Ngày
Nay tiểu thuyết
Nhất
Linh
Ba
tác phẩm lớn của Nhất Linh: Lạnh lùng, Đôi bạn và Bướm trắng
mang ba sắc thái hoàn toàn khác nhau, đều in trên Ngày Nay. Trước hết là tiểu
thuyết Lạnh lùng.
Lạnh
lùng
Lạnh
lùng
đăng trên Ngày Nay từ số 16 (12-7-36)[1]
mở đầu cho giai đoạn mới của Tự Lực văn đoàn sau khi Phong Hóa bị đóng cửa, là
tác phẩm quan trọng mang giá trị tiên phong: lần đầu tiên đời sống thể xác của
người phụ nữ được đưa vào tiểu thuyết.
Lạnh
lùng
viết về một người đàn bà góa trẻ không đi bước nữa để giữ trọn đạo tiết hạnh
khả phong. Lạnh lùng đi sâu vào lục phủ ngũ tạng Nhung, tìm hiểu tại sao
nàng không thể thoát ra ngoài nếp đạo đức giả dối cổ điển, để sống với chính
mình, với đời sống thể xác của mình.
Lạnh
lùng
không lên án trực tiếp chế độ cũ một cách triệt để như Đoạn tuyệt, mà
tìm cách phân tích tại sao Nhung, một "nạn nhân" có học, lại hành
động như thế này mà không làm như thế khác.
Nếu
Đoạn tuyệt phân chia rạch ròi ranh giới giữa cái xấu (gia đình chồng) và
cái tốt, cái mới (của Loan) thì trong Lạnh lùng, mọi việc phức tạp hơn
nhiều: Nhung được mẹ chồng kính trọng và chiều chuộng, nàng quyết định ở lại
"thủ tiết thờ chồng" sau những suy nghĩ và tính toán sâu sắc.
Trước
hết, sự xâu xé ở đây không trực tiếp giữa cái cũ và cái mới, giữa mẹ chồng và
nàng dâu, mà là sự giày vò trong tâm hồn Nhung: nàng không có đủ cam đảm và
quyết tâm để rời bỏ những lợi thế mà nàng đang được hưởng: nức tiếng khen tiết
hạnh, gia đình được thơm lây, và một cuộc sống giàu sang phú quý, bảo đảm an
toàn suốt đời. Nếu đi theo Nghiã, nàng sẽ chìm vào cuộc sống nghèo nàn, sóng
gió, không tương lai. Vậy sự lựa chọn của Nhung có tính cách vụ lợi hơn là cao
quý: nàng không bỏ được cuộc sống an nhàn để tự lập, vì nàng không được giáo
dục bình đẳng, không có vốn riêng, đời nàng chỉ như cây tầm gửi sống với
mẹ, rồi mẹ chồng. Cả một thế hệ phụ nữ "con nhà gia giáo" đã lớn lên
như thế, trở thành nô lệ mà không biết, dù có học, nhưng đã bị nhồi sọ bởi thứ
giáo dục "kén chồng" có bằng cấp, ra làm quan, để được "nương
tựa" suốt đời. Không phải chỉ ở Việt Nam mà cả bên Âu châu, thời trước
cũng vậy.
Ở
đây, Nhất Linh không đưa ra một nạn nhân mà trình bày một nhân vật có suy nghĩ,
nhưng vẫn không tự vượt khỏi thứ trật tự trưởng giả, để sống đời tự lập.
Lạnh
lùng
còn là tiểu thuyết đầu tiên thám hiểm vùng nội tâm của một người, trước cả
truyện Cái Ve của Khái Hưng. [Kỳ trước chúng tôi coi Cái Ve là
truyện đầu tiên, nay xem lại ngày in, thì Cái Ve đăng trên Ngày Nay từ
số 23 (30-8-36) đến số 26 (20-9-36), tức là sau Lạnh lùng].
Lạnh
lùng
mở đầu cho thể loại tiểu thuyết tư tưởng của Tự Lực văn đoàn: Nhất Linh đào sâu
vào tâm hồn Nhung, phân tích những ý nghĩ của nàng. Điều này chưa mấy ai làm
trong tiểu thuyết lúc bấy giờ, ngoài Nhất Linh, Khái Hưng, và Thạch Lam.
Lạnh
lùng
là một bi kịch kín xoay quanh người phụ nữ goá: Nhung chưa từng được
thoả mãn trong cuộc sống tình dục ngắn ngủi với người chồng chết đã ba năm.
Nghiã, một người đàn ông lạ đến kèm trẻ trong gia đình, Nghiã thôi miên Nhung:
ánh mắt đê mê chiếu vào hố thẳm nhục tình đã bị che giấu, phủ lấp trong nàng,
làm bùng lên như giếng dầu khoan trúng mạch. Đêm hôm ấy, chuyện gì đã xảy ra?
Và đây là những dòng đầu tiên của Lạnh lùng:
"Nhung
áp gối bông vào mặt để cho làn vải êm mát làm dịu đôi má nóng bừng. Nằm yên
được một lúc, nàng lại vật mình xoay người, hai tay ôm ghì chiếc gối vào ngực,
rồi mở to mắt nhìn ra phía có ánh trăng lọt vào, lẩn thẩn đếm từng bóng lá cây
lay động trên bức màn the. Một cơn gió thổi qua rào rào trong rặng tre sau nhà.
Nhung thở dài:
-
Không biết đêm nay mình làm sao thế này?" (Ngày Nay số 16)
Đó
là màn 1: Nhung loay hoay, trăn trở trên giường trong nhiều vị trí khác nhau,
vô hiệu, tất cả đều không giúp nàng thoát khủng hoảng. Nhung quay sang quạt cho
con:
"Nét
mặt ngây thơ của đứa bé ngủ một cách bình tĩnh dưới bóng trăng làm cho Nhung tự
thẹn về những ý nghĩ bất chính rộn rập [dồn dập] trong tâm trí nàng lúc
đó. Những ý nghĩ ấy, nàng thấy mang mang là bất chính, nhưng nàng không biết
tại sao lại bất chính, và cũng không muốn tìm xem cho rõ rệt là những ý nghĩ gì."
(Ngày Nay số16)
Đó
là màn 2: Nhung có những ý nghĩ "bất chính" trong đầu (Nhung
tưởng là bất chính) và nàng cũng không hiểu tại sao lại bất chính và không muốn
"đào sâu". Nhung đứng lên, nằm xuống, vẫn không biết tại sao mình lại
như thế:
"Nhung
lại nằm xuống và vô tình quen tay với chiếc gối ôm vào lòng. Nằm được một lúc,
tự nhiên nàng hất cái gối ra, vứt mạnh vào góc màn, rồi ngồi nhỏm dậy, bước xuống
đất có vẻ bực tức. Thấy trong người nóng bừng mà cơn gió mát ban đêm cũng không
làm bớt được." (Ngày Nay số 16)
Đó
là màn 3: Nhung ôm gối vào lòng: thói quen của kẻ ngủ một mình; nhưng lần này
Nhung thấy kỳ, quẳng gối đi, chắc vì cho hành động này là "bất
chính", nàng đứng phắt dậy lấy quần áo ra cạnh bể nước:
"Nàng
cởi áo cánh rồi vội vàng lấy gáo múc đầy thau nước, rội [giội] mạnh từ
cổ xuống chân (…) Dưới bóng trăng, hai cánh tay tròn trĩnh của nàng đã trắng
lại càng trắng hơn; mấy dòng nước từ từ chảy từ vai xuống bàn tay lấp loáng ánh
sáng. Một cơn gió thổi qua mơn man cánh tay như một cái hôn nhẹ nhàng. Nhung
rùng mình, nhắm mắt…" (Ngày Nay số 16)
Đó
là màn 4: Nhung đã tìm được cách làm cho "hạ hỏa". Nàng tưởng bí mật
của mình không ai biết, nào ngờ:
"Bà
Án đứng bên kia bể nước, hỏi:
-
Con tắm đấy à? (…)
-
Thôi, con liệu tắm mau mà vào, kẻo không cảm. Ai lại một hai giờ đêm còn tắm
như thế." (Ngày Nay số 16).
Và
đó là màn 5. Hồi kết, nhưng cũng là màn mở đầu cho bi kịch của Nhung.
Nhất
Linh đem bi kịch này ra ánh sáng, qua năm hồi trên đây:
Màn
1:
Người con gái – vâng Nhung dù góa – vẫn chỉ là cô gái ngoài hai mươi tuổi, bị
cái nhìn đắm đuối của một chàng trai gợi lên những đòi hỏi xác thịt đã bị chôn
vùi từ ba năm nay. Thứ cảm giác nhục thể bị giấu kín bỗng sống lại mạnh mẽ,
bùng lên, làm đôi má nóng bừng, làm Nhung phải vật mình xoay
người, hai tay ôm ghì chiếc gối vào ngực. Tất cả những biến đổi nhục độ
trong người, Nhung cảm thấy, nhưng không hiểu tại sao mình lại "như
vậy".
Màn
2:
Nhung nhìn đứa con ngây thơ ngủ bên mình, nó là bùa hộ mệnh của nàng, là kim
chỉ nam dẫn đường, và đêm nay, nó bắt Nhung nhìn ra "tội lỗi" của
mình, đồng thời nó cũng là bức rào cản, không cho Nhung tìm đến hạnh phúc,
không cho Nhung thoả mãn dục vọng.
Màn
3:
Nhung nằm lại xuống giường để trấn tĩnh "nguồn cơn", nhưng không
được: Chiếc gối mọi hôm là bửu bối, thay thế cho sự cọ xát êm đềm, giúp nàng
ngăn chặn những động tác cấm kỵ, hôm nay trở nên trơ trẽn, bất lực, Nhung vứt
nó đi, cố tìm một giải pháp "hữu hiệu" hơn.
Màn
4:
Nhung cởi áo, dội nước lên tấm thân trần: nàng tắm. Nhưng "cái tắm"
đêm nay thực mỉa mai và đa nghiã: nàng muốn dội cho trôi lớp "tội
lỗi" trên mình, hay nàng chỉ muốn làm "hạ nhiệt", hoặc ngược
lại, nàng mượn mấy dòng nước từ từ chảy từ vai xuống… thay bàn tay ôm ấp
và nhờ làn gió mơn trớn giúp nàng thoả mãn phần còn lại của nhục cảm
nồng nàn, không ai biết, không ai hay: "Một cơn gió thổi qua mơn man
cánh tay như một cái hôn nhẹ nhàng. Nhung rùng mình, nhắm mắt…"
Màn
5:
Nhưng những bí mật của nàng bị đôi mắt bà mẹ chồng đứng bên kia bể nước theo
dõi: Bà vô tình đứng đó hay bà rình mò con dâu đã lâu? Một, hai giờ đêm bà còn
thức làm gì? Giọng bà sao êm ái và âu yếm thế? Tất cả những "ân tình"
này, phải chăng chỉ là một đòn cao, kéo Nhung ở lại, tiếp tục cuộc sống lao tù,
mãn kiếp?
Nhung
như kẻ đâm lao thì phải theo lao: nàng đã cố giấu giếm những đòi hỏi mà nền
giáo dục dạy là "bất chính", lại có bà mẹ chồng tử tế, yêu nàng như
con ruột (thật chăng?); nhưng áp lực thể xác vẫn mạnh hơn, Nhung không thể cưỡng
nổi, vì vậy nàng phải sống trong che đậy, dối trá, trong những cuộc hẹn hò với
Nghiã, để rồi cuối cùng, vẫn phải đầu hàng, "cải tà quy chính", trở
về với con đường tiết hạnh để được khả phong.
Ai
cũng có thể hiểu rằng: con người, ngoài tư tưởng còn có thân xác là của
riêng mình. Thân xác mình muốn "cho" ai thì cho, đó là
quyền tuyệt đối, bởi vì thân xác là sở hữu tuyệt đối. Nhận thức sâu hơn, ta còn
thấy: đôi khi thân xác làm chủ tư tưởng, nếu nó không thừa nhận
ai, thì tinh thần cũng phải chịu. Nhưng quyền này, cũng vẫn chỉ có người
đàn ông được hưởng: Khắp nơi trên thế giới đều như vậy cả.
Bấy
giờ là năm 1936, ở nước ta có bao nhiêu đàn bà goá phải ở vậy nuôi con? Có bao
nhiêu đàn bà, không goá, bị cha mẹ bắt buộc, phải chịu đựng một thân xác mà họ
kinh tởm suốt đời?
Chỉ
nói riêng đến sự thủ tiết không thôi, có bao giờ chúng ta nhìn nhận sự góa bụa
như một tình trạng – liệt âm cưỡng bách – tôi xin mạn phép gọi tên như
thế, trong một xã hội mà người đàn ông – dù vợ chưa chết – vẫn có thể cưới dăm
ba vợ khác một cách công khai, việc này lại còn được coi như dấu ấn của sự giàu
có, sang trọng, thành công.
Bao
nhiêu kỷ nguyên đã trôi qua, bao nhiêu thế hệ đã lớn lên bên cạnh những người
mẹ, người cô, người dì, bị thiến sống như thế, mà không ai để ý, coi như chuyện
bình thường, bổn phận.
Khái
Hưng, Nhất Linh là hai nhà văn đầu tiên đem cuộc sống thân xác của người phụ nữ
vào tiểu thuyết, từ Đời mưa gió, hai ông đã đặt vấn đề: người phụ nữ như
Tuyết, cô gái giang hồ, có quyền tự do trao thân xác mình cho ai, tùy ý, hay
không?
Rồi
Nhất Linh tiếp tục mổ xẻ những đòi hỏi nhục dục của phụ nữ trong Lạnh lùng,
ở đây, ông chiếu ống kính vào những người đàn bà bị cướp đi một nửa đời sống –
tức là những người đàn bà goá bị cấm sinh hoạt thể xác – họ cứ khô đi,
đét dần, không ai biết, không ai hay, đến chết. Là nhà văn đầu tiên để ý đến
họ, Nhất Linh cũng là người đầu tiên mô tả sự vận hành của nhục cảm trong đời
sống phụ nữ một cách công khai, sâu sắc và tế nhị.
Trương
Tửu trong bài Kết án Đời mưa gió, viết rằng: Khái Hưng và Nhất
Linh thi vị hoá đời làm đĩ[2],
ông còn phê bình Lạnh lùng:
"Sự
thành công của tác giả truyện Lạnh lùng đặt ra một vấn đề gay go, cần đem ra
tranh luận. Vấn đề ấy là: quan hệ của văn chương với đạo đức xã hội.
"Một
văn phẩm hoàn toàn về nghệ thuật mà có ảnh hưởng tai hại đến cá nhân và xã hội
thì ta nên hoan hô hay bài trừ" Tôi có thể kết án Lạnh lùng của ông
Nhất Linh định phá hoại sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
Tất
cả những bà, những cô quan tâm đến vấn đề phụ nữ nên kết án quyển Lạnh lùng ở
trường hợp này, lãnh đạm hay tha thứ là một tội ác"[3]
Đây
không còn là lời nhà phê bình nữa mà là nhát chém đao phủ. Lời kêu gào của
Trương Tửu đả phá Đời mưa gió và Lạnh lùng, làm rạng lên tính
chất lạc hậu của nhà phê bình mác- xít, tân tiến nhất thời bấy giờ.
Hai
buổi chiều vàng và Thế rồi một buổi chiều
Hai
buổi chiều vàng đăng trên Ngày Nay từ số 19 (2-8-36)
đến số 22 (23-8-36). Năm sau, Đời Nay in thành sách[4],
là tác phẩm thứ hai Nhất Linh nói tới cách mạng – sau Thế rồi một buổi chiều
– được mở đầu bằng lời bố cáo của hội đồng Đề Hình xử mấy vụ hội
kín, đại ý:
"Bị
cáo nhân Nguyễn Văn Lộc, một đảng viên quan trọng âm mưu phá rối cuộc trị an…
Nguyễn
Văn Lộc quán ở Vĩnh Yên!"
Như
thể Nhất Linh muốn trực tiếp giới thiệu Đỗ Đình Đạo, sau này sẽ trở thành yếu
nhân của Việt Nam Quốc Dân Đảng: Đạo quê quán ở Vĩnh Yên và gia trang Đỗ Đình
sẽ là "cái nôi" của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hai buổi chiều vàng
chứng tỏ từ năm 1936 hay trước đó, "họ" đã họp nhau trên mảnh đất
Vĩnh Yên.
Nhưng
Lộc không phải là nhân vật chính và cách mạng cũng không giữ vai trò chủ yếu.
Chủ
yếu trong Hai buổi chiều vàng là tình yêu, tình yêu lãng mạn: tình
tuyệt vọng. Mối tình thầm lặng, không dám ngỏ, bởi Triết tưởng Thoa
đã hiểu hết rồi. Nhưng Triết lầm, Thoa không hiểu, Thoa lấy Lộc. Triết vẫn tiếp
tục thầm yêu. Rồi Lộc bị kết án 20 năm tù. Triết giúp Thoa trong thầm lặng, vẫn
không dám ngỏ lời, vì tưởng Thoa… đã hiểu. Ba năm sau Lộc được ân xá, Triết báo
"tin mừng" cho Thoa.
Hai
buổi chiều vàng là tiền thân của Đôi bạn và hậu
thân của Thế rồi một buổi chiều (phụ bản Phong Hóa số 91, 30-3-34). Bởi
trong ba tác phẩm này, yếu tố cách mạng đều được giao hòa với một mối
tình không ngỏ.
Thế
rồi một buổi chiều là truyện ngắn đầu tiên, kín đáo nhắc
tới cách mạng, đánh dấu Nhất Linh thoát khỏi lối kể chuyện cổ điển để bước vào
lối viết hiện đại: Nhân vật Dũng xuất hiện lần đầu. Dũng đi kháng chiến, bị
lùng bắt, cùng đường, chạy vào một chùa sư nữ, được ni cô giấu trên gác khánh.
Mối tình giữa ni cô và Dũng không thể ngỏ, nhưng mãnh liệt, bởi ngoài mối từ
tâm tu hành, còn có cái gì như bạt mạng trong tình yêu ni cô, không ngăn cản
nổi.
Thế
rồi một buổi chiều ảnh hưởng thể văn tuyệt đẹp và mối
tình chùa do Khái Hưng khai bút trong Hồn bướm mơ tiên, đồng thời xác
định tình câm như một bản chất riêng của Nhất Linh, lần đầu hiện diện.
Đến
Hai buổi chiều vàng, Nhất Linh đào sâu khía cạnh câm nín này, và
để lộ thêm hai thủ pháp chính, đặc biệt trong nghệ thuật tiểu thuyết của ông: tả
những yên lặng và giao hòa tâm hồn với vạn vật.
1-
Tả những yên lặng, Nhất Linh viết:
"Vì
Triết đứng gần sát nên thấy hơi thở của Thoa đưa mơn man qua má chàng. Lúc cho
con chim vào lồng, Triết có ý để đầu chàng chạm vào khăn Thoa. Thoa cứ đứng
yên, chăm chú nhìn con chim, vờ như không để ý đến".
"Nhìn
hai con mắt Thoa, chàng thấy một cách rõ ràng rằng Thoa đã hiểu tình của chàng
rồi và Thoa cũng yêu chàng như chàng yêu Thoa. Hai người đã yêu nhau và đã biết
như thế từ lâu rồi thì cần gì phải nói nữa. Chàng thấy sự yên lặng của hai
người lúc nhìn nhau phô diễn nhiều ý hơn những lời nói nồng nàn…" (Ngày
Nay số 19).
Những
dòng trên đây chính là thủ pháp mô tả những yên lặng mà Nhất Linh sẽ sử
dụng trong tiểu thuyết và trở thành bực thầy: với giác quan cực kỳ nhạy cảm,
Nhất Linh nghe thấy những thứ tiếng không động như hơi thở, cảm thấy
những ánh mắt nói gì và nhận được những đụng chạm chưa xảy ra.
Nhờ sự nhạy cảm phi thường này, Nhất Linh trở thành nhà văn nhục cảm đầu
tiên trong văn học Việt, với sức hấp dẫn lạ lùng, qua cách tả nhục cảnh gián
tiếp, không cần sự động chạm thể xác, như màn Trương vụng trộm úp mặt vào
chiếc áo cánh của Thu, không ngờ Thu trông thấy, trong Bướm trắng.
Tất
cả những nhục cảm gián tiếp này, sẽ trở thành nét đặc thù của Nhất Linh,
duy nhất và độc đáo, bởi vì Khái Hưng rất nho gia, không đi vào những vùng gai
góc như thế, Thạch Lam ngượng ngùng tránh, có lẽ chỉ Hoàng Đạo là bạo, có thể,
nhưng ông bận viết chính trị, rất ít khi sáng tác văn chương.
2-
Giao hòa vạn vật và tâm hồn là thủ pháp thứ hai của Nhất
Linh:
"Trời
đã về chiều, một buổi chiều vàng người ta thường thấy những khi bắt đầu mùa hạ.
Ánh chiều tà lướt trên áo chàng, trên bãi cỏ ngay trước cổng và nhuộm vàng
những thân cau trong sân nhà Thoa. Triết ngồi yên lặng, nghe rõ tiếng mình thở.
Chàng tin rằng lúc đó Thoa đương ngồi chơi mát ngoài sân mà ánh sáng buổi chiều
vàng chàng đương ngắm đây, ở bên kia giậu, cũng lấp lánh trong đôi con mắt của
Thoa" (Ngày Nay số 20).
Chất
lãng mạn trong Hai buổi chiều vàng, đầu tiên là do cảm hứng từ những câu
thơ Arvers do Khái Hưng dịch trong truyện ngắn Tình tuyệt vọng (Phong
Hóa số 18, 20-10-32):
Lòng
ta chôn một khối tình,
Tình
trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình
tuyệt vọng nỗi thảm sầu,
Mà
người gieo thảm như hầu không hay.
Triết
yêu Thoa nhưng không nói ra. Rồi Thoa đi lấy chồng, Triết sống trong tình
tuyệt vọng, lấy đó làm lẽ sống, và tự an ủi: "chàng cho ở đời chỉ
có cái tình yêu như vậy là lâu bền nhất". Đó là quan niệm lãng mạn cố
chấp và cũng là món ăn tinh thần của trai gái thời ấy. Nhưng giá trị Hai
buổi chiều vàng không chỉ ở chỗ lãng mạn này, mà còn ở nghệ thuật vén màn
lên sự thực, được Nhất Linh thực hiện trên ba chặng:
-
"Nghe" thấy hơi thở của Thoa, thấy tác dụng của nó trên má Triết.
-
Lột trần ý nghĩ "ám muội" của Triết: vờ làm như vô tình để đầu mình
chạm vào khăn Thoa.
-
Tố giác sự "đồng loã" của Thoa: vờ như không để ý đến sự cố ý của
Triết.
Mối
tình câm của Triết có trật tự lô-gích như thế, cho nên Triết mới tưởng
Thoa "hiểu hết", vì nàng đã "phụ họa" với mình.
Vì
tưởng Thoa hoàn toàn "hiểu mình", cho nên: "Triết ngồi yên
lặng, nghe rõ tiếng mình thở. Chàng tin rằng lúc đó Thoa đương ngồi chơi mát
ngoài sân mà ánh sáng buổi chiều vàng chàng đương ngắm đây, ở bên kia giậu,
cũng lấp lánh trong đôi con mắt của Thoa".
Nhận
thức này của Triết "vững" lắm, nên chàng nghe rõ tiếng mình thở,
rồi Triết "thấy" cả Thoa đang ngồi chơi trong sân vườn bên kia, bèn
chia cho Thoa cái ánh sáng buổi chiều vàng tuyệt diệu đang có trong lòng
chàng.
Nghệ
thuật Nhất Linh, ở những trang viết đẹp nhất, từ đây, sẽ là sự giao thoa như
thế giữa con người và đất trời, giữa con người với nhau, qua những mộng
tưởng, những ý nghĩ thầm kín, những cử chỉ vô tình mà hữu ý, những
tiếng động vô âm, cực kỳ bén nhạy, chưa mấy ai đạt được.
Tối
tăm bùn lầy nước đọng
Chủ
đề Tối tăm bùn lầy nước đọng được Nhất Linh khai triển hai lần:
1-
Lần thứ nhất, trong truyện ngắn Tối tăm
(Ngày Nay số 23, 30-8-36), Đời Nay in lại trong tập truyện Tối tăm
(1936), và đổi tên là Một kiếp người:
Dậu,
con nhà giàu, nhưng không được đi học vì Dậu là gái, cha mẹ nghĩ rằng "Con
gái cho đi học ngày sau chỉ tổ viết thư cho giai!". Dậu "hồn
nhiên sống cái đời tối tăm như cha mẹ nàng", không hiểu gì về vệ sinh
thường thức: "lúc nào đầu tóc cũng rối bù, đầy cát bụi, người và áo,
yếm đẵm mồ hôi, bẩn thỉu, hôi hám."
Cùng
chủ đề với Dưới bóng tre xanh của Khái Hưng, in trên Ngày Nay từ số 1,
nhưng Tối tăm thê thảm hơn nhiều: năm hai mươi tuổi Dậu lấy chồng, một
cậu bé mười sáu, "một người cũng bẩn tương tự như nàng và óc cũng đần
độn không kém gì nàng", gia đình chồng khá giả nhưng cũng dốt nát như
gia đình nàng. Dậu "mới ngoài hai mươi tuổi đã thành một người đàn bà
nái sề ngồi mớm cơm cho con không biết ghê tởm là gì". Rồi Dậu
có thai lần thứ hai, gần đến ngày sinh, bị băng huyết, lên nhà thương Hà Nội
chữa, nhưng vì hà tiện, nằm chỗ thí, không hiểu biết gì, lại sợ sệt nên không
dám kêu đau. Bác sĩ đến khám quá muộn, đứa con trong bụng chết đã từ lâu. Dậu
tắt thở.
Tối
tăm
quá đen tối, cách trình bày không tự nhiên, lời văn đôi chỗ có tính miệt thị,
đồng hoá nghèo với ngu dốt và bẩn thỉu, ông đứng vị trí bề trên nhìn xuống nên
bị chỉ trích cũng phải.
2-
Lần thứ hai, trong truyện Tối tăm bùn lầy
nước đọng của Nhất Linh và Khái Hưng[5],
khi in thành sách đổi tên là Hai vẻ đẹp, hay hơn nhiều; tác giả đối
chiếu hai thực tại: cảnh trong tranh của họa sĩ và cảnh bùn lầy tăm tối ngoài
đời mà họa sĩ dùng làm mẫu.
Doãn
là một người có đủ mọi điều kiện để sung sướng: gia đình mẹ nuôi là cụ Thượng
giàu sang; chàng đậu cử nhân luật, mới đi Tây về, hiện chỉ có một sở thích: đam
mê hội họa: "Những tranh của chàng gửi sang Pháp bán rất chạy, hơn một
năm trời chàng bán có lẽ đến gần một vạn bạc tranh và số tiền đó, chàng đem gửi
cả bà mẹ nuôi để tậu ruộng trong làng." (Ngày Nay số 27)
Một
hôm đang vẽ, trời trở dông, Doãn cố vẽ thật nhanh cho xong cái mái tranh đang
bị gió thổi bạt nóc, hở cả rui mè, vì sợ nay mai họ lợp lại thì không còn… mẫu
nữa! Bỗng chàng thoáng thấy sự ích kỷ của mình và nhìn lại khung cảnh chung
quanh:
"Mấy
mảng bè rau rút màu xanh già, mùa thu rắc hoa vàng lấm tấm, lại càng rõ tăng vẻ
bẩn thỉu của vũng ao tù, nước đen đầy những váng và sặc mùi bùn. Ngay bên cạnh
chỗ chàng ngồi là một đống phân phủ bùn kín và những đám rác đầy ruồi, nhặng
(…) Một đứa bé con trần truồng, đi ra cầu ao, bụng to và hai chân lẳng khẳng
trông tựa một con nhái dựng đứng: Nét mặt Doãn chợt tươi hẳn lên: chàng vẫn
thấy bức tranh của mình như thiếu cái gì, nay có màu hung của da thịt đứa bé
vào, các màu khác trông hoạt động cả lên: chàng sung sướng pha màu và điểm mấy
nét thật khoẻ vào bức tranh." (Ngày Nay số 27)
Sự
vô tư của Doãn cũng chính là sự vô tâm đến nhẫn tâm, tàn ác, vô tình mà không
biết: chàng quen nhìn cuộc sống tối tăm của dân quê như một "công cụ để
làm việc", như một "cảnh mẫu", một "người mẫu", một
vật không có tâm hồn. Nhưng sự vô tâm ích kỷ sẽ dần dần bị sự suy tư chiếm hữu:
Doãn so sánh những mái nhà tranh lụp xụp tối tăm ở hai bên vệ đường với mái
gạch đỏ tươi nhà cụ Thượng và chàng thấy những bẩn thỉu nghèo đói, đến đúng chỗ
bốn bức tường cao ngọn cắm đầy vỏ chai vỡ quây quanh dinh thự của mẹ
nuôi chàng là phải dừng lại. Đó là nhận thức thứ nhất.
Rồi
chàng còn thấy thêm: "Những thứ ánh sáng đẹp đẽ, những màu diễm lệ mà
trong mấy năm trời chàng đã tốn bao nhiêu công phu ghi được lên vải, coi đó là
cái khoái độc nhất của đời chàng, nay không làm rung động lòng chàng nữa. Cùng
với cái mộng của chàng, vẻ kỳ ảo của những màu trong tranh đã tan đi chỉ còn
lại những hình dáng khô khan, trơ trẽn làm Doãn nhớ tới những cảnh thực tiều
tụy bên ngoài" (Ngày Nay số 30). Đó là nhận thức thứ hai.
Cả
hai nhận thức này chập lại cho Doãn cái nhìn chung cục:
Vòng
tường cao vây quanh gia trang cụ Thượng đã chắn hết những lầm than không cho
bén mảng đến cõi đời thực của chàng và gia đình mẹ nuôi. Chàng thản nhiên trước
những ao tù, những vũng bùn nhầy nhụa, những đứa bé trần truồng bụng ỏng, những
con nhặng thô bạo hãnh tiến… Doãn không nhìn thấy, hay chàng đã gạt chúng ra
ngoài cõi biết, bởi tất cả chỉ dành cho nghệ thuật, chàng chỉ muốn làm sao đem
được cái mầu màu hung của da thịt đứa bé, cái màu lý tưởng ấy vào
tranh.
Sự
thức tỉnh của Doãn, cực kỳ đắng cay và chua xót, hơn cả nhận thức của An, trong
Gia đình[6]
trước những tiếng khóc giả dối trong đám ma cha chàng, An thức tỉnh, nhận
ra bộ mặt dối trá của gia đình và xã hội xung quanh.
Ở
đây, Doãn nhận ra sự khác biệt giữa những bức tranh đầy mỹ thuật mà chàng lấy
dân quê làm mẫu và cảnh sống tối tăm của họ làm nền. Doãn nhận thức được sự
dối trá của chính mình. Doãn còn nhận diện cả sự ích kỷ của mình: "Mình
chỉ cốt vẽ, muốn cho người ta ở nhà dột mãi không cho người ta lợp lại mái nhà
nữa". Và cả sự tàn nhẫn: lấy màu da đứa bé tựa một con nhái
dựng đứng đem vào tranh.
Sự
ích kỷ này cũng là sự ích kỷ của nhiều người xa xứ, khi về thấy lũy tre xanh
không còn nữa, tiếc cho cảnh đẹp nên thơ đã mất. Ở đây, Doãn đặt dấu hỏi cho
nghệ thuật: nghệ thuật là gì? Nếu chỉ là sự làm đẹp một thực tại tối tăm, khốn
khổ, thì không thể là việc của chàng.
Tối
tăm bùn lầy nước đọng giải thích tại sao Nhất Linh đã học hơn
một năm ở trường Mỹ thuật rồi bỏ, mặc dù ông vẫn yêu hội họa và gần như cả đời
không bao giờ bỏ bút vẽ. Và cho ta đoán hiểu: có lẽ cuộc đời tranh đấu của Nhất
Linh đã bắt đầu với tác phẩm Tối tăm bùn lầy nước đọng, cùng với sự nhận
thức chung của Tự Lực văn đoàn trước thực trạng xã hội đớn đau của dân tộc
mà Gia đình và Tối tăm bùn lầy nước đọng và là hai tác phẩm mở
đầu.
Nhà
sành tiếng Pháp Cung Giũ Nguyên trong bài Phê bình Tối tăm[7]
đã khen tập truyện như "những bức tranh nhỏ do một nhà nghệ sĩ vẽ ra",
nhưng ông vội ghi thêm: "Thực hơi có giọng Dabit[8]
trong tập truyện "Một đoạn đời" (Trains de vies)".
Rồi
ông khen truyện Hai vẻ đẹp (tức Tối tăm bùn lầy nước đọng) bằng
những hàng:
"Truyện
"Hai vẻ đẹp" đặt trên đầu sách, tôi thấy đặc biệt nhất. Có truyện ấy,
nên mới có những truyện sau. Truyện một linh hồn băn khoăn ấy chịu ảnh hưởng
của Gide nhiều lắm, của Gide tác giả cuốn Nouvelle Nourriture và tôi dám đoán
chắc rằng ông Nhất Linh không viết tập truyện ngắn kia nếu ông đã không đọc tác
phẩm của Gide. Nhiều đoạn trong "Hai vẻ đẹp" có cả giọng Gide một
trăm phần trăm." Ông Cung Giũ Nguyên cho rằng Nhất Linh, năm 1936, đã
sao chép lại cái "linh hồn băn khoăn" của André Gide trong
cuốn Les nouvelles nourritures, in năm 1935, để tạo ra Doãn: Ông đã lấy
điều mình phỏng đoán làm sự thực, khiến Khái Hưng phải ghi chú thích ở dưới:
"Sự băn khoan ấy, Nhất Linh đã có bốn năm trước khi đọc A. Gide. A.
Gide chỉ làm cho nó rõ thêm mà thôi."
Tôi
viết những dòng này vì muốn nhắc lại thói xấu của một số nhà phê bình
"giỏi tiếng Tây", có đầu óc lệ thuộc, cứ thấy cái gì hay là bảo chép
của Pháp, kể cả của tác giả vô danh, hay sách mới ra, dường như chỉ muốn chứng
tỏ sự học rộng của mình.
Vũ
Ngọc Phan chắc không có ý như thế, nhưng vẫn mắc bệnh này: ông thường tìm những
gì hơi giống nhà văn Âu Mỹ, rồi gán cho nhà văn Việt Nam tội sao chép lại, thí
dụ, khi Khái Hưng đưa ra nhân vật trong Đồng xu, ông bảo: cử chỉ
Gravoche! Khi Nguyên Hồng viết hay và bạo về gia đình mình, ông bảo đọc như văn
Nga, văn Anh… Khi viết về Thạch Lam, ông cho rằng mình muốn viết truyện ngắn
hay cũng khó, vì:
"Ở
nước ta đã thiếu hẳn màu, thiếu hẳn hình, hẳn bóng, mà điều quan hệ là thiếu cả
cái cuộc đời thâm trầm, bí ẩn và nồng nàn, cái cuộc đời về tinh thần căn cứ vào
một khuôn tôn giáo cao xa hay một nền xã hội rộng rãi. Ai dám bảo người dân quê
Việt Nam ta đã có một cuộc đời phiền phức như người dân quê Pháp dưới ngòi bút
sáng tác của Roger Martin du Gard" (Nhà văn hiện đại, quyển V)
Tóm
lại, vì cảnh nước ta không có gì, người nước ta không có "đời sống tinh
thần", nên nhà văn không thể viết hay được! Những "nhận định"
kiểu này đã ăn sâu vào đầu óc cả một thế hệ. Khi Nguyễn Huy Thiệp sang Pháp,
một nhà báo hỏi: "Ông chịu ảnh hưởng những nhà văn Pháp và ngoại quốc
nào?" Thiệp trả lời: "Guy de Maupassant, Tây du và Kinh
Phật". Tôi vội ghé tai anh nói nhỏ: "Anh viết hay hơn Guy de
Maupassant nhiều", và "dịch lại" câu của Thiệp thành: "Tôi
có đọc Guy de Maupassant, nhưng chịu ảnh hưởng của Tây Du và Kinh Phật".
Khuynh
hướng đầy mặc cảm thuộc địa này, kéo dài tới ngày nay, tạo ra một căn bệnh mới
của người viết trẻ đối với văn chương: họ không tìm đọc văn chương Việt để trau
dồi cách viết văn mà tôn sùng văn chương ngoại quốc qua những bản dịch đôi khi
không có giá trị gì.
Đôi
bạn
Sau
Tối tăm bùn lầy nước đọng, Nhất Linh không viết trên Ngày
Nay trong hơn một năm, kể từ số 37 (6-12-36) kết thúc Lạnh lùng, đến số
101 (13-3-38) mở đầu Đôi bạn; thời kỳ này có lẽ vì Nhất Linh bận tổ chức
chương trình dựng nhà Ánh Sáng.
Đôi
bạn tiếp
nối Hai buổi chiều vàng, mang hai sắc diện: tình yêu và cách mạng, nhưng
sâu sắc và bao la hơn. Khi đăng trên Ngày Nay từ số 101 (13-3-38) đến số 123
(14-8-38), Đôi bạn có tên là Loan Dũng, chắc để che đậy khía cạnh
cách mạng, nhưng tác phẩm vẫn có một tầm vóc cách mạng lớn, như ta sẽ thấy ở
dưới.
Về
khiá cạnh tình cảm, Đôi bạn cũng không thần túy là truyện tình Loan và
Dũng, mà còn là tình bạn, tình đồng chí của những thanh niên bỏ gia đình đi làm
cách mạng.
Để
hiểu rõ nội dung cách mạng trong Đôi bạn, chúng tôi xin nhắc lại:
Thời
ấy, chúng ta không có quyền tự do lập đảng, hầu hết các đảng phái cách mạng đều
phải đặt trụ sở ở ngoài nước. Theo Hoàng Văn Hoan, Thanh niên cách mạng đồng
chí hội (tiền thân của Dảng Cộng sản) thành lập ở Xiêm năm 1925, tại Bản
Đông, một làng Việt kiều ở huyện Phi-chịt, thuộc tỉnh Phít-xa-nu-lốc miền trung
nước Xiêm[9].
Theo Nhượng Tống, Nguyễn Thái Học không muốn đặt bản doanh ở ngoài nước, và khi
bị truy nã, ông không chịu trốn sang Tàu, vì không muốn để các đồng chí phải
đơn phương gánh vác trách nhiệm.
Đôi
bạn,
viết năm 1937-38, Nhất Linh đã kín đáo tả lại thực trạng cách mạng hồi đó:
người yêu nước phải trốn ra ngoài, và cũng là con đường của Nhất Linh: sẽ thoát
ly gia đình sang Tàu hoạt động như Dũng, Trúc và các bạn.
Về
cốt truyện, Đôi bạn đi trước Đoạn tuyệt, nghiã là xảy ra trước Đoạn
tuyệt, là thời kỳ Loan Dũng mới yêu nhau, Loan chưa đi lấy chồng.
Khi
in thành sách, Nhất Linh bỏ tên Loan Dũng chỉ giữ tên Đôi bạn, có
lẽ vì ông muốn độc giả mở rộng tầm nhìn sang một thế giới rộng hơn: đôi bạn
ngoài nghiã trai gái còn là đôi bạn trai, là tình đồng chí… như Dũng Trúc, Dũng
Thái, Dũng Tạo… Và trong một ẩn ý sâu hơn, có lẽ Nhất Linh muốn chiếu lên màn
ảnh qua ánh sáng nghệ thuật tấm tình thiêng liêng của: Nhất Linh-Khái Hưng,
Nhất Linh-Đỗ Đình Đạo, Nhất Linh-Nguyễn Gia Trí, Nhất Linh-Hoàng Đạo…
1-
Nhận xét thứ nhất về Đôi bạn: tình yêu Loan Dũng:
Nhất
Linh tiếp tục chủ đề tình câm với kỹ thuật mô tả những yên lặng,
đã thấy trong Hai buổi chiều vàng:
"Dũng
đặt mũ xuống bàn và dứng dựa vào thành ghế, hơi nghiêng người để lẩn mặt trong
bóng tối. Loan biết rằng Dũng muốn được tự do nhìn lại mình; hai con mắt nàng
bỗng tươi hẳn lên dưới ánh đèn và hai hàng lông mi nàng hơi rung động. Nhìn
Loan, Dũng thấy rõ ý nàng muốn bằng hai con mắt lặng lẽ diễn cho chàng biết nỗi
vui sướng âm thầm được trông thấy mặt chàng." (Ngày Nay số 107)
Nhưng
ở đây là tình yêu hai chiều giữa hai tâm hồn đồng điệu, giao thoa trong vũ trụ
âm thanh và hồi tưởng:
"Tiếng
nói của Loan nghe trong căn phòng ấm áp; thốt nhiên gợi Dũng nghĩ đến cảnh một
người phiêu lưu ngủ trọ trong quán hàng nước ở một bên đò xa vắng đêm khuya
lạnh sực thức dậy nghe tiếng mưa rơi trên sông và nhớ tới người yêu ở quê cũ"
(Ngày Nay số 108)
Dũng
ít khi lắng nghe nội dung câu nói của Loan, mà chàng chỉ nghe âm thanh tiếng
nói ấy phát ra. Âm thanh ấy luôn luôn dẫn Dũng đến một chân trời khác, ở
đây là đến một quán vắng bên sông.
Nghệ
thuật trong Đôi bạn đi xa hơn Hai buổi chiều vàng: mối tình
câm ở đây tạo ra một không gian mộng tưởng và suy tưởng bao la chưa
từng thấy: nghe tiếng Loan, Dũng tưởng như mình đang phiêu du trong một quán
trọ, đang đêm nghe tiếng mưa rơi nhớ người yêu cũ. Lối lập ngôn đầy liên
tưởng như thế, thường chỉ thấy trong văn Marcel Proust, nhưng có lẽ Nhất Linh
không chịu ảnh hưởng nhà văn này, mà đây chỉ là một sự tình cờ.
2-
Điểm thứ hai, với Đôi bạn, Nhất Linh thực sự bước vào tiểu thuyết nội
tâm, như Khái Hưng với Gia đình, và Thạch Lam với Ngày mới[10]
trước đó. Ba nhân vật chính của ba cuốn tiểu thuyết này: Dũng, An và Trương
đều có một đời sống nội tâm sâu sắc mà các nhân vật khác của họ, xuất hiện
trước đó, chưa có.
Trong
Đôi bạn, Nhất Linh mổ xẻ nội tâm Dũng qua những ý nghĩ của Dũng, để
chiếu ống kính vào tâm hồn Trúc và các bạn, để tìm hiểu vì lý do gì khiến họ bỏ
tất cả để đi làm cách mạng, nhất là Dũng, con nhà quyền quý, tại sao không tiếp
tục sự nghiệp thi đỗ làm quan, lấy vợ, đã được cha vạch sẵn, mà lại thoát ly
gia đình. Và cũng không có một ly do hào hùng nào như lòng yêu nước, thúc đẩy
họ đi làm cách mệnh cả. Riêng đối với Dũng, lý do rõ nhất chỉ là một nỗi buồn
không duyên cớ, ở đâu chàng cũng buồn:
"Dũng
ngẫm nghĩ:
-
Buồn có lẽ vì tại trông thấy bến đò, mình như thấy rõ hình ảnh cuộc đời. Sống
mà nghĩ đến mình sống thì bao giờ cũng buồn. Đã bao lâu mình không làm gì cả
nên mình không có cái gì để quên điều ấy đi…
-
Bến đò không buồn lắm: buồn nhất là những cái quán xơ xác của các bến đò. Mình
là những cái quán ấy, đứng yên trong gió lạnh nhìn cuộc đời trôi qua trước mắt."
(Ngày Nay số 101)
Ta
có thể bảo Dũng mang "nỗi sầu thế kỷ", nhưng không phải vậy, Dũng
mang nỗi buồn của riêng mình gắn bó với sự lầm than của dân tộc, âm ỷ trong
lòng, nhưng không nói ra được.
Các
bạn chàng ra đi, rồi chết.
"Cái
chết của Thái đối với Dũng chỉ là một sự thoát ly, nhưng Dũng thấy rằng người
được thoát ly là chàng chứ không phải Thái" (Ngày Nay số 109).
Khi
nghe tin Thái chết, Dũng thấy mình thoát, chứ không phải là Thái, một
cảm giác cực sâu vì Dũng đã ở trong Thái rồi, nên mới cảm thấy như thế.
Ở đây tình đồng chí sâu sắc hơn tình yêu. Khái Hưng cũng từng viết những lời
tương tự trong Tiêu Sơn tráng sĩ, Tô Ngọc Vân cũng viết về Nguyễn Gia
Trí như thế. Khái Hưng còn dành cho Gia Trí cả một quyển tiểu thuyết Đẹp.
Không những họ hiểu nhau, hiểu nghệ thuật của nhau mà còn hiểu cả những chán
nản, những thất bại, mà vẫn cùng nhau đi tiếp:
"Chàng
chợt nghĩ đến Thái và cuộc đời quằn quại của Thái, một người đã chán cả sự
sống, không tin ở công việc mình, nhưng lúc nào cũng hoạt động để cố vuợt ra
khỏi sự buồn nản bao phủ dầy đặc quanh mình" (Ngày Nay số 114)
Dũng
hoàn toàn là Thái: là cuộc đời quằn quại của Thái, là cái chán
sự sống của Thái, là sự không tin ở công việc mình làm của Thái, vậy
mà lúc nào cũng hoạt động như Thái… tất cả đều là Dũng, là Nhất Linh, và
cũng là Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí cả.
Rồi
khi Tạo chết, Dũng lại thấy ở mình những điểm Tạo làm được mà chàng chưa làm
được:
"Dũng
thấy rằng khi buồn cho Tạo, là chính chàng đã buồn cho đời chàng. Phải sống một
đời ngang trái nhưng chàng không đủ can đảm để thoát ly: thoát ly rồi, cái đời
tương lai của chàng sẽ đại khái như đời của Thái và Tạo, hai cảnh đời mà trước
kia mới nghĩ đến chàng đã thấy buồn nản vô cùng (…).
Chàng
không dám nghĩ đến một đời ở xa Loan, nay đây mai đó như Tạo, rồi một ngày kia
cũng như Tạo chết một nơi xa lạ nào, nằm trong áo quan tối, trong khi Loan đứng
bên mồ, dưới ánh nắng, tà áo trắng của nàng trước gió."
(Ngày Nay số 114)
Dũng
tự soi gương thấy mình yếu đuối, thiếu can đảm, không dám thoát ly gia đình,
chỉ tưởng tượng Loan đứng bên mồ đủ làm chàng rơi lệ. Tóm lại, Dũng không có gì
là anh hùng cả, các bạn Dũng cũng vậy, họ đều yếu đuối, có lúc liệt nhược, chán
nản, họ chỉ có một điểm chung là tình bạn còn tất thẩy đều khác nhau, đều có
những hoàn cảnh gia đình riêng, họ yếu ớt, rời rạc, đi cách mạng vì
những lý do rất tầm thường như chán ghét không muốn ở nhìn thấy mặt mấy bà dì
hạch sách và người vợ béo, rỗ, vô duyên (như Tạo), hoặc không biết làm gì (như
Thái), họ hoàn toàn không có những chủ đích cao siêu, ghê gớm của một người anh
hùng:
"Các
bạn chàng đối với nhau chỉ có mỗi một dây liên lạc chung là là tình bạn hữu,
còn ngoài ra mỗi người đi theo một ngả đường; sống theo một cảnh đời riêng, yếu
ớt, rời rạc. Thỉnh thoảng lại nghe tin một người trong bọn chết đi hay bị tù
tội, rồi ai nấy, trước số mệnh, chỉ việc cúi đầu yên lặng, nơm nớp đợi đến lượt
mình" (Ngày Nay số 109)
Cho
nên Đôi bạn được một nhà phê bình, ông Bạch Năng Thi, đọc khá kỹ Nhất
Linh, cực lực phê phán thái độ yếu ớt, bi quan, tiêu cực, chán nản này:
"Đôi
bạn không làm cho người đọc cảm thấy cái ý nghiã cao sâu, cái giá trị vĩ đại
của cách mạng"[11].
Ông viết rất đúng: Nhất Linh thật tệ, không đưa ra được một vị anh hùng nào, mà
chỉ cho thấy toàn những mảnh hồn vụn nát, những con người "thất bại".
Đúng, vì Đôi bạn không hào hùng như Xung kích, Vỡ bờ của
Nguyễn Đình Thi. Với Xung kích, Vỡ bờ, ta chỉ cần đọc một lần là
biết hết sự vĩ đại của cách mạng, còn càng đọc Đôi bạn, nhiều lần, ta
càng không thể hiểu hết những cái dấm dớ, nhỏ thó, là những lý do dẫn dắt hành
động cách mạng của Tạo, của Thái, đưa Dũng, Trúc đi tiếp con đường dẫn đến chỗ
chết chắc này.
Lý
do, nếu có, ở Dũng, chỉ là một hé cửa sổ vào kỷ niệm, khi chàng còn nhỏ:
"Một
hôm vào công đường, chàng sợ hãi ngừng lại: cha chàng đang rập đầu một người
nhà quê vào tường và tát luôn mấy cái nữa, mặc dầu trán và má người kia đã ướt
đẫm máu" (Ngày Nay số 108).
Hay
một kỷ niệm khác mới hơn, khi chàng đã lớn, Hai Lẫm, một người hầu mới bị đánh,
tâm sự với chàng:
"Bẩm.
Cụ lớn đánh là cụ lớn thương. Hôm thượng thọ cụ cố, cụ lớn cầm đầu con rập vào
tường mấy cái đau chết cha chết mẹ, sưng bươu cả đầu lên. Thế mới biết cụ lớn
còn khoẻ." (Ngày Nay số 109).
Câu
nói của Hai Lẫm làm "chàng nghĩ lại một lần nữa cái cảnh ở phủ đường
chàng đã nhìn thấy mười mấy năm trước. Chàng không khó chịu vì cha mình độc ác
đánh người, chàng khó chịu vì những người bị đánh không kháng cự lại, không lấy
thế làm nhục" (Ngày Nay số 109).
Những
chiếc cửa sổ nhỏ trong đầu Dũng thường phức tạp như thế, Dũng càng nghĩ, mọi
chuyện càng không đơn giản và tất cả những sự kiện xảy ra trong đời chàng đều
như thế cả, đều không rõ ràng dứt khoát, đều không phân biệt biên giới: đúng,
sai; lành, dữ. Dũng đi làm cách mạng vì ghê tởm sự độc ác của cha hay vì khinh
bỉ tính chịu đựng, chấp nhận nô lệ, không dám chống cự thế quyền của dân mình?
Hay vì Dũng thấy "Sự giàu sang đối với mình bấy lâu sao lại như là một
sự nhục" (Ngày Nay số 101). Những điều này không dễ phân tích
rạch ròi, đâu ra đấy được.
Dũng
đã nhìn thấy các bạn bị đuổi khỏi trường, bị bắt, bị tù. Phương chết. Tạo chết.
Thái chết. Dũng cảm thấy tình yêu với Loan tha thiết đến nhường nào, nhưng
chàng không dám dấn thân. Tất cả những bài toán nội tâm của Dũng, đi từ những
suy nghĩ đầy nghi vấn ban đầu, khi Thái, trốn sang Tàu, Dũng tự nhủ: "Anh
Thái đi như vậy để làm gì: chẳng qua không biết làm gì nữa thì liều lĩnh"
(Ngày Nay số102), rồi dần dần những ý tưởng chuyển xoay, nung nấu trong đầu như
một thỏi sắt được tôi luyện ngày này qua ngày khác, dẫn chàng đến dứt điểm ra
đi, mà vẫn không xác định được "lý tưởng cao quý" của mình.
Các
bạn của Dũng cũng phức tạp như thế, mỗi người có một tâm sự riêng, một câu hỏi
riêng. Họ ra đi vì những lý do tầm thường, không có gì cao siêu cả: "Dũng
có cái cảm tưởng rằng Thái đi như là đi thay cho mình, hình như tất cả những
nỗi chán chường, đau khổ của một đời mình Thái đã đem đi theo hết" (Ngày
Nay số 102). Ngay chuyện họ bị bắt, cũng chỉ là những thông tin vụn vặt: "Anh
Thái bị bắt rồi. Mai giải vể tỉnh" (Ngày Nay số 105). Tất cả chỉ là
những mảnh rời ý tưởng và sự kiện tầm thường, không có giá trị vinh thăng, hào
hùng nào cả.
Chính
ở chỗ tầm thường ấy, nó mới giống chúng ta, những con người tầm thường đến một
lúc nào đó, phải làm chuyện bất thường, không định trước. Và đó là sự thành
công: dưới lớp áo phong sương mơ mộng lạc loài của một chàng trai buồn bã nghe
đời mình trôi dạt như những quán vắng bên sông, Dũng âm thầm trở thành thần
tượng cho nhiều lớp thanh niên đứng lên theo kháng chiến, quốc gia hay cộng
sản.
Một
bài viết ký tên Nguyễn Đăng, buộc tội gay gắt Đôi bạn, không thể nào lẫn
được bút pháp độc đáo của Mai Thảo[12]:
"Nấm
mộ người đã chết nằm trong trái tim và trí nhớ người còn sống. Đã hai mươi năm,
một nấm mộ lớn đã hoang dâm cỏ trùm cao ngất trái tim tan vỡ của cụ Trình, làm
yếu dần từng nhịp đập, cướp đi từng lượng máu, khiến cuộc đời thoi thóp ấy chỉ
còn là cái lạnh tanh rùng rợn của một cái chết dần mòn".
Nấm
mộ là mồ Đường bạn Mai Thảo và là con duy nhất của cụ Trình, người ngày nào
cũng lên Quan Thánh nghe diễn thuyết. Đường đi kháng chiến theo tiếng gọi của
Dũng rồi bị Việt Minh bắt trong rừng.
"Không
một mật hiệu liên lạc, không một dấu hiệu dẫn đường, vậy mà, giữa thời kỳ đảng
tranh đẫm máu, hàng nghìn người trẻ tuổi Hà Nội ước mơ được sống đời sống hào
hùng của nhân vật tiểu thuyết Dũng, đã rất thảng thốt và rất điên cuồng lên
đường. Núi rừng là tình yêu. Cách mạng là quê hương. Lãnh tụ là mặt trời và
thần tượng là đối tượng ấy của một khát khao tìm kiếm."[13]
Dù
không đồng ý với Mai Thảo cũng phải công nhận ông đúng một phần: Nhất Linh đã
lôi cuốn được ngàn, vạn thanh niên theo kháng chiến qua nhân vật Dũng, kẻ tự
thấy mình là những cái quán bên sông, đứng yên trong gió lạnh nhìn cuộc đời
trôi qua trước mắt.
Đã
có bao nhiêu người đi kháng chiến vì không muốn đứng yên trong gió lạnh nhìn
cuộc đời trôi qua trước mắt? Chúng ta có biết? Chúng ta có hay?
Bướm
trắng
Tiếp
theo Đẹp của Khái Hưng, Ngày Nay đăng Bướm trắng của Nhất Linh,
từ số 202 (9-3-40) đến số 224 (7-9-40). Bướm trắng, tác phẩm đi trước
thời đại, dùng những thủ pháp sau này sẽ thấy trong triết học hiện sinh mà lúc
đó ông chưa hề tiếp cận. Bướm trắng đặt vấn đề: Nếu bạn chỉ có một năm
để sống, thì bạn làm gì? Trương, nhân vật chính bị lao, mà ở thời điểm đó, lao
không chữa được.
Trương
gạn hỏi mãi, bác sĩ vô tình khuyên: "Anh đừng lo vội… Anh còn chán thì
giờ mà lo liệu việc của anh. Phổi và tim ấy cũng còn được một năm nữa là ít."
(Ngày Nay số 204). Câu này là đầu mối cho những suy nghĩ và hành động của
Trương.
Nhất
Linh đi theo Trương như một thám tử không bỏ sót một cử chỉ, một hành động, một
suy nghĩ nhỏ nhoi nào trong óc Trương. Nhất Linh vận dụng mọi khả năng tinh
thần mà ông sở hữu và chưa từng áp dụng một cách triệt để như thế trong cuốn
tiểu thuyết nào viết trước, về tình yêu, về sự ganh ghét, bội bạc, trả thù,
đoạn tuyệt, tự tử, lạm dụng, bất lương, tuyệt vọng… Cần gì, mình sẽ chết nay
mai, tất cả đều có thể làm được, kể cả tội ác, bởi vì cái chết sẽ xoá đi tất
cả. Trương bán nhà để vung vít vào đời sống trụy lạc. Cho đến khi tiêu hết mà
vẫn chưa chết. Nhưng mọi sự không đơn giản như vậy: song song với cảm giác bất
cần, tự huỷ, vẫn còn một cuộc sống hiện hữu, là Thu và tình yêu Thu, mãnh liệt.
Ban đầu Thu vô tình, nhưng sau, vì tình cờ Thu nhìn thấy cảnh Trương vào trộm
phòng Thu:
"Chàng
đến gần bên giường. Nhìn qua khung cửa sổ ra ngoài không thấy bóng ai, Trương
với chiếc áo cánh của Thu rồi úp mặt vào chiếc áo mà chàng âu yếm vò nát trong
hai bàn tay. Lụa áo Trương thấy mềm như da người và mùi thơm hơi cay, không
giống hẳn mùi thơm của nước hoa – xông lên ngây ngất." (Ngày
Nay số 206).
Không
một người phụ nữ nào có thể cưỡng lại một sự "tỏ tình" mãnh liệt mà
âm thầm như thế. Qua màn này, Nhất Linh trở thành nhà văn viết về tình yêu say
đắm và tế nhị nhất. Và khi đã viết về tình yêu được tới mức ấy, thì tất cả
những vấn đề khác của Trương, Nhất Linh cũng mở ra được tới ngọn nguồn, kể cả ý
định tự tử.
Đọc
lại Bướm trắng bây giờ, lúc này, ta đã có đủ khoảng cách để nhìn lại
việc tự tử của Nhất Linh, mà tôi chắc rằng, khác với sự tung hô, thánh hoá ban
đầu, năm 1963, sau khi ông mất.
Dường
như không phải đến thời ông Diệm, Nhất Linh mới có ý định ấy, mà ông đã nghĩ
đến vấn đề này từ khi viết Bướm trắng. Và khi ông thực hiện ý định, năm
1963, ta vẫn có thể cho rằng đó là ý định của nhà văn chứ không phải nhà chính
trị, tôi muốn tin như thế, bởi vì cái chết của Nhất Linh, nhà văn, có ý nghiã
triết lý, của con người đứng trước định mệnh, sẽ khác hẳn và "cao"
hơn cái chết của một lãnh tụ đảng phái, chống lại một đối thủ chính trị khác.
Cái
chết của Hemingway, của Kabawata, gợi sự lãng mạn bí mật khiến ta không thể
hiểu nổi; hoặc chỉ có thể đoán rằng: sau khi đã khám phá mọi chiều sâu của sự
sống, nhà văn muốn thám hiểm cái chết, nhưng sau khi chết, họ không còn sống
lại để viết về cái chết như thế nào. Tôi nghĩ Nhất Linh đã từng ở trong những
bí mật ấy, và ông đã đem đi, mãi mãi.
Nhất
Linh viết Bướm trắng trong thời gian xây dựng đảng cách mạng, đang phải
lẩn tránh: Trương biết trước mình chỉ sống được một năm, cũng là thách đố của
Nguyễn Tường Tam khi ra lập đảng Hưng Việt, chắc mình chỉ sống được một
năm là cùng, rồi sẽ bị bắt, nên có lúc đã nghĩ đến tự tử.
Trong
Bướm trắng sự tự tử được phân tâm như hành động chấm dứt một cuộc sống,
bởi con người đằng nào cũng phải chết, thì chết hôm nay, hay một năm nữa, có
khác gì? Ý định ấy lởn vởn trong đầu Trương, không chỉ lúc đầu, khi biết mình
sẽ chết vì bệnh lao, mà còn trở lại khi Trương thấy mình yêu Thu, càng mãnh
liệt hơn khi biết Thu cũng yêu mình.
Tất
cả những ý tưởng yếm thế của Trương có thể chỉ là sự khủng hoảng tinh thần của
một người đang đi trốn: Trương trốn tình yêu của Thu, vì không muốn "làm
hại" đời Thu, mặc dù không phải là không có lúc Trương rất muốn.
Bướm
trắng viết được những mâu thuẫn kịch liệt trong con người, từ chỗ
"bình thường" đến chỗ tha hóa cực điểm, không thể giải thích được,
khiến mỗi lần đọc, ta lại thấy nẩy nở những ý khác, đó là một trong những cuốn
tiểu thuyết đa nghiã đầu tiên của văn học Việt.
Hơn
hai năm sau, Khái Hưng viết Băn khoăn, cũng trong chiều hướng Bướm
trắng. Lúc đó Ngày Nay đã đóng cửa, có lẽ Khái Hưng viết trong trại tù Vụ
Bản, tác phẩm diễn tả nỗi băn khoăn của Cảnh, một thanh niên con nhà,
hai đời cự phú, tiền của nhiều quá không biết làm gì, bằng cấp, việc làm, đối
với chàng là vô ích, không cần dùng đến. Chơi bời mãi cũng nhàm. Thậm chí cả
đến đời chàng, Cảnh cũng không biết "dùng" làm gì nữa, cho khỏi chán.
Tự tử chăng?
Băn
khoăn là tiểu thuyết sau cùng của Khái Hưng, viết sau khi chia
tay Nhất Linh, họ vẫn đi cùng một hướng: tiếp tục mổ xẻ chiều sâu tư tưởng
con người và ở đây, họ đều ghi nhận sự tha hoá cực kỳ của một hạng thanh
niên thành thị. Loại người này không chỉ có ở Việt Nam thời Pháp thuộc mà có ở
khắp nơi, mọi thời, ngay bây giờ. Đi vào mê lộ trong lòng người cũng là hướng
của tiểu thuyết mà sau này được gọi là tiểu thuyết mới, thoát thai từ
triết học hiện sinh.
(Còn
tiếp)
Thụy
Khuê
thuykhue.free.fr
[1]
Lạnh lùng đăng trên Ngày Nay từ số 16 (12-7-36) đến số 37 (6-12-36).
[2]
Trương Tửu, Kết án đời mưa gió, Ích Hữu số 97 (29-12-37).
[3]
Trương Tửu, báo Thời Thế, trích theo Ngày Nay số 54.
[4]
Cùng với các truyện ngắn: Mười năm qua, Cái tẩy, Vết thương,
Câu chuyện mơ trong giấc mộng, Lan rừng. Trong số đó Cái tẩy
và Lan rừng hay hơn cả.
[5]
Tối tăm bùn lầy nước đọng của Nhất Linh và Khái Hưng, in trên Ngày Nay
từ số 27 (27-9-36) đến số 32 (1-11-36). Cuối năm 1936, Đời Nay in tập truyện
ngắn Tối tăm của Nhất Linh, tập hợp mấy truyện: Người nông phu, Một
kiếp người, Hai vẻ đẹp, Hai chị em, Đầu đường xó chợ. Còn
bốn chữ Bùn lầy nước đọng sẽ trở thành tên tập tiểu luận phóng sự của
Hoàng Đạo về đời sống đen tối của dân quê. (Xem chương: Ngày Nay tranh đấu).
Một kiếp người chính là truyện ngắn Tối tăm của Nhất Linh đã đổi
tên và Hai vẻ đẹp chính là truyện Tối tăm bùn lầy nước đọng của
Nhất Linh và Khái Hưng và là tác phẩm chính trong tập truyện Tối tăm
này.
[6]
Tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng đăng trên Ngày Nay từ số 30
(18-10-36) đến số 64 (20-6-37), chúng tôi đã phân tích kỳ trước.
[7]
Cung Giũ Nguyên, Phê bình Tối tăm, Les Cahiers de la jeunesse số 4,
tháng 12-36; in lại trên Ngày Nay số 52 (28-3-37).
[8]
Dabit là một nhà văn bình dân, tác giả L’Hôtel du Nord, được đóng thành
phim.
[9]
Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, Nhóm tìm hiểu lịch sử, 1991,
Portland, Hoa Kỳ, trang 43.
[10]
Ngày mới, in trên Ngày Nay, từ số 66 (4-7-37) đến số 92 (2-1-38).
[11]
Bạch Năng Thi, Nhất Linh tác giả tiêu biểu, Văn Học Việt Nam 1930-1945),
Tập I, Nxb Giáo Dục, 1961; in lại trong Tự Lực văn đoàn trong tiến trình văn
học dân tộc, nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội 2000, trang 225.
[12]
Mai Thảo tên thật là Nguyễn Đăng Quý.
[13]
Nguyễn Đăng, Chuyện một người mà Nhất Linh là thần tượng, Văn số 37
(1-7-65) Thương nhớ Nhất Linh, trang 91.
Nguồn: Văn Việt