lớp vỏ cuối cùng của củ hành
này tuy có cay nồng thật đấy nhưng chưa làm người bóc vỏ nổi cơn điên gào thét.
Phải đến khi người thanh niên chùi máu dính trên con dao vào tay áo mình, cười
lớn trước sự ngây thơ ngờ nghệch của người kỹ sư và nói những lời làm cho tóc
ta dựng ngược, tôi biết anh vô tội nhưng tôi phải giết anh… tôi là kẻ duy nhất
biết ba khẩu đại liên đang chờ những người tù… tôi là kẻ lên sau cùng khi 99
người đã bị giết. Thì lúc ấy khi những lời nói của hắn ta trào ra khỏi miệng
như những con rắn độc, ta sững sờ nín lặng, rồi hai tay bịt lấy tai mình mà hét
toáng lên. Sao lại có một sự thực tàn nhẫn và lạ lùng đến như vậy. Một sự thực
cay xè còn hơn là một củ hành thúi.
Sau
cơn cuồng điên vì không thể tin được lại có một kẻ bội phản yêu quái ranh ma
như thế, ta rơi xuống vực sâu của sự im lặng. Sự im lặng của thao thức. Sự im
lặng của tuyệt vọng. Trong mơ hồ ta thấy những khuôn mặt dị kỳ với những con
mắt không phải chỉ có những con sâu mà còn có cả cọp beo rắn rít, những con mắt
của bạch cốt tinh chỉ nhìn vào ai là kẻ đó lạnh toát biến thành xác chết.
Ta
giật mình nhớ lại những lời nói, tiếng cười của tay thanh niên, trưởng toán đào
hầm. Hắn sôi nổi nhiệt tình bao nhiêu càng đáng sợ bấy nhiêu. Hắn sẵn sàng hy
sinh cả 50 và như ta thấy đó, cả 100 nếu tính luôn cái chết sau cùng của người
kỹ sư để tạo nên cho mình cuộc vượt thoát hào hùng. Khi người kỹ sư mà hắn xem
như cái đuôi quá dài của bọn tiểu tư sản bị giết thì trên đời này còn ai biết
được sự thật của hắn. Sự sống sót của hắn đã là một trang anh hùng trong lý
lịch của hắn. Giờ lại thêm cái chiến công giết kẻ “phản bội” để trả thù cho anh
em, thực ra là để bịt miệng, hắn trở thành kẻ đi đầu trong đoàn quân chiến
thắng. Thử tưởng tượng từ đó đến nay, nếu chưa chết, hắn đã leo lên bao nhiêu
bậc? Hắn đã giết thêm hại thêm bao nhiêu người vô tội để xây đắp tượng đài cho
mình?
Mà
đâu phải chỉ có một trại tù như thế ở Phú Quốc mới có những kẻ như hắn. Còn bao
nhiêu trại tù trên đất nước chúng ta!
Thôi
mệt quá, không hơi sức đâu mà nghĩ tới hắn nữa. Nói một đôi điều ngoài lề với
tác giả. Là như thế này, sao lại để cho hắn nói quá nhiều. Chỉ một vài tiếng là
đủ. Chỉ cần “mô Phật” khi chùi xong lưỡi dao vào áo là đã quá cay chua rồi. Cần
gì phải để hắn hỏi chú tiểu bé con có thấy trong mắt hắn có con sâu hay không.
Ngoài tiếng con người mà hắn không xứng đáng được gọi thì con gì chẳng được, cứ
phải là con sâu. Những cảnh không lời của cái hội đồng kỷ luật 8 người đó với
một ngọn đèn con khi sáng khi tắt (như lương tâm) và những người bị giết lặng
lẽ là tuyệt đỉnh của vở kịch này. Những cảnh đó nói lên biết bao điều tối ám
trong lòng hắn. Nếu vở kịch này diễn ra trước cổng tam quan mà không có chú
tiểu ở đầu và cuối mà thay vào đó là những tiếng chuông chùa vọng ra từ hậu
trường thì đúng là cả một sự im lặng kinh hoàng như cả trái đất này đã biến
thành một lỗ đen.
0O0
Kịch
của Lữ Kiều là những dấu hỏi lớn, những phân định một cách công bằng về công và
tội, về Thiện và Ác, về ánh sáng và bóng tối. Không một sân khấu nào giữa thời
buổi này dám dựng. Hãy dựng nên trong đầu ta, mệt thật đấy, đau thật đấy, nhưng
chỉ một mình ta cùng sống và cùng chết với kịch, nói như Thánh Thán, không
sướng sao?
– Khuất Đẩu (2009)