Chuyện kể của một cậu bé người xứ Alsace
Alphonse Daudet sinh năm 1840 tại Nîmes, tuổi thơ êm đềm trải qua tại
miền nắng gió Provence,
sau này sẽ là nguồn cảm hứng cho nhà văn khai thác trong các tác phẩm của mình.
Chỉ tiếc là cả gia đình phải sớm rời nơi này để chuyển đến Lyon, khi xưởng tơ vải
của người cha bị phá sản phải đóng cửa. Một thời gian sau, ông lại theo anh là Ernest lên Paris sinh sống. Chính người anh này
đã khuyến khích Alphonse Daudet tập
tành viết lách. Ông sáng tác tập thơ tình ( Les amoureuses ) rồi viết nhiều đoản văn phản
ánh hiện thực xã hội. Có thể mầm mống văn tài sớm bộc lộ nên ông được Công tước
de Morny
( bộ trưởng dưới thời Napoléon Iii ) nhận làm thư ký, vị trí
giúp ông bảo đảm cuộc sống. Cũng nhờ sự bảo trợ của vị này, ông viết được vài vở
kịch ngắn, được mang đi trình diễn. (La Dernière idole, 1862; Les
Absents, 1864; L'Œillet blanc, 1865 ). Ông đảm nhiệm việc này cho đến lúc Công
tước de Morny qua đời
năm 1865. Từ đây Alphonse Daudet bắt
đầu chính thức sống bằng ngòi bút của mình. Chỉ một năm sau, những sáng tác đầu
tiên đã xuất hiện trên các báo. “ Tartarin de Tarascon “ là trường thiên tiểu thuyết
gồm ba quyển, xuất bản năm 1872, được giới phê bình tán thưởng, khẳng định vị trí
của tác giả trên văn đàn.
Ông còn in thêm nhiều truyện dài khác nữa, nhưng đối với độc
giả Việt Nam thì quen thuộc hơn hết vẫn là những tác phẩm sau:
Le Petit Chose, truyện dài ( hơn 200 trang, xuất bản năm 1868
), thuật lại “ những cuộc phiêu lưu của một cậu bé đang dần trở thành người lớn”,
vẽ nên khung cảnh thấm đẫm tình cảm nhân văn, với nhân vật chính sớm đánh mất
tuổi thơ vì hoàn cảnh cuộc sống không như các bạn cùng lớp. Ai cũng gọi cậu bằng
biệt danh “ Le Petit Chose“ mà
không bao giờ gọi tên thật Daniel
Eyssette. Đây là một dạng tự truyện với rất nhiều chi
tiết liên quan đến nhân vật chính hoàn toàn giống với tác giả.
Lettres de mon moulin, tập
truyện ngắn, xuất bản năm 1869, là một dạng hồi ký về thời niên thiếu của tác
giả. “ Thư viết từ cối xay của tôi “ là khuôn mẫu của thứ văn phong nhẹ nhàng,
trau chuốt, với những trang viết từng làm say đắm bao thế hệ học sinh yêu văn
chương và ngôn ngữ Pháp. Bốn, năm chục năm sau, những người này vẫn còn nhớ mãi
câu chuyện “ Những vì sao “ ( Les étoiles ) kể chuyện anh mục đồng mộng mơ lãng mạn ngắm
sao trời ngỡ chuyện yêu thương. Anh thuộc tên các vì sao và muốn tìm hiểu sự bí
mật của vũ trụ.
Truyện “ Con dê của ông Seguin “ ( La chèvre de monsieur Seguin ) hấp
dẫn bạn đọc trẻ tuổi kiểu khác. Truyện mang tính triết lý, sự yên tĩnh của đồng
quê có giới hạn của nó. Con dê đâu chỉ cần an toàn ăn cỏ trên đồng, nó còn thèm
khát tự do. Nó bứt dây buộc, lên núi và gặp sói. Nó chiến đấu suốt đêm với con
sói hung dữ, dù cuộc chiến không cân sức nhưng vẫn là một câu chuyện đẹp.
Contes du Lundi, tập
truyện ngắn ( xuất bản năm 1873 ), gồm ba phần với tổng cộng 42 truyện, tất cả
đều lấy cảm hứng từ cuộc Chiến tranh Pháp - Phổ, 1870-1871, trong đó “ La dernière classe “, Buổi học cuối cùng, là truyện
đầu tiên và có lẽ cũng là truyện hay nhất của tuyển tập “ Truyện kể ngày thứ hai
“ này.
Pháp thua trận, phải giao hai tỉnh Alsace và Lorraine cho
nước Phổ, và chính quyền mới buộc các trường học ở đây phải dạy tiếng Đức thay
cho tiếng Pháp. Buổi học cuối cùng, vì thế, không phải là buổi học cuối của năm
học để thầy trò chia tay về nghỉ hè, mà là buổi học cuối để sau đó thầy không
thể dạy trò không thể học tiếng Pháp được nữa. Đến lúc này, thầy giáo mới có dịp
giảng cho học trò rằng tiếng Pháp “là ngôn ngữ đẹp nhất trên thế giới, trong sáng
nhất, hợp lý nhất, vững vàng nhất, và cần bảo vệ nó, đừng bao giờ được phép
quên điều đó, vì khi một dân tộc bị rơi vào vòng nô lệ, chừng nào còn giữ vững tiếng nói của mình thì không khác gì nắm
được chiếc chìa khoá mở cửa
tù giam.”
Suy nghĩ bất chợt của cậu học trò Frantz khi nghe tiếng gù
gù của mấy con chim bồ câu “ Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng
tiếng Đức không nhỉ? “ là mối cảm hoài
cay đắng, khi nhận ra mảnh đất quê hương không giữ được.
Sáng hôm ấy tôi tới trường trễ, rất lo sẽ bị la, nhất là vì
thầy Hamel đã dặn sẽ dò bài về thể phân từ, mà tôi thì không hiểu chữ nào. Có lúc
tôi đã nghĩ đến chuyện trốn học, bỏ đi lêu lổng ngoài đồng. Trời thì ấm áp và tươi đẹp quá thế này.
Nghe có tiếng chim ríu rít ở bìa rừng, và trên cánh đồng
Rippert đàng sau xưởng cưa, đám lính Phổ đang tập trận. Những thứ này hấp dẫn tôi
hơn cái món mẹo luật phân từ, nhưng tôi cũng còn cưỡng lại được, và tôi ba chân
bốn cẳng chạy tới trường.
Khi đi ngang Toà Thị Chính, tôi thấy đám đông người đang
tụ tập trước bảng cáo thị. Suốt hai năm qua, mọi tin xấu đều từ nơi đó mà ra, nào
tin thua trận, nào là lệnh tuyển binh, rồi các chỉ thị của bộ chỉ huy, tôi tự hỏi,
chân vẫn không dừng: “ Lại chuyện gì nữa đây?”
Thế rồi, khi tôi vội vàng chạy qua khu quảng trường, bác
thợ rèn Wachter đang
đứng đọc bảng cáo thị với anh học việc, nói lớn với theo tôi:
“ Chạy gì nhanh thế, cậu bé. cậu còn cả khối thời gian tới
trường mà!” Tôi nghĩ là bác ấy đang giễu cợt tôi, và tôi thở hổn hển khi tới được
mảnh sân nhỏ của thầy Hamel.
Thông thường, khi bắt đầu giờ vào lớp, luôn có những âm
thanh ầm ĩ, ngoài đường cũng nghe thấy, tiếng mở đóng hộc bàn, tiếng học trò ôn
bài đồng loạt, rất ồn ào vì cứ bịt tai mà đọc để nghe cho rõ, còn cả tiếng thầy
gõ thước lên bàn nữa.
“ Tất cả im lặng nhé!”
Tôi hy vọng sẽ lợi dụng lúc chộn rộn này để vô lớp không
bị ai nhìn thấy. Nhưng hôm nay sao lại yên lặng như đang là sáng chủ nhật thế này!
Qua cửa sổ, tôi thấy các bạn đã ngồi vào chỗ đàng hoàng, còn thầy Hamel thì đang
đi tới đi lui với cây thước kẻ bằng sắt đáng sợ kẹp dưới nách. Phải mở cửa bước
vào trong không khí lặng lẽ đó. Bạn chắc là tưởng tượng ra mặt tôi đỏ rần và tôi
run sợ như thế nào.
Thế nhưng, không. Thầy Hamel nhìn tôi không chút giận dữ và
dịu dàng nói: “ Hãy vào chỗ ngồi nhanh đi, em Frantz. Lớp học bắt đầu mà vắng mặt
em đó.”
Tôi nhảy qua băng ghế và ngồi xuống ngay bàn của mình. Đến
lúc đó, khi đã bớt lo sợ tôi mới nhận ra là hôm nay thầy mặc cái áo khoác màu
xanh thật đẹp, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy
chỉ mặc những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng.
Thêm vào đó, hôm nay trường tôi có vẻ gì lạ lùng và trang
nghiêm khác thường, nhưng điều làm tôi sững sờ hơn hết là trên mấy băng ghế đặt
ở cuối lớp, mọi ngày bỏ trống, hôm nay lại thấy có mấy người dân trong làng đang
ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi vậy. Ông già Hauser với cái nón xếp ba góc, ông cựu thị trưởng,
ông cựu bưu tá, và nhiều người khác nữa, ai trông cũng buồn rầu. Ông Hauser có mang theo quyển sách vỡ lòng cũ, góc đã
quăn queo, ông mở sẵn trên đùi, đặt cái kính đeo mắt trên trang sách.
Trong khi tôi đang tự hỏi về tất cả những điều đó thì thầy
Hamel ngồi vào ghế của mình, và cất tiếng, cũng với cái giọng nhẹ nhàng và nghiêm
trang mà lúc nãy thầy nói với tôi: “ Này các con, đây là buổi học cuối cùng thầy
dậy các con. Lệnh đến từ Berlin là tất
cả các trường học ở Alsace và Lorraine chỉ được phép dùng tiếng Đức mà thôi. Ngày
mai sẽ có thầy mới tới đây và hôm nay là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Thầy
mong các con phải chú ý thực kỹ. “
Những lời ấy khác nào sấm sét giáng xuống đầu tôi! Ôi, bọn
khốn! Thì ra đây là cái mà chúng đã dán ở Toà Thị Chính!
Buổi học tiếng Pháp cuối cùng của tôi sao! Tôi còn chưa
biết viết nữa mà! Tôi không được học nữa sao? Phải ngưng hết việc học ngay lúc
này sao? Tôi giận mình biết bao về thời gian bỏ phí bấy lâu, tôi đã trốn học để
đi tìm trứng chim hay đi trượt ván ở Saar! Những cuốn sách mà mới khoảnh khắc trước tôi cho là thứ khô
khan, mang vác nặng nề, sách ngữ pháp , sách lịch sử linh thiêng, giờ tôi coi
như những người bạn cũ, khó khăn lắm mới rời bỏ được. Và thầy Hamel cũng vậy.
Nghĩ đến việc thầy sắp sửa đi xa, tôi sẽ không còn gặp thầy được nữa là tôi quên
hết những hình phạt, những đòn đánh thước kẻ của thầy trước kia.
Tội Thầy quá!
Chính vì coi trọng buổi học cuối cùng này mà thầy đã mặc
bộ đồ đẹp thường chỉ diện ngày chủ nhật, và lúc này tôi mới hiểu tại sao những
vị bô lão trong làng đến ngồi trên những băng ghế nơi cuối lớp. Có vẻ như họ cũng
hối hận rằng đáng lẽ họ phải đến trường siêng năng hơn. Đó là cách họ tỏ lòng
tri ân thầy chúng tôi đã tận tuỵ suốt bốn mươi năm nay, và cũng để biểu lộ tình
cảm ân nghĩa đối với tổ quốc nay đã mất đi.
Tôi đang nghĩ về những điều này bỗng nghe tiếng thầy gọi
tên. Đến phiên tôi phải đọc bài. Tôi có thể đánh đổi gì để có thể đọc được hết
cái quy tắc về phân từ lẫy lừng đó, đọc thật to, thật rõ, không vấp váp chút nào
nhỉ? Tôi chỉ ấp úng được mấy chữ đầu tiên thôi, rồi đứng yên như trời trồng, chết
dí nơi băng ghế, tim đập mạnh, chẳng dám ngước mắt lên. Tôi nghe thầy Hamel nói
với tôi: “ Này Frantz, thầy không la con đâu, con bị trừng phạt thế là đủ rồi,
con thấy chưa, ngày nào ta cũng tự bảo: ấy, ta còn khối thời gian mà, để ngày
mai rồi học cũng được. Và con thấy kết quả ra sao rồi đó... Ừ, tai hoạ lớn nhất
của xứ Alsace chúng ta là bao giờ cũng trì hoãn việc học đến ngày mai. Và giờ
đây, những kẻ kia có quyền bảo chúng ta rằng: Thế nào! Các ngươi tự nhận mình là
dân Pháp, thế mà sao các ngươi chẳng biết đọc biết viết được tiếng mẹ đẻ của mình!
.. Trong chuyện này, trò Frantz à, con đâu phải là người tội lỗi nhất. Tất cả chúng
ta đây đều phải tự trách mình cả đấy.
Bố mẹ các con không chăm lo lắm việc học hành của các
con. Họ thích các con ra đồng làm việc hay vào nhà máy hơn để kiếm thêm chút tiền.
Còn thầy đây, bộ thầy không có gì đáng trách à? Chẳng phải là thầy đã sai các
con đi tưới hoa trong vườn thay vì bắt các con phải học bài. Và khi thầy muốn đi
câu, thầy chẳng ngần ngại cho các con nghỉ học.
Thế rồi, từ chuyện này bắt sang chuyện khác, thầy Hamel nói
về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ đẹp nhất trên thế giới, trong sáng nhất,
hợp lý nhất, vững vàng nhất, và cần bảo vệ nó, đừng bao giờ được phép quên điều
đó, vì khi một dân tộc bị rơi vào vòng nô lệ, chừng nào còn giữ vững tiếng nói
của mình thì không khác gì nắm được chiếc chìa khoá mở cửa tù giam. Rồi thầy mở
sách ngữ pháp ra và đọc bài học cho chúng tôi nghe. Tôi ngạc nhiên thấy mình hiểu
thật thông suốt. Những điều thầy nói nghe thật dễ hiểu, thực sự rất dễ hiểu. Tôi
cũng thấy rằng tôi chưa bao giờ chú ý nghe thầy giảng chăm chú đến thế, mà thầy
cũng chưa bao giờ giảng giải mọi điều một cách kiên nhẫn đến thế. Như thể là trước
khi đi xa thầy muốn truyền cho chúng tôi tất cả kiến thức của mình, cố trút hết
vào đầu óc chúng tôi tất cả một lần.
Sau bài ngữ pháp, đến bài tập viết. Hôm đó, thầy đã chuẩn
bị những tờ mẫu mới toanh, trên đó có viết bằng chữ rông thật đẹp: France, Alsace, France, Alsace... Những
tờ giấy tập viết như những lá cờ nhỏ bay khắp phòng học, treo trên những thanh
gắn trên mặt bàn học chúng tôi. Bạn phải nhìn thấy mọi người chăm chú làm việc
như thế nào, và lớp học im lặng ra sao! Chỉ còn nghe được tiếng ngòi bút cào trên
giấy. Có lúc, có vài con bọ bay vào phòng, nhưng chẳng ai để ý đến chúng, ngay
cả những thằng nhỏ bé nhất đang cố công vạch những nét sổ thẳng, toàn tâm, toàn
ý, chừng như những nét sổ đó cũng là tiếng Pháp. Trên mái nhà, những con bồ câu
gù gù nho nhỏ, tôi nghe tiếng chim và nhủ thầm: “Liệu người ta có bắt cả chúng
nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ? “
Có khi đang viết tôi ngước nhìn lên, tôi thấy thầy Hamel
ngồi bất động trên ghế, mắt chăm chăm nhìn hết vật này sang vật khác, như muốn
ghi sâu trong tâm trí mình tất cả hình ảnh ngôi trường nhỏ bé này. Thật lạ! Đã bốn
mươi năm nay, thầy chẳng luôn ở đây, vẫn chỗ ngồi đó, vẫn sân chơi trước mặt, vẫn
lớp học không đổi hay sao? Chỉ có mấy cái ghế, cái bàn sử dụng lâu ngày nay trơn
mòn hơn, những cây hạt óc chó nay mọc cao hơn, và dây hoa bia do chính thầy trồng
nay quấn quanh cửa sổ, leo lên tận mái nhà. Hẳn là thầy đau lòng lắm khi phải rời
xa tất cả những thứ này, khi nghe tiếng cô em thầy ở tầng trên đang đi đi lại lại,
đóng gói đồ đạc vào mấy cái rương, bởi vì họ phải rời khỏi xứ ngay ngày hôm
sau.
Nhưng rồi thầy cũng can đảm dạy hết cả buổi học. Sau phần
tập viết, chúng tôi học về lịch sử, sau đó các trò nhỏ bi ba bi bô đánh vần. Dưới
kia, ở cuối lớp, cụ Hauser đeo
cặp kính vào mắt, hai tay nâng sách vỡ lòng
lên cùng đánh vần theo chúng. Ai cũng thấy là cụ cũng rất chăm chú, giọng run
run vì xúc động, nghe rất buồn cười khiến chúng tôi vừa muốn cười vừa muốn khóc.
Ôi chao, tôi nhớ buổi học cuối cùng ấy biết bao!
Đột nhiên chuông nhà thờ gõ mười hai tiếng. Rồi đến hồi
chuông cầu kinh Đức Bà. Đồng thời tiếng kèn đồng của đám lính Phổ đi tập trận về
vang lên dưới mấy cửa sổ phòng học. Thầy Hamel đẩy ghế đứng dậy, mặt tái xanh.
Chưa lúc nào tôi thấy thầy cao đến vậy.
Thầy nói: “ Các bạn, các bạn, tôi...tôi...”
Có cái gì đó làm thầy nghẹn lại, không nói hết câu được.
Thầy xoay người về phía bảng đen, nhặt một mẩu phấn, và bằng
hết sức mình ấn lên phấn, thầy viết hàng chữ to hết cỡ : “ NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM “.
Thế rồi, thầy ngừng tay, đầu gục lên tường, không nói một
lời, thầy xua tay ra dấu như bảo chúng tôi:
“ Lớp học kết thúc...mọi người về đi!”
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
theo nguyên bản tiếng Pháp.
( Les
Contes du lundi / Chuyện kể ngày thứ hai )
https://beq.ebooksgratuits.com/vents/Daudet-lundi.pdf
Các bạn
có thể nghe đọc truyện ở đây: