Thursday, August 19, 2021

2117. TRẦN YÊN HÒA Phạm Cao Hoàng với những bạn văn ngày ấy





ANAHEIM, California (NV) – Trong những năm gần đây, khi các tạp chí văn học (báo giấy) lần lượt đình bản do vấn đề tài chánh, tiền in lên cao, người đọc giảm, không có hệ thống phát hành rộng rãi, thì Thư Quán Bản Thảo, do nhà văn Trần Hoài Thư chủ trương, một tập san ra hai tháng một kỳ, gởi biếu (không) đến cho độc giả, vẫn âm thầm tồn tại.

Phác thảo chân dung Phạm Cao Hoàng
Đinh Cường (2010)

Trong số sách (thơ, truyện ngắn) mà Thư Ấn Quán ấn hành, tôi nhận được tập “Mây Khói Quê Nhà” của Phạm Cao Hoàng, do tác giả gởi tặng.

Phạm Cao Hoàng xuất hiện trong thơ ca miền Nam trước năm 1975.

Trước đây, tôi không có dịp đọc nhiều, hình như chỉ hai, ba bài thơ gì đó, nhưng cái cảm nhận ngày ấy, cách đây ba, bốn mươi năm với bây giờ, khi cầm trên tay tập “Mây Khói Quê Nhà” của Phạm Cao Hoàng, tôi không cảm thấy khác gì mấy, cũng vẫn thấy được cái xúc động khi được đọc được (nhiều) bài thơ hay.

Chẳng hạn, như bài “Nhớ Cúc Hoa” này:

“Đất anh ở và rừng anh thở
sáng anh đi chiều lại trở về
rừng vi vút những đêm gió thổi
bóng anh chìm như bóng hư vô 

Đôi khi đứng bên triền đá dựng
anh hoang mang sợ núi đè mình
có khi thấy con chồn con cáo
anh giật lùi lòng thoáng hoảng kinh 

Anh đi qua rừng cao quá đỗi
anh đi về rừng quá đỗi cao
anh thu mình như con sâu nhỏ
nằm rung rinh giữa đám lá rì rào 

Và buồn thảm ôi những chiều lặng lẽ
núi và anh thành hai kẻ đăm chiêu
núi ngó anh và anh ngó núi
núi đụng trời anh đụng nỗi đìu hiu 

Đất anh ở và rừng anh thở
quá lâu ngày nên thấy hoang mang
anh sống dở và anh chết dở
giữa núi rừng cao ngất ngàn năm.”

Theo như bản tiểu sử vắn tắt, là Phạm Cao Hoàng chỉ đi dạy học. Nhưng bài thơ trên mang hơi hám rất lạ, hơi hám của một người lính đi hành quân qua núi, qua đèo, băng đồng, vượt suối. Cái tâm trạng của người trong cuộc, luôn luôn bị ám ảnh của nỗi buồn, nỗi buồn của thân phận bé nhỏ khi đứng trước núi cao, nỗi buồn đó khiến cho người trong cuộc thu mình lại như “con sâu nhỏ, nằm quạnh hiu giữa đám lá rì rào.” Đứng trước núi, tác giả cảm thấy một nỗi đìu hiu quá lớn.

Có thể thể thơ bảy chữ, tám chữ anh dùng nhiều trong suốt tập thơ, đã làm tôi phấn chấn, vì tôi cũng rất thích thể thơ này.

Bìa tập thơ MÂY KHÓI QUÊ NHẢ

Những bạn văn ngày tháng cũ (trước năm 1975)

Sau đây tôi xin trích một vài đoạn ngắn Phạm Cao Hoàng viết kể lại những ngày tháng tuổi trẻ của các anh:

“Với Quy Nhơn.

Căn nhà chúng tôi thuê nằm ở cuối đường Nguyễn Thái Học, thuộc Khu 6, Quy Nhơn. Đây là nơi gặp gỡ thường xuyên của chúng tôi: Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Nguyễn Huy Hoàng, Hoàng Ngọc Châu, Lê Văn Trung, Phạm Cao Hoàng…

Nguyễn Phương Loan ở tận trên Pleiku, thỉnh thoảng mới ghé lại. Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Nguyễn Huy Hoàng ở ngoài mặt trận, thường cuối tuần mới về. Hoàng Ngọc Châu có nhà ở dưới phố. Lê Văn Trung ở với anh chị ở khu 2. Còn tôi là người trụ trì.

Nói là căn nhà nhưng thật ra chỉ là một căn phòng không lớn lắm, đủ chỗ cho một hoặc hai người, tuy nhiên, khi cần thiết mười người cũng không sao. Cuối tuần, Lê Văn Trung và tôi lóng ngóng xem anh em ngoài mặt trận có ai về không?

Mỗi người một tính. Anh Nguyễn Huy Hoàng ân cần, chu đáo. Phạm Văn Nhàn vui vẻ cởi mở. Trần Hoài Thư lang bạt, bất cần đời. Hoàng Ngọc Châu từ tốn. Lê Văn Trung thâm trầm, ít nói. Cửa của căn phòng không có ổ khóa vì chúng tôi chẳng có gì để mất. Bên trong chỉ có vài ba ký gạo và một ít quần áo. Ai đến cứ tự nhiên vào, có gì ăn nấy, nghỉ ngơi và viết lách. Ai muốn viết kiểu gì cứ viết, muốn đăng báo nào cứ đăng. Người viết khỏe nhất là Trần Hoài Thư. Anh viết rất dễ dàng, viết bất kỳ ở đâu, kể cả những nơi ồn ào đầy tiếng động…

Vậy mà chúng tôi quý nhau vô cùng. Gặp lúc nào là vui lúc ấy, và chưa bao giờ chúng tôi có điều gì xích mích. Năm 1968, chiến trận trở nên khốc liệt hơn. Trung và tôi rất lo cho các bạn ở ngoài mặt trận. May mà tất cả các bạn đều trở về, trừ Nguyễn Phương Loan vĩnh viễn nằm xuống với núi rừng Plei Me.

Năm 1969, chúng tôi mỗi người một ngả. Tôi vào Phan Thiết, Lê Văn Trung ra Quảng Ngãi. Hoàng Ngọc Châu lên Bảo Lộc. Trần Hoài Thư, Nguyễn Huy Hoàng, Phạm Văn Nhàn trôi dạt hết chiến trường này đến chiến trường nọ. Hồi đó đâu có điện thoại như bây giờ nên có một thời gian chúng tôi thất lạc nhau. Rồi Sài Gòn thất thủ, anh Nguyễn Huy Hoàng bệnh nặng qua đời, Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn qua Mỹ. Lê Văn Trung ở tù rồi ra làm công nhân xây dựng…

Với Tuy Hòa.

Tuy Hòa là một thành phố biển giữa Nha Trang và Quy Nhơn, nằm bên bờ sông Đà Rằng, dưới chân núi Nhạn. Người Tuy Hòa hiền hòa hiếu khách, đặc biệt là rất yêu thơ.

Về đây tôi có dịp với những cây bút của Tuy Hòa và tham gia các sinh hoạt văn học nghệ thuật của thành phố dễ thương này.

Người tôi gặp gỡ nhiều nhất là anh Trần Huiền Ân, tác giả tập thơ ‘Thuyền Giấy,’ nổi tiếng với những bài thơ đậm đà màu sắc quê hương… Một người luôn sát cánh bên Trần Huiền Ân và tôi là Đỗ Chu Thăng, tác giả tập ‘Chân Trời Cũ.’ Đỗ Chu Thăng là một giáo sư toán thuộc loại giỏi, nổi tiếng là nhà giáo nghiêm khắc với học trò. Ngoài đời, anh là một thi sĩ hiền hòa nhũn nhặn, được nhiều người quý mến và kính trọng…

Hình như buổi chiều nào tôi cũng gặp Phạm Ngọc Lư, anh gốc Huế, sau khi tốt nghiệp sư phạm về dạy ở Tuy Hòa.

Một gương mặt rất gần gũi với tôi là Mang Viên Long, anh gốc Bình Định, vào Tuy Hòa dạy học.

Tuy Hòa là nơi sản sinh ra nhiều cây bút viết truyện ngắn xuất sắc, một trong những cây bút đó là Nguyễn Lệ Uyên. Tuy Hòa còn một thi sĩ nổi tiếng rất sớm là Hoàng Đình Huy Quan, tác giả tập thơ “Mở Cửa,” lúc tuổi chưa tới 20, Hoàng Đình Huy Quan đã có tên trong ban biên tập tạp chí Văn Học ở Sài Gòn.

Nhắc đến văn nghệ Tuy Hòa không thể không nhắc đến Nguyễn Sông Ba, Khánh Linh, Triều Hạnh, Phan Bá Chức, Nguyễn Tường Văn. Bên cạnh đó, nhiều cây bút ở địa phương khác lâu lâu cũng ghé lại làm cho Tuy Hòa ấm áp thêm như Trần Hoài Thư, Lê Văn Nhàn, Lê Văn Trung, Tạ Chí Đại Trường, Đỗ Toàn, Nguyễn Âu Hồng, Nguyễn Sa Mạc, Lê Ký Thương, Huỳnh Hữu Võ, Trần Vạn Giã, Nguyên Minh, Võ Tấn Khanh…”

Tôi đã đọc được trên Thư Quán Bản Thảo những mẩu chuyện của những bạn văn nghệ một thời sinh hoạt trước 1975. Thuở đó tuổi chúng tôi còn rất trẻ, trên dưới hai mươi.

Phạm Cao Hoàng - Ảnh Cúc Hoa (2020)

Tôi cũng sung sướng vô cùng khi đọc (lại) những bài thơ của Pham Cao Hoàng trong “Mây Khói Quê Nhà.” Dĩ nhiên là những bài thơ cũ, nhưng với tôi, đó là thứ nhan sắc vô cùng mới, chẳng hạn như: “Bạch Tiễn Tôi Ở Ngã Ba Duồng”:

“Tay chưa vẫy mà lòng nghe ứa lệ
người tiễn tôi một sớm mùa thu
cám ơn em, hỡi người thiếu nữ
thôi, chia tay, xe lăn giữa bụi mù 

Trong phút đó sao người chẳng nói
dù một lời cũng đủ buổi xa nhau
và trong mắt người có gì buồn bã
thoáng ngượng ngùng rồi sẽ quay mau 

Hình như gió lộng qua màu áo
tóc người che mấy cõi trời sầu
xe lăn bánh tôi âm thầm khóc
có xa rồi lòng mới thấy đau 

Người tiễn tôi một sớm mùa thu
vàng dáng lá như dáng người tha thướt
đường thì xa vạn dặm mịt mù
những oan nghiệt làm sao ngờ được 

Tôi phong sương nên không hề biết
con đường nào có lá me bay
con đường nào chân người in dấu
những tình buồn giữa buổi thu phai 

Người cũng hiểu đời một tên đãng tử
có gì đâu ngoài cuộc sống buồn tênh
những thu qua rồi những mùa thu tới
một mình tôi rồi vẫn một mình 

Người cũng thấy áo tôi không đủ ấm
chưa ba mươi mà tóc bạc trắng đời trai
ngày tháng cứ lạnh lùng một bóng
tôi điêu linh nay đã mấy năm rồi 

Có lúc tôi nhủ thầm đời lạ nhỉ
tôi mà cũng có người đưa tiễn ư
tôi mà cũng có người con gái dáng như thu
cầm tay khóc giữa tình đời bội bạc 

Bởi thế nên cám ơn, người nhé
xe lăn đi là cách biệt ngàn trùng
xe lăn rồi bụi mù trời giông bão
tóc thu người bay giữa hư không.”

Đọc thơ Phạm Cao Hoàng và những ngày tuổi trẻ với bạn văn nghệ ở Tuy Hòa, Quy Nhơn, tôi như thấy chung quanh tôi còn thơm ngát hương tình bằng hữu và tình yêu.

Nên tôi (cũng) xin ghi lại đoạn thơ trong bài “Mai Sau Dù Có Bao Giờ” của Nguyễn Bắc Sơn về cái tình bằng hữu ấy:

“Có khi nghĩ trời sinh mỗi mình ta là đủ

Vì đám đông quậy bẩn nước hồ đời

Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn

Để choàng vai ấm áp cuộc rong chơi.”

Trần Yên Hòa) [qd]

Nguồn: Người Việt, California, 18/8/2021