Ngày
Nay tiểu thuyết
Khái
Hưng
Khái
Hưng, đã khai phá truyện ngắn và tiểu thuyết trên Phong Hóa như chúng tôi đã
trình bày, sang báo Ngày Nay, ông vẫn giữ vai trò chủ chốt cùng với Nhất Linh,
nhưng có thêm các tác giả trẻ, nên văn chương trên Ngày Nay đa dạng hơn, bao
phủ lên nhiều từng lớp xã hội, thôn quê, thị thành.
Phóng
sự
của Trọng Lang lật trái bộ mặt sa đọa của Hà thành. Hiện thực tả chân của
Trần Tiêu đi sâu vào đời sống dân quê, của Nguyên Hồng chiếu vào những đứa trẻ
bất hạnh. Tiểu thuyết luận đề về phụ nữ và gia đình của Khái Hưng, Nhất
Linh, tố cáo bộ mặt thật của xã hội miền Bắc thời Pháp thuộc. Truyện ngắn
của Thạch Lam khám phá đời sống nội tâm của con người. Tiểu thuyết, đơn
thuần tiểu thuyết, tức là tiểu thuyết trong nghiã toàn diện, của Khái Hưng,
Nhất Linh, đưa văn chương Việt Nam đạt tới các giá trị tư tưởng.
Chúng
tôi sẽ lần lượt tìm hiểu những nét đặc thù này trong tiểu thuyết trên Ngày Nay.
Nhưng trước khi đi xa hơn, có hai vấn đề xin đưọc nêu ra, về:
-
Tiểu thuyết hiện thực xã hội.
-
Và vấn đề nữ quyền.
Tiểu
thuyết hiện thực xã hội
Vũ
Ngọc Phan xếp Khái Hưng vào khuôn tiểu thuyết phong tục, Nhất Linh vào
khuôn tiểu thuyết luận đề. Sự thực không hẳn như thế.
Khái
Hưng không viết về phong tục hơn một nhà văn khác, nếu kể về phong tục ở thôn
quê, thì Trần Tiêu viết nhiều và kỹ hơn.
Tiểu
thuyết luận đề cũng không chỉ có Nhất Linh, mà hầu như tất cả bốn người: Nhất
Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo đều có lúc viết tiểu thuyết luận đề.
Khi
một tác giả viết tiểu thuyết luận đề tức là có ý đưa ra một chủ
đề tranh đấu, khác với một tác giả viết tiểu thuyết hiện thực xã hội thuần
tuý, không có ý tranh đấu gì cả.
Thí
dụ: Nhất Linh trong Đoạn tuyệt, có ý tranh đấu, chống lại cảnh mẹ chồng
nàng dâu; còn Nguyễn Công Hoan trong Cô giáo Minh, không có ý đấu tranh,
mà chủ trương dĩ hòa vi quý, mới cũ đều có thể sống chung.
Một
thí dụ khác, sâu sắc hơn, là trường hợp Hồ Biểu Chánh.
Hồ
Biểu Chánh, nhà văn hiện đại tiên phong của Việt Nam, nhưng ông còn tiên phong
trong địa hạt hiện thực xã hội nữa: Hồ Biểu Chánh tả đủ mọi hạng người,
mọi tầng lớp, sang trọng, nghèo hèn, lương thiện, bất lương… nhưng ông chỉ mô
tả chứ không có ý cải tạo xã hội, vì vậy tiểu thuyết của ông không
phải là tiểu thuyết luận đề. Hồ Biểu Chánh cũng không có ý tìm hiểu đời sống
tinh thần của các nhân vật. Ta không biết gì về những sự “xung đột tư
tưởng” trong đầu chị Ba Thời, lúc sắp nhặt được đứa bé rơỉ:
“Ba
Thời đứng lóng nghe thì tiếng khóc một hồi rồi nín. Chị ta vừa muốn bỏ đi, lại
nghe khóc nữa. Chị ta mới làm gan lần lần đi vô chỗ bụi lứt coi vì cớ nào mà có
con nít khóc trong đó. Đi gần tới thì tiếng khóc lại càng lớn hơn nữa” (Cay
đắng mùi đời)
Đọc
đoạn văn trên, ta chỉ biết những động tác thể xác của Ba Thời, mà không biết
chị nghĩ gì, lúc nghe thấy tiếng trẻ khóc và hành động. Khi Hồ Biểu Chánh tả
thằng nhỏ tắm cho heo cũng vậy:
“Thằng
nhỏ vỗ trên lưng con chó vài cái rồi đi lại chỗ khạp nước để trước cửa đứng mà
kêu heo: “Quắn, quắn ột! Quắn ột, ột, ột… Con heo núc ních đi lại, thằng nhỏ
mới lấy gáo múc nước trong khạp xối mà kỳ rửa bùn đất sạch sẽ rồi lùa vô nhà”.
(Cay đắng mùi đời)
Đó
là lối viết truyền thống của các nhà văn hiện thực xã hội (trải dài
trong thế kỷ XIX, với những Balzac, Zola…). Các nhà văn hiện thực xã hội
của ta, đầu tiên là Hồ Biểu Chánh, rồi đến Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố, Nam Cao… đều viết như thế cả, tức là họ không quan tâm đến phần tư
tưởng, phần tâm hồn của nhân vật. Chỉ riêng Hồ Biểu Chánh, không những ông
tả được mọi loại người, mọi hoàn cảnh, một cách chính xác, sống động, tự nhiên,
mà ông còn để lộ tấm lòng nhân bản của một nhà văn lớn, một bậc thầy.
Cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xuất hiện một lối viết mới, chiếu vào đời sống tâm
hồn của nhân vật, đôi khi chính là tâm hồn tác giả, André Gide tạo ra môt thứ
nhân bản mới, đi sâu vào nội tâm con người, và ông là một trong những tác
giả đã có ảnh hưởng tới Tự Lực văn đoàn. Ta thử đọc một câu văn của Thạch Lam:
“Tân
tò mò ngắm nhìn cái đầu bé phủ tóc đen và mướt. Chàng thấy một cảm tưởng lạ,
không rõ rệt, nẩy nở trong lòng. Nhưng cái rúm thịt động đậy, cái mầm sống nhỏ
mọn và yếu ớt kia hình như không có một chút liên lạc gì với chàng cả” (Đứa
con đầu lòng).
Văn
Thạch Lam khác với văn Hồ Biểu Chánh như thế nào?
-
Thạch Lam mô tả mối liên hệ giữa đứa bé sơ sinh với người bố: Người bố nhìn đứa
con mới đẻ, thấy nó như một nhúm thịt biết động đậy và nó không gây cho
anh ta một cảm giác nào. Nhận xét này vô cùng tinh vi, vì không chỉ có người
bố, cả đến người mẹ, sau khi sinh, nhìn con, cũng có cảm tưởng như thế: mệt
mỏi, trống rỗng, chưa có cảm tình gì với nó cả. Cái mầm sống nhỏ mọn kia sẽ
dần dần chinh phục bố mẹ nó, tình yêu, sẽ đến, đến sau do chính nó ban ra…
Vậy
sự khác biệt sâu xa ở đây là: Hồ Biểu Chánh không nói gì đến “nội tâm” của chị
Ba Thời khi bắt được đứa bé rơi, hay thằng nhỏ nghĩ gì lúc nó tắm cho heo,
nhưng tất cả những tình cảm của hai nhân vật này, ta có thể thấm được, khi đọc
Hồ Biểu Chánh, bởi ông là nhà văn có trữ sẵn tính nhân bản, ông “thả dần” ra
trong mỗi hành động của nhân vật: ông cho thằng nhỏ gọi con heo là “Quắn,
quắn ột!” nó lại ngay, tức là thằng nhỏ đã thân yêu với con heo lắm
rồi, còn chị Ba Thời khi nghe trẻ khóc, rồi nín, định bỏ đi, nhưng nó lại
khóc, chị mới “làm gan” quay lại. Phải có tâm và có tài
như Hồ Biểu Chánh mới viết được những động tác nhỏ nhặt mà cơ bản như thế:
những nhỏ nhoi đó làm cho độc giả thấm được tấm lòng nhân trong ông; còn như
đọc Nguyễn Công Hoan chẳng hạn thì ta không thấy có một lớp tình cảm nào khác ẩn
giấu bên trong câu văn, vì văn Nguyễn Công Hoan thường chỉ có một lớp, hoặc đọc
Lê Văn Trương, ta chỉ thấy người hùng cứng ngắc như máy không giống ai, và cả
hai nhà văn này đều đưa ra những cốt truyện tình tiết éo le, hấp dẫn. Ngay đọc
Vũ Trọng Phụng, ta cũng chỉ thấy sự căm hờn con người. Đó là cái khác nhau giữa
các tác giả.
Khi
đọc một câu văn nào đó của Thạch Lam, ta luôn thấy ẩn hiện tâm hồn nhân vật ở
trong, mà cũng là tâm hồn tác giả. Câu văn của Thạch Lam trên đây, còn bộc lộ lối
nhìn vào tâm hồn nhân vật trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, mà những tiểu
thuyết gia hiện thực xã hội thời đó, chưa chú ý, chưa đề đạt đến. Đó cũng là
cái khác nhau về trình độ giữa tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn và những tiểu thuyết
hiện thực cùng thời.
Thời
đó, ngoài Tự Lực văn đoàn, còn có những nhà văn quy tụ chung quanh nhà xuất bản
Tân Dân của Vũ Đình Long, người chủ trương tuần san Tiểu thuyết thứ bảy
(1934-1935) và Phổ thông bán nguyệt san (1935). Nhóm Tân Dân có những
ngòi bút nổi tiếng như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Lan Khai, Lê Văn
Trương, v.v. Trừ Vũ Trọng Phụng, xuất sắc trong thể loại hoạt kê và Lan Khai
trong truyện đường rừng, Nguyễn Công Hoan và Lê Văn Trương chỉ là hai nhà văn
dễ đọc và ăn khách. Vì vậy, có thể nói: Tự Lực văn đoàn thực sự “không có đối
thủ”.
Phụ
nữ và báo chí trong Nam
Ở
Pháp, khi Simone de Beauvoir cho in cuốn Le deuxième sexe (Phái thứ
nhì), năm 1949, ra đường bà còn bị nhiều người đàn bà nhổ bọt hoặc đổi vỉa hè.
Ở
Việt Nam, dù sống dưới chế độ bị trị, mà người phụ nữ xuất hiện trên văn đàn
khá sớm: Miền Nam là thuộc địa Pháp đầu tiên, được coi là “đất Pháp” nên những
tư tưởng mới ở châu Âu cũng nhập vào miền Nam trước. Miền Nam còn được hưởng
một chế độ cai trị “tự do” hơn ở Trung và Bắc, nên đã in được những sách, báo
tiến bộ, đáng kể nhất là bốn sự kiện sau đây, có trước thời Tự Lực văn đoàn:
1-
Năm 1918, tờ báo đầu tiên của phụ nữ ra đời, tờ Nữ Giới Chung (Tiếng
chuông của nữ giới), chủ bút là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh (Nguyễn Thị Khuê) con
thứ tư nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Tiếc rằng Nữ Giới Chung chỉ sống được
năm tháng thì ngừng (số 1 ra ngày 1-2-1918, đến ngày 19-7-1918, đóng cửa).
Sương Nguyệt Anh có người con gái duy nhất là Mai Huỳnh Hoa, sau sẽ là vợ Phan
Văn Hùm.
2-
Bản Tuyên Cáo Nhơn quyền và Dân quyền do Tân Nam Tử dịch và chú giải,
trong cuốn Dân Đạo và Dân Quyền, do nhà Xưa Nay của Nguyễn Háo Vĩnh in
năm 1926, 3000 cuốn.
3-
Tác phẩm Ngồi tù khám lớn của Phan Văn Hùm, một trong những nhà lãnh đạo
cách mạng Đệ Tứ, đàn em của Nguyễn An Ninh, viết về điều kiện lao tù trong khám
lớn và tổ chức hội kín Nguyễn Anh Ninh, do nhà Bảo Tồn in năm 1929, nhưng bị
tịch thu ngay.
4-
Năm 1929, Phụ Nữ Tân Văn, tờ báo thứ hai do phụ nữ lãnh đạo ra đời, do
bà Nguyễn Đức Nhuận[1]
nhũ danh Cao Thị Khanh sáng lập. Ông Nguyễn Đức Nhuận làm chủ nhiệm. Toà soạn
tại số 42, đường Catinat, Sài Gòn, đặt ngay trên lầu cửa hàng tơ lụa của bà.
Năm sau, tờ báo phát triển, bà dời cửa hàng tơ lụa đi chỗ khác, dành địa chỉ
cho riêng báo Phụ Nữ Tân Văn.
Những
hình ảnh in trên Phụ Nữ Tân Văn trong những buổi họp mặt lớn tại toà báo, chứng
tỏ hiện trạng nam nữ bình quyền thời bấy giờ, ít nhất trong chủ trương
của tờ báo.
Trong
sáu năm hiện diện (1929-1935), Phụ Nữ Tân Văn quy tụ nhiều tên tuổi sáng
giá trong làng văn làng báo: Đào Trinh Nhất, Phan Khôi, Trịnh Đình Thảo, Tản
Đà, Nguyễn Tử Thức, Bùi Thế Mỹ, Cao Văn Chánh, Nguyễn Háo Đàng, Nguyễn Háo Ca,
Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình, Thiếu Sơn, Vân Đài, Viên Hoành, Nguyễn Thị Kiêm tức
Nguyễn Thị Manh Manh, Phương Lan, Phan Thị Nga, Cao Ngọc Môn, Trần Thanh Nhàn,
v.v. Đến năm 1933, 34, có thêm hai kiện tướng Phan Văn Hùm, Diệp Văn Kỳ cộng
tác[2].
Phụ
Nữ Tân Văn, được phát triển là nhờ hai cây bút nổi danh Phan Khôi và
Đào Trinh Nhất, thay phiên nhau làm chủ bút. Ngoài nghiệp vụ báo chí, Phụ Nữ
Tân Văn, còn tiên phong trong việc thông tin về hai phong trào cách mạng,
mà các báo ngoài Bắc lúc đó không dám đưa tin: Cuộc khởi nghiã Yên Bái của Việt
Nam Quốc Dân Đảng (1930) và loạt bài Cái đời gian truân lưu lạc của cụ Phan
Văn Trường (1933) của V.A (Phạm Vân Anh) viết vể sự nghiệp nhà cách
mạng Phan Văn Trường, sau khi ông mất. Loạt bài này đầy đủ và đáng tin cậy hơn
cả, vì dựa vào hồi ký Phan Văn Trường và vào tài liệu gia đình do chính ông
cung cấp.
Về
Việt Nam Quốc Dân Đảng, Phụ Nữ Tân Văn, không những đã đưa tin đầy đủ (theo
thông tin của chính quyền thuộc địa), nhưng quý hơn cả là đã in hình căn cước
13 nhà cách mệnh lên đoạn đầu đài ngày 17-6-1930. Đây là một tài liệu vô cùng
quý giá. Sử gia Pháp François Guillemot, trong một bài nghiên cứu trên internet
mới đây, đã tìm ra xuất xứ bức carte postale in hình 13 đầu “pirates” (giặc
cướp), được quảng bá khắp nơi trên sách Pháp thời thuộc địa và được in lại
trong sách Việt Nam Quốc Dân Đảng của Hoàng Văn Đào, chỉ là bức hình đã
được thực dân chụp cuối thế kỷ XIX.
Phụ
Nữ Tân Văn còn tường thuật hậu quả vụ hành hình Yên Bái ở khắp nơi trên đất
nước. Đặc biệt tại Pháp, có danh sách sinh viên đi biểu tình trước điện
Élysées, bị trục xuất về nước, sau này đều trở thành những nhà cách mạng quốc
gia và cộng sản đệ tam, đệ tứ; ta mới hiểu được hệ quả của cuộc khởi nghiã Yên
Bái trên toàn bộ cách mạng dân tộc. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một
chương khác. Ở đây chỉ ghi lời Nguiễn-Ngu-Í:
“Hồi
có cuộc khởi nghiã Yên Bái và vụ xử án các nhà cách mạng Việt Nam Quốc Dân
Đảng, chính độc giả ngoài Bắc lại trông đứng trông ngồi những số báo Phụ Nữ Tân
Văn từ trong Nam gởi ra để được nghe những lời nói can đảm, binh vực cho những
kẻ đã hy sinh cho giống nòi và đất nước. Những lời nói như thế không thể có
được ở báo giới miền Bắc hồi bấy giờ.”[3]
Trong
số những khuôn mặt phụ nữ nổi tiếng tân tiến thời đó, có cô Nguyễn Thị Kiêm tức
thi sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, một trong những người đầu tiên làm thơ mới và
nhiều lần đăng đàn diễn thuyết cổ võ cho thơ mới. Năm 1950, Nguyễn Thị Manh
Manh sang Pháp rồi ở lại.
Bà
Nguyễn Đức Nhuận, người sáng lập Phụ Nữ Tân Văn, qua đời tại Pháp năm 1962, có
thi sĩ Nguyễn Thị Manh Manh và họa sĩ Lê Thị Lựu, đưa tiễn tới nơi an nghỉ cuối
cùng[4].
Đó
là ba người phụ nữ đã tiên phong bước vào xã hội từ những năm 30 của thế kỷ
trước và để lại dấu ấn cho đời sau.
Vậy,
những người ủng hộ nữ quyền, thời đó, có những ai?
Đáng
kể nhất là Phan Khôi trên Phụ Nữ Tân Văn và Khái Hưng trên Ngày Nay.
Khái
Hưng, Dưới bóng tre xanh
Trên
Ngày Nay, Khái Hưng vẫn giữ vai trò đầu đàn văn nghệ.
Sau
khi Phong Hóa chết, trên Ngày Nay số 16 Khái Hưng viết kịch Chết như một
bài xã luận, với lời di chúc của Phong Hóa:
“Điều
quan trọng… Là công cuộc chúng ta theo đuổi… vẫn tiến hành như thường… dù xẩy
ra việc gì mặc lòng… dù một người trong bọn ta chết đi”
Và
Ngày Nay số 16 đã sống lại, với hai truyện dài: Những ngày vui của Khái
Hưng, viết về thời kỳ thành lập Phong Hóa và Tự Lực văn đoàn (xem chương Sự
thành lập Tự Lực văn đoàn, phần II) và Lạnh Lùng, đánh dấu việc Nhất
Linh bước sang địa hạt tiểu thuyết tư tưởng.
Nhưng
trước đó, từ Ngày Nay số 1 (30-1-35) đến số 13 (21-5-35), Khái Hưng đã viết Dưới
bóng tre xanh[5],
một tiểu thuyết luận đề, cổ động quyền tự do giáo dục cho phụ nữ,
truyện viết dang dở thì ngừng, vì Ngày Nay không ra đều, năm 1936, Đời Nay in
thành sách.
Dưới
bóng tre xanh, đả phá việc không cho con gái đi
học. Chủ đề này Khái Hưng đã nói đến trên Phong Hóa số 3 (30-6-32), trong
bài xã luận Một câu hỏi mà Trần Khánh Giư đặt ra để biện hộ cho việc con
gái cần phải đi học để có kiến thức, nâng cao đời sống gia đình và giúp đỡ
xã hội.
Vấn
đề không cho phụ nữ đi học, do xã hội phụ quyền áp đặt từ thời cổ, người phụ nữ
đã quen đi, chịu nô lệ sống trong dốt nát suốt đời, không bao giờ ngóc đầu lên
được, họ trở thành phái thứ nhì (deuxième sexe) chữ của Simone de
Beauvoir, tức là loại công dân hạng hai, chưa thật sự là người đúng nghiã.
Không
cho con gái đi học: nhân loại đã tự gạt bỏ một nửa trí óc của mình ra khỏi đời
sống mà không biết.
Ở
nước ta, xã hội miền Bắc khép kín hơn xã hội miền Nam rất nhiều. Người phụ nữ
miền Bắc mang sẵn “định mệnh” phải hy sinh cho chồng, chịu đựng bất kể giá nào,
dù người chồng là đồ vô lại, nghiện hút, cờ bạc… Định mệnh này chỉ có thể giải
thoát được sau khi chết. Trần Tiêu đã khắc tạc nên hình ảnh chị xã Bổng, trong
truyện Chồng con.
Dưới
bóng tre xanh, đánh vào sự dốt nát không ngóc đầu
lên được, chỉ vì vô học mà người phụ nữ chưa bao giờ biết nghĩ tới số phận
mình: Bà Nhi người mẹ goá, suốt ngày bên khung cửu dệt vải. Một hôm bà nhận được
lá thư, một sự hiếm có, phi thường, không biết tin lành hay dữ. Nhận thư
phải có chữ ký, nhưng không ai biết ký, không ai biết đọc. Phải đợi tìm được
Dao về. Bà Nhi chỉ có Dao, người con trai được đi học và có vợ, nhưng cả ngày
rong chơi cờ bạc, chẳng làm lụng gì. Còn cô con gái yêu là Cúc, xinh đẹp, nhưng
không biết chữ, đanh đá, tục tằn, thô lỗ. Lá thư báo tin Thanh, con trai người
bạn cũ của ông Nhi, và là bạn học của Dao, được bổ về làng dạy học, ngỏ ý muốn
ở trọ nhà bà Nhi.
Thanh
về, mới nhận thấy dân quê có thể ăn nhịn ăn để bỏ tiền mua một chân nhiêu xã.
Bà Nhi đã nghèo còn bán cả một mẫu ruộng đi để mua chức chánh hội cho Dao.
Về,
Thanh mới thấy đời sống dân quê bất di bất dịch như cái khung cửi, từ đời này
sang đời kia, không cần chuyển động, thay đổi.
Về,
Thanh mới thấy phần đông dân quê không nghĩ gì đến học vấn. Quan trên sức về
làng bắt dựng trường, thì cũng dựng, nhưng chỉ làm lấy lệ. Trẻ con vẫn lêu lổng
không đi học, hoặc chỉ học cho biết dăm ba chữ quốc ngữ, đủ để tranh ngôi thứ
trong làng.
Về,
Thanh mới thấy có người bỏ làng đi Tân thế giới vì không đủ tiền làm ma cho bố
mẹ.
Về,
Thanh mới nhận ra Cúc sống trong cái ao tù, với những người chưa từng ra khỏi
lũy tre xanh, không khí u tối dốt nát bao trùm khắp làng. Cúc giống mọi người
trong làng, chỉ quen chửi rủa tục tằn. Một lần qua chợ, Thanh đứng lại nghe hai
người đàn bà cãi nhau “Tuy họ mở cái mồm rộng hoác ra mà sỉa sói, phì nước
bọt vào mặt nhau thật đấy, nhưng cuộc đàm đạo của họ không phải là không khôn
khéo. Những câu tục ngữ, phương ngôn, họ luôn viện ra để trả lời nhau không
phải là không chua cay sâu sắc.”
Thanh
“không đành để một cô con gái xinh xắn như thế mà lại thô lỗ tục tằn như thế
được”. Chàng quyết định thay đổi: chàng sẽ dạy cho Cúc biết viết,
biết đọc sách, để “nên người”.
Thanh
bàn với Dao nên cho em gái đi học, mới thấy – điều này kinh khủng nhất – Dao
cười sằng sặc: “Học để làm gì mới được chứ?”.
Rồi
Thanh cố gắng thuyết phục bà Nhi: người mẹ cũng không cho con học! Đầu óc bà đã
nhiễm thứ giáo lý tự ngàn xưa: con trai học chữ, con gái học canh cửi. Thanh
bèn đổi chiến lược, quay sang dụ Cúc: cô muốn đọc truyện mà không phải nhờ mấy
thằng lỏi hỗn đọc hộ, thì để tôi dạy cho mà đọc lấy. Cúc rất mê truyện, bèn nài
nỉ mẹ, bà Nhi chiều con, bằng lòng. Nhưng lại thêm trở lực thứ nhì: người làng
bắt đầu đàm tiếu việc Cúc học với Thanh, lần này ác nghiệt hơn: Con gái cho học
chữ chỉ tổ theo giai!
Nhưng
Cúc thông minh, bướng bỉnh, nàng đã thấy được cái lợi sự của sự học, nhất định
không bỏ. Cuối cùng, chàng đành hy sinh tình yêu với Cúc, lên Hà Nội lấy vợ,
đem về làng, để có thể tiếp tục dạy Cúc tiếng Pháp mà không sợ lời đàm tiếu của
một xã hội ao tù, hủ lậu.
Dưới
bóng tre xanh đã vạch trần cốt tuỷ của vấn đề vô
học, ở hai chừng mức:
-
Sự vô học làm cho người dân quê sống đời tăm tối, phục tùng cổ lệ, mê tín dị
đoan, không ngóc đầu lên được.
-
Sự dốt nát của người phụ nữ nhiễm độc gia đình và xã hội, bởi họ là rường cột,
nhưng vì vô học nên gia đình không khá được và xã hội tồi tệ theo.
Hầu
như tất cả những người đàn bà trong xã hội trưởng giả, mà Khái Hưng đưa ra sau
đó, dù là bà tuần, bà án, cô huyện, cô phủ… dù sang trọng đến đâu nhưng vô học
nên quyền lực làm họ trở thành tham lam, độc ác. Họ là những con người ngu dốt
mà quyền thế, khắc nghiệt với con dâu, suốt ngày cờ bạc, xui chồng tham ô, trở
thành sâu bọ, đục khoét xã hội.
Khái
Hưng không bênh phụ nữ, ông chỉ ra sự tàn ác của phụ nữ có quyền mà vô học. Ông
đấu tranh không ngừng để thay đổi xã hội, xuyên qua tiểu thuyết luận đề.
Cái
Ve
Là
một truyện vừa, đăng trên Ngày Nay từ số 23 (30-8-36) đến số 26 (20-9-36). Cái
Ve mở đầu cho tiểu thuyết tư tưởng của Tự Lực văn đoàn. Cái Ve chiếu
vào những cử chỉ thầm lặng, làm cho những điều vô nghiã trở thành có nghiã.
Ve,
có người mẹ là bà chủ nấu cơm tháng cho mấy tay thợ thuyền, và một ông giáo ăn
ở trọ. Trong khung cảnh méo mó xô lệch của cái nhà quán trọ nghèo nàn, đồ đạc
không cái gì ra cái gì, khách ăn cơm tháng cũng bệ rạc, thô kệch, giống như mấy
điã thức ăn trơ trẽn:
“Trên
mâm, điã cá riếc kho, điã đậu om tương, điã rau muống xào tóp mỡ, điã đu đủ
xanh xào mắm tôm, đã sạch sẽ như lau. Ai nấy ăn ngốn ngấu vội vàng, không trò
truyện, không ngừng gắp, không ngừng nhai. Người ta chỉ nghe thấy tiếng hai hàm
răng chạm nhau côm cốp, tiếng thìa đũa đụng mâm lách cách và tiếng húp canh sụp
soạp”. (Ngày Nay số 23)
Mấy
tay thợ ghét ông thày giáo, vì cho là y kiêu ngạo, khinh người. Bọn thợ có thói
quen chòng ghẹo Ve, nói nhảm nhí, thô tục, cho Ve là con hầu, nên họ có đủ thứ
quyền hạch sách. Ve dọn cho thầy giáo ăn riêng.
Ve
không đẹp, thậm chí xấu, Ve càng cố ý săn sóc đến nước da, làn răng, thì các
nhược điểm càng lộ rõ hơn: “Cái mặt kỳ cọ bóng loáng, hai hàm răng sỉa thuốc
đen láy, chỉ làm cho cặp môi thêm thâm và thêm cong. Đôi lông mày nhổ tiả hình
bán nguyệt càng thanh bao nhiêu thì hai con mắt lồi càng thô bấy nhiêu, hai con
mắt đục và ướt như lúc nào cũng ám khói bếp. Một cái sẹo trắng nằm dài ở mí bên
phải khiến người ta thoạt nhìn Ve là lưu ý đến mắt Ve ngay (…) Chính cái sẹo ấy
đã đặt tên cho Ve. Thực ra Ve không có tên riêng. Khi Ve ra đời, mẹ Ve chỉ gọi
Ve là cái Riêm [Diêm] con (…) Năm bảy tuổi, Ve đau mắt nặng. Khỏi bệnh,
còn lại cái sẹo ở mí bên phải. Từ đó, mẹ nàng khi mắng nàng thường chỉ kêu nàng
là cái Ve, rồi chẳng bao lâu, ai ai cũng theo thế mà gọi nàng”. (Ngày Nay
số 23)
Ve,
sinh ra đã rơi vào cảnh cô đơn của những người xấu số, người mẹ không thèm đặt
tên cho con, người mẹ không biết nói, chỉ biết chửi, vì độc ác, hay vì vô học,
quen mồm, không bao giờ biết ăn nói một cách khác, ngoài chửi rủa? Ve phải phục
vụ cơm nước cho một bọn đàn ông thô tục, vô liêm sỉ. Nhưng từ khi có Thanh đến
trọ, người thầy giáo này không thế. Thanh gọi Ve bằng cô Ve. Ve tưởng
những lời xưng hô như thế chỉ dành riêng cho những người lịch sự, xinh đẹp. Mà
không phải thế, khi nhờ nàng điều gì, Thanh nói nhẹ nhàng, lễ độ, những lời
chưa bao giờ nàng nghe thấy ở miệng những kẻ phàm phu kia. Thanh đã vô tình
“đi” vào tâm hồn Ve, bằng sự tử tế, bằng lời ăn tiếng nói thanh nhã, bằng cử
chỉ tế nhị của một người có giáo dục. Cảm động trước “cái tốt” của Thanh, Ve
săn sóc chàng hơn. Rồi một hôm Thanh ốm nặng, Ve lặng lẽ chăm nom thuốc thang
cho chàng đến ngày khỏi bệnh.
Thanh
dọn đi trọ nơi khác.
Thanh
cũng là một tâm hồn lạc lõng, tứ cố vô thân, mẹ chết từ năm lên một, cha bỏ vào
Nam, Thanh ở với người cô đông con. Mười năm sau, cha trở về, đem theo người dì
ghẻ độc ác. Trong suốt cuộc đời trẻ thơ và trưởng thành, Thanh không nhận được
một lời thương yêu, trìu mến nào, cho đến bây giờ, chàng đã có lũ học trò,
nhưng nhiệm vụ nghiêm ngặt của người thầy đã cắt đứt sợi dây tình cảm giữa
chàng và lũ trẻ.
Cái
Ve
là chuyện của hai tâm hồn cô đơn, hai khối bất hạnh, không thể nối chắp nối
được: những săn sóc tận tình của Ve khi Thanh ốm sốt mê man, Thanh đã cảm nhận
như có nàng tiên giáng xuống bên chàng, nhưng khi khỏi, chàng dừng ở đấy, không
muốn nhận tiếp, phải chăng chỉ vì cái ve, cái sẹo nhỏ trên mí mắt? Chỉ vì Ve
xấu? Chỉ vì Ve không ở trong tầng lớp xã hội của chàng? Hay chỉ vì chàng sợ, sợ
gì?
Khi
Ve mua na cho chàng, Thanh đã tưởng lầm Ve muốn lợi dụng ăn lãi. Rồi chàng xót
xa nghĩ thầm: “Ngày nay có mỗi một người lưu ý đến đời mình. Nhưng người ấy
lại là cô Ve” và “Chàng cho đó là sự miả mai độc địa, và chàng tự
nhủ thầm: “Ta chỉ đáng được người hèn hạ, xấu xí như Ve săn sóc tới mà thôi!””.
Dĩ nhiên là chỉ vài giây sau, Thanh đã xoá cái ý tưởng “hèn hạ” ấy đi, nhưng đã
từng có nó trong óc rồi, thì liệu có thể xoá sạch hết được không?
Cái
Ve
là truyện đầu tiên của Tự Lực văn đoàn có ý tìm hiểu những phức tạp trong tư
tưởng con người. Cái Ve đặt ra những nghi vấn: giáo dục dạy những lời
nói nhã nhặn, những lối xử sự thanh lịch, nhưng có sửa đổi được tấm lòng con
người chăng? Có làm cho con người tốt lên chăng? Có phủ lấp được những tư tưởng
xấu tự nhiên bột phát chăng? Cái Ve là đối trọng của Dưới bóng tre
xanh, chứng tỏ Khái Hưng luôn luôn có khả năng phản biện lại chính mình và
như thế ông đã đi bước đầu mà rất lớn trong hành trình tìm hiểu con người.
Gia
đình
Đăng
trên Ngày Nay từ số 30 (18-10-36) đến số 64 (20-6-37), là một trong những tác
phẩm quan trọng của Khái Hưng, mô tả Sự phá sản của gia đình dưới thời Pháp
thuộc.
Trong
Gia đình, Khái Hưng chính thức đưa nội tâm vào tiểu thuyết.
Dựng
nền tiểu thuyết trên gia đình, yếu tố căn bản của xã hội, Gia đình ở đây
là một gia đình bình thường như bao nhiêu gia đình Việt Nam khác trong thập
niên ba mươi. An là một người đàn ông bình thường, An không có tính cách tiêu
biểu cho một hạng người như ta thường thấy trong tiểu thuyết. Ta có thể gặp An
ở bất cứ đâu trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ.
Với
An, Khái Hưng đưa ra một hướng viết mới: tác giả không chỉ mô tả hành động và ý
nghĩ của An, như với Thanh trong Cái Ve; ở đây tác giả cho ta thấy cả sự
trống rỗng trong tâm hồn An, mà ở thời điểm ấy, chưa ai làm,
chưa ai nghĩ đến, kể cả Nhất Linh. Thạch Lam cũng đã chú ý đến nội tâm,
khi ông tả cái đói giày vò Sinh, nhưng ở đây là sự giày vò thể xác, giày
vò của dạ dày, nó tác động đến tính tình, đến suy tư Sinh. Thạch Lam diễn tả tư
tưởng duy vật: vật chất ảnh hưởng đến tinh thần, vật chất chi phối tinh thần.
Khái Hưng không diễn tả một tình trạng thể chất, cũng không diễn tả một tư tưởng
triết học, mà ông diễn tả một thực trạng trong nội tâm con người, trong An:
“Chàng
cảm thấy sự trống rỗng vô vị dần dần lấn sâu mãi linh hồn. Hôm nay cũng như
những hôm trước đây, chàng vác súng đi săn, là để cố lấp kín sự trống rỗng đó.
Nhưng
sự trống rỗng càng tăng. Nó như vết ung thư, mỗi ngày một loét rộng thêm và
hiện ra trước trí tưởng tượng một cách rõ rệt như cái nhọt sâu kín kia hiện qua
kính quang tuyến của ông thầy thuốc”[6]
Đọc
câu này ta có thể tưởng là một câu trong Buồn nôn của Sartre hay trong
một truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu. Nhưng không phải. Đó là câu văn Khái Hưng
viết từ năm 1936!
Bởi
vì năm 1936, phần lớn các nhà văn Việt Nam chưa ai nghĩ đến nội tâm, họ
chỉ mới viết về tâm lý con người, và thường thường cái tâm lý ấy,
do nhà văn độn mình vào nhân vật, nên lắm khi rất giả tạo. Còn nội tâm mà tôi
muốn nói ở đây là đời sống tinh thần thầm kín, sau này sẽ được triết học hiện
sinh, thứ triết học giúp ta truy tìm đời sống bên trong con người, khai phá.
Sartre bắt đầu với tác phẩm Buồn nôn năm 1938 và đến thập niên 1960,
chúng ta có loại truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu, mà tôi gọi là nghệ thuật nội
soi.
Vì
vậy, khi Khái Hưng cho An cảm nhận được sự trống rỗng trong tâm hồn
mình, từ năm 1936, là ông đã ý thức được chiều sâu nội giới con người,
ông luôn luôn đi trước thời đại. Nhờ chiều sâu ấy nên An đã nhận ra nhiều điều
mà xã hội không nhìn thấy, thí dụ một màn cực kỳ châm biếm, trong đám ma cha
chàng:
“Có
tiếng xuống dõng dạc: “Cử ai!” Phía sau, hai người anh rể khóc như hát: “Hè! Hi
Hi!” Chàng không biết nên cho đó là tiếng khóc hay là tiếng cười. Còn hai người
chị thì không khóc mà cũng không cười, họ chỉ kể lể những nỗi thương nhớ của họ
ra.
An
đương sụt sùi khóc, thấy thế bỗng im bặt. Người đứng bên chàng ghé lại khẽ
nhắc: “Cậu khóc đi!”. An chau mày lặng thinh”. (trang 16)
Đọc
những dòng này, chúng tôi giật mình nhớ lại, lúc 5 tuổi, đi đám ma bà, cũng
thấy hai cô em họ (tuy là em nhưng họ đã 17, 18 tuổi), vật vã khóc bà, thống
thiết lắm. Đi cạnh họ, tôi táy máy lấy tay kéo giật đuôi cánh mào đội đầu của
họ, thì thấy hai cô ả đang cười rũ rượi. Lần đầu tiên đứa nhỏ 5 tuổi hiểu thế
nào là sự giả vờ, và cảnh này đã in sâu trong óc nó, khiến từ đó mỗi lần
nghe ai khóc, càng lâm ly bao nhiêu, nó càng cho là giả dối.
Ở
đây Khái Hưng đã dùng màn kịch này để xác định: lần đầu tiên An nhận thức
và cảm thấy được sự nhận thức của mình: Tấn tuồng nhỏ bé này dần dần đưa
chàng tới những nhận thức khác, chua cay hơn, càng ngày càng lớn, càng ngày
càng sâu, về cái xã hội mà xưa nay chàng vẫn sống, vẫn chấp nhận, vẫn rập khuôn
theo, không nhìn kỹ, không suy xét, không nghĩ lại. Khi An đang khóc, bỗng
ngừng bặt cau mày làm thinh, là chàng đã thức tỉnh: chàng không còn a
dua nữa. Sự phản tỉnh này rất sâu sắc. Và chàng sẽ đem tất cả nghị lực của mình
ra chống trả lại sự giả dối đó: học xong tú tài, chàng quyết định về làng làm
ruộng cùng với nông dân. Nhưng lý tưởng ấy, chàng không thể thực hiện được, vì
tính nhu nhược sẵn có, thêm sức ép bền bỉ của gia đình, một bên là ông
chú ruột, một bên là Nga, vợ chàng.
Nhận
thức thứ hai của An: là sự bất lực; cái thế lực đè lên chàng nặng nề
quá, nó đến từ bên trong, từ những người chàng yêu thương nhất: Nga là loại đàn
bà “lý tưởng” trong xã hội ấy, hết sức đảm đang, ngoan ngoãn và chiều chồng,
nhưng nàng cũng có một quyết tâm, kiên trì: muốn làm bà huyện, bà án.
Con quan, nàng lấy chồng đỗ tú tài, không phải để theo chồng về quê làm ruộng,
mà phải làm quan, do lòng ganh tỵ với người chị ruột, có chồng làm quan huyện,
được bố mẹ trọng vọng, lên mặt với nàng. Nga đã dùng đủ mọi chiến lược, thủ
đoạn, với sự góp sức khôn khéo của bà Án, mẹ nàng, để thắng cuộc.
An
không những thua áp lực của gia đình, phải bỏ cuộc đời mình muốn sống để
theo cuộc đời do vợ và mẹ vợ chỉ định, mà chàng còn phải sống một cách tích cực
trong cái đời mới này, tức là đời quan trường, với tất cả những luồn cúi, ô
nhục, kiếm tiền bất chính. Ban đầu chàng hết sức cưỡng lại, nhưng dần dần chàng
đã buông tay. Chàng bị tấn công mọi ngả, không chỉ gia đình mà cả đến kẻ thân
tín nhất dưới quyền, đều một nếp với nhau: tay thư ký đã nhận tiền đút lót
trước rồi, đã lấy sẵn phần trăm của y rồi, phong bì phần chàng y đã để trong
ngăn kéo rồi, chàng chỉ việc tha bổng tên cướp này, xử nhẹ vụ kiện kia, dễ như
trở bàn tay.
Rồi
những buổi hầu tổ tôm, mạt chược nhà cụ Thượng, cụ Tuần, hầu bàn đèn cụ Án, cụ
Bố, những đêm cô đầu, gái nhảy… Cả một cuộc đời mới, không hề có trong tư tưởng
An ngày trước, nay bày ra trước mắt: một xã hội đã bị thuốc phiện hóa, từ quan
đến dân, nằm bẹp bên bàn đèn, bê tha ổ bạc.
Còn
Nga, nàng có sung sướng gì hơn khi đã thoả mãn hoàn toàn tham vọng? Hình như
không: nàng đã hy sinh hạnh phúc gia đình, ép An lên Hà Nội học ba năm, vừa học
vừa chơi bời, để đỗ ra làm quan. Nàng đã bỏ người chồng đứng đắn lương thiện,
để mua một người chồng trác táng dối trá, mua một cuộc sống cô đơn, bài bạc, ô
uế của các bà lớn tuần, phủ, quyền thế, mánh khoé, gian tham hơn nàng. Nga
không có bạn. Sự trống rỗng trong Nga có lẽ còn ê chề hơn An; nhưng nàng
không ý thức được điều đó. Nga càng ngày càng ngoan ngoãn hơn, sống an phận mà
không dám đòi hỏi gì nữa. Ít học, Nga không đủ tri thức để tìm và hiểu nỗi đau
của mình. Còn An, cuối cùng, chàng cũng thấy lại phản ứng “nội tâm” lúc ban
đầu: Chàng vụt tỉnh ngộ, nhủ thầm: “Sao thỉnh thoảng mình không dùng tiền
phi nghiã để làm việc nghiã?” Và từ đây, chàng sẽ dùng tiền phi nghiã để
làm cả việc nghiã nữa!
Gia
đình
là một tác phẩm sâu sắc về sự phá tan hệ thống gia đình có đạo đức, dưới chế dộ
thực dân, và sự xuống dốc không phanh của con người, sự tha hóa đến từ trong cá
nhân, chi phối gia đình và chiếm hữu xã hội. Sự tha hoá, bắt đầu từ cá
nhân vô ý thức, vô học, nhưng có quyền, đó là những người đàn bà, người mẹ,
người vợ, những bà huyện, bà án, làm mẹ làm vợ những quan chức cao cấp trong
chính quyền thực dân. Họ cầm quyền gián tiếp và đắc lực hơn chồng bên những bàn
tổ tôm, mạt chược. Họ rèn luyện những người con gái nối nghiệp, đeo đuổi mục
đích lấy chồng làm quan để tiến thân trong cuộc sống an nhàn trưởng giả, ăn
trên ngồi trốc trên mồ hôi nước mắt đồng bào.
Gia
đình
rữa nát như thế, làm sao xã hội lành mạnh được?
Ta
cứ tưởng tượng một nước Pháp mở cửa tự do cho nha phiến nhập vào, lập xưởng
điều chế thuốc phiện ở thủ đô, cho dân tự do cờ bạc, uống rượu thả cửa, thì xã
hội Pháp sẽ đi về đâu? Đó là xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, hạ tầng được
Trọng Lang ghi lại trong loạt phóng sự Hà Nội lầm than, thượng tầng được
Khái Hưng mô tả trong tiểu thuyết Gia đình.
Thoát
ly đăng từ Ngày Nay số 77 (19-9-37) tới
Ngày Nay số 107 (24-4-38), là tác phẩm thứ nhì trong bộ ba: Gia đình,
Thoát ly, Thừa tự, loạt tiểu thuyết luận đề tố cáo toàn bộ hệ thống
gia đình thối nát của Việt Nam. Vấn đề trong Thoát ly là cảnh mẹ ghẻ con
chồng, mà chính Khái Hưng đã từng là nạn nhân thời niên thiếu. Thoát ly
nằm trong môi trường trung lưu, tỉnh lẻ (Vĩnh Yên) có thể xảy ra ở mọi nơi, với
mọi người. Đối tác chính là hai người đàn bà: Hồng, con chồng và bà Phán, dì
ghẻ.
Mẹ
chết năm Hồng lên sáu, để lại hai con gái: chị Hảo và Hồng. Người mẹ vì chậm
sinh con trai, nên ông bố lấy vợ bé, vú già kể: “nhất là khi cô ta sinh con
trai đầu lòng, thì cô ta lại càng lăng loàn lắm”. “Bà vốn người yếu
đuối, sẩy đến năm bận rồi, còn gì. Thế mà cô ta sức như voi vâm, cô ta xỉa quả
đấm vào ngực, làm gì mà không thối ngực, hộc máu.”[7]
Từ
khi biết dì ghẻ giết mẹ, Hồng càng khiếp sợ kẻ sát nhân.
Bút
pháp lão luyện, Khái Hưng mở mặt trận tranh đấu toàn diện cho quyền sống của
những đứa con bị mẹ ghẻ hành hạ: Bà Phán, người mẹ ghẻ trong truyện, hai lần
sát nhân: giết vợ cả và giết con chồng, nhưng hai vụ án mạng này, không bao giờ
được đưa ra ánh sáng, vì không ai biết, trừ vú già và nạn nhân.
Thoát
ly
khốc liệt hơn Đoạn tuyệt, nhờ ngòi bút chừng mực và trung dung của Khái
Hưng, nên tấn bi kịch không bị nhuốm máu tươi án mạng mà thấm dần vào cơ thể
nạn nhân như liều thuốc độc, mỗi ngày nhỏ ra một giọt ngấm vào cơ thể. Người
mẹ, bị chồng ruồng bỏ, sinh bệnh, yếu dần, rồi bị vợ lẽ đánh, chết. Con bà,
Hồng, mạnh hơn, tưởng có thể cự lại được.
Khi
mẹ chết, Hảo, người chị cả can trường, đã che chở cho em trong 5 năm, trước khi
lấy chồng: Hồng, còn được đi học đến năm thứ hai trường sư phạm mới bị cha gọi
về vĩnh viễn. Sau đó là sự trả thù, bởi vì Hồng lớn lên, có học, càng cứng đầu
bất khuất.
Đó
là sự trả thù của kẻ ngu dốt, vô học, chống lại sự thông minh, tiến bộ: Bà Phán
ghét con chồng nhưng không muốn cho nó thoát lưới, bà tìm đủ mọi thủ đoạn để
phá, không cho nó lấy chồng, không cho nó thoát cái ngục trong lòng gia đình:
với năm đứa em cùng cha khác mẹ, trừ thằng Tý có chút lương tâm, cả bọn bốn đứa
kia đều làm mật thám cho mẹ. Còn người cha, người cha làm gì? Người cha hèn yếu
trước sức mạnh, về hùa với tội ác để yên thân. Hồng đã trốn đi, đã tự tử hụt,
rồi lại quay về bởi vì cái xã hội ấy, không có chỗ cho một cô gái bỏ nhà. Hồng
sốt rét, nằm liệt hơn hai tuần, không thang thuốc, dì ghẻ truyền lệnh không ai
được nhòm ngó, vì nó ốm giả vờ. Người cha tin thật. Khi phát hiện thì đã quá
muộn. Đưa vào bệnh viện. Hồng chết. Đây là màn chót:
“Buổi
chiều Hồng lên cơn sốt, mê man, nhiều lần đã tắt thở rồi lại sống lại, Hảo vội
vàng về mời ông Phán bà Phán đến (…) Thấy Hồng nằm im lìm không cựa quậy, bá
Phán chắc nàng chết rồi, liền khóc oà lên:
-
Ới, Hồng ơi, cô có tưởng đâu đến nông nỗi này, Hồng ơi… Con đi mà chả kịp trối
trăng lại với thầy với cô một câu nào, ới Hồng ôi! Đau lòng cô lắm Hồng ơi.
Ông
Phán ngồi rũ trên chiếc ghế mây, đầu cúi gục xuống ngực. (…)
Bỗng
Hồng mở mắt tò mò nhìn mọi người, như vừa mới ngủ dậy. (…)
Bà
Phán yên lặng đứng sững. Thấy Hồng khẽ gật, bà ghé sát tai vào miệng nàng để
nghe. Bỗng bà thẳng người lên, thét:
-
À ra con này láo thực. Bà tội lỗi gì với mày mà mày bảo tha lỗi cho bà, hử con
kia? Bà quý hoá máy, bà nâng niu mày như hòn ngọc trên tay…”
Cái
án mạng thứ nhì kết thúc như thế.
Khái
Hưng đã đạt tới đỉnh hiện thực tả chân: tính bi đát lồng trong tính hài hước
với một nghệ thuật cao cường, làm lộ bộ mặt thực của xã hội đa thê: dung túng
những kẻ sát nhân thoát vòng pháp luật.
Thừa
tự đăng trên Ngày Nay từ số 116
(26-6-38) đến số 135 (5-11-38). Tác phẩm vạch trần một lần nữa vấn đề mẹ ghẻ
con chồng, ở đây đánh vào lòng tham của con người. Ông án Thân, tuy ba
vợ nhưng không cưới cùng một lúc, người nọ chết mới lấy người kia.
Bà
đầu sinh Bỉnh, Thu, rồi chết. Ông cưới bà Hai. Bà Hai sinh Trình, Khoa, hành hạ
con chồng. Bà Hai chết, ông già gần sáu mươi cưới một người con gái ngoài hai
mươi, xấp xỉ tuổi Bỉnh, ả lên chức Bà Lớn, cậy mình trẻ đẹp, ngỗ ngược, lăng
loàn, ức hiếp vợ chồng Trình và vợ chồng Khoa. Bỉnh đã từng bị mẹ ghẻ (mẹ đẻ
của Trình, Khoa) đàn áp, thấy cảnh ấy trở lại, chàng bênh vực hai em.
Một
lần bị người dì ghẻ đàn áp quá, Trình, Khoa viết thư mách Bỉnh, đang làm tham
tá ở Ninh Bình, Bỉnh viết thư cho cô Ba, khuyên nên “vừa vừa chứ”, mấy hôm sau
chàng nhận được thư cha nhắn cho “tên Bỉnh” biết rằng “tên ấy là một thằng khốn
nạn”. Bỉnh bèn xin nghỉ việc về nhà, xuống thẳng tư thất, trỏ vào mặt người vợ
lẽ mắng nhiếc thậm tệ. Bị cha chửi, Bỉnh bỏ về Ninh Bình. Mấy ngày sau chàng
nhận được thư cha: “Mày dám đánh vợ tao, vậy từ này tao cấm cửa, không cho
mày lai vãng tới nhà tao. Tao từ mày, không cha con gì nữa.” Nhưng chỉ hai
tuần sau, ông án nguôi giận, làm lành với con, nên bà Ba biết gây sự với “anh
tham” không có lợi.
Rồi
ông án chết. Đám ma, Chuyên, vợ Khoa, khóc: “Hờ cha ơi, cha đi đâu cha bỏ
các con. Bao nhiêu đứa nấp dưới bóng cha mà được người ta kính trọng vì nể, nay
cha trăm tuổi rồi thì bọn họ thực là khổ sở khốn nạn.”
Người
vợ lẽ mỉm cười khinh bỉ trong cái mấn sô, rồi khóc đáp lại liền: “Quan lớn ơi,
quan lớn đi đâu bỏ đàn con dại cho tôi. Quan lớn đi thì sướng lấy một mình,
nhưng lũ con quan lớn thì bồ côi, nheo nhóc, quan lớn để lại cho tôi nuôi dạy
một mình, cực nhục lắm quan lớn ơi!”
Bỉnh
thẳng thắn đến ghé tai dì ghẻ bảo nhỏ: “Cô khóc thế không được!” Người đàn bà
lại nức nở: “Hờ quan lớn ơi, cực nhục cho tôi chưa, quan lớn nằm xuống tôi đau
đớn tôi khóc thì con quan lớn cấm tôi, không cho tôi khóc, hờ quan lớn ơi!””
(trang 43-44).
Ta
tưởng như đang được chứng kiến cảnh đưa đám cụ Tuần, cha Khái Hưng, cũng năm
vợ. Và Khái Hưng ghé tai dì ghẻ dặn dò!
Sau
đám ma cha, chiến tranh bắt đầu. Nhưng ở đây không phải chuyện mẹ ghẻ hành hạ
con chồng. Mà cũng không có chuyện tranh chấp gia tài, bởi vì ông án đã chia
cho các con, mỗi người một phần đất riêng để sống tự lập. Vợ chồng Bỉnh nhường
phần ruộng của mình cho hai em. Ông án để lại cho người vợ trẻ một gia tài kếch
sù và đứa con gái tên Cúc. Bà Ba, được mọi người tôn thành cụ Lớn, nhưng bọn
con chồng, sau lưng vẫn gọi là Troisième. Bà Ba xưng mẹ thì họ
thì thầm mẹ ranh, xưng me thì họ nhắc nhở me tây.
Nhưng
Bà Ba là người mưu lược, vừa muốn tạo địa vị cao quý cho mình, vừa muốn trả thù
mà không tốn một xu, bà bèn lấy miếng thừa tự ra dứ con chồng: bà đánh
tiếng cho ba anh em biết bà muốn chọn một trong hai người Trình hay Khoa, để ăn
thừa tự, tức là nhận ruộng thừa tự để cúng giỗ bà và hưởng luôn gia tài, sau
khi bà mất; đồng thời bà giơ miếng hậu ra dứ sư Giáp: hứa sẽ cho chùa
món lớn để lo hậu sự cho bà; và bà đem cái hồi môn vĩ đại ra dứ thằng con rể
đào mỏ, tính cưới Cúc.
Nhờ
ba miếng dứ ấy mà bà làm loạn. Bà khoáy lộn hai gia đình Trình, Khoa, ngày
trước hòa thuận, bây giờ nghi ngờ, ganh ghét nhau. Sư cụ hổ mang càng bám nịnh
sát nút, mong được cụ Lớn thí cho miếng hậu. Nhưng thằng con rể đào mỏ
khi biết không được một xu hồi môn nào, trở mặt, nện vợ khảo của. Vợ chồng
Bỉnh-Thoa phải đưa hết tâm lực mới lôi được hai em thoát khỏi mê trận ham muốn
và nghi ngờ. Bức tranh trong Thừa tự cũng khốc liệt không kém bức tranh
trong Thoát ly, và Khái Hưng với ngòi bút điêu luyện, đã khắc họa những
cảnh đời, những nhân vật, cực kỳ sống động, của một xã hội Việt Nam đắm chìm
trong lạc hậu, dốt nát, giả dối, bị lòng tham chi phối đến cốt lõi, xương tuỷ.
Hạnh
đăng
trên Ngày Nay từ số 136 (12-11-38) đến số 144 (7-1-39). Hạnh là cuốn
tiểu thuyết hoàn toàn thuộc về nội tâm, đi ra ngoài quỹ đạo đấu tranh xã hội,
viết về Hạnh, một người có cảm tưởng mình là kẻ sống thừa, không ai cần, Hạnh
là cái gai mà mọi người đều muốn nhổ đi, ngay từ khi chào đời. Lúc sinh ra,
suýt làm mẹ chết, bác sĩ hỏi người bố: mẹ hay con, cứu ai? Người bố trả lời:
cứu mẹ. Không may cho ông ta, bác sĩ cứu được cả hai, vì thế anh có cái tên rất
hay là Hạnh có nghiã là hạnh phúc chia đôi, lấy một nửa.
Rồi
trong cuộc đời, “người ta” cũng áp dụng cái ý nghiã sâu sắc ấy. “Người ta” ở
đây là người bố, vẫn chỉ lấy một nửa tốt là người mẹ; còn anh, anh là nửa xấu,
đáng lẽ đã bị bỏ đi, chẳng may rớt lại, thành thừa: Một đứa con thừa trong gia
đình, thì còn nói được gì nữa. Nhưng chỉ thừa đúng lúc anh sinh ra thôi,
bởi vì mẹ anh vẫn tiếp tục đẻ những đứa em khác, chúng được thương yêu, chiều
chuộng. Anh là kẻ suýt làm bà mất mạng, là đứa con thừa, không đáng sống, phải
ngồi ngoài lề. Sự sống thừa khiến Hạnh trở thành một đứa bé sợ sệt, vụng về,
làm gì cũng không đúng, không hợp ý, cũng sợ bị chê, bị đòn, trở thành một đứa
bé đầy mặc cảm, tưởng mình là đồ bỏ.
Rồi
Hạnh cũng đỗ ra trường, cũng đi dạy học. Hạnh chọn một tỉnh xa để khỏi phải về
nhà ăn lãnh đạm thay cơm.
Một
hôm, trên đường đến trường, anh bị ngã xe đạp, được chở vào một trại cam, anh
tỉnh dậy trên chiếc giường tây, với sự săn sóc dịu dàng của bà chủ, đẹp và
sang. Anh như ngây ngất, không ngờ lại có một thứ người đẹp, sang và tử tế như
thế… họa là trên cung quảng. Anh đã sống những ngày thần tiên hạnh phúc, lúc đó
anh mới nắm được cả phần hạnh phúc và biết rõ tên anh có nghiã như thế nào.
Rồi
anh cũng phải khỏi. Rồi anh phải trở lại cuộc sống bình thường… Một hôm anh
quyết định đi xe về trại cam, gặp lại ân nhân để ngỏ lời tri ơn, để ôn lại
những phút giây hạnh phúc. Rất may, nàng đang ngồi cạnh cửa ấp mua rau, anh đi
qua ngả mũ chào, nàng ngẩng lên gật đầu rồi lạnh lùng cúi xuống… không nhận ra
anh.
Hạnh
là cuốn truyện cay đắng nhất của Khái Hưng, chủ đề còn mới đến bây giờ, vì có
mấy ai để ý thám hiểm nội tâm của một người thừa sâu sắc như thế. Khái
Hưng đi theo đường dây thần kinh của Hạnh, ghi lại mỗi cảm giác, mỗi hoang
tưởng, mỗi xúc phạm, mỗi hiểu lầm. Ông đo hiệu quả của tàn ác, của vô tình,
trên trái tim bầm dập thương tích từ thủa sơ sinh của Hạnh.
Hai
năm trước, ông viết truyện ngắn Đợi chờ cực kỳ thơ mộng về một mối tình
chưa ngỏ nhưng không tắt theo thời gian, làm người đọc thẫn thờ vì một lời kết
buông lỏng: “Cùng chàng mong ngóng người năm ấy, vạn vật trầm ngâm mong
ngóng xuân về”. Vẫn trung thành với ý tưởng phản biện chính mình, ở đây,
Khái Hưng chống lại sự chung tình miên viễn, bằng sự vô tình, vô cảm không
thuốc chữa của loài người như một điều bình thường, và sự đợi chờ những đồng
cảm không đến, ở Hạnh, mới là một trạng thái bệnh lý.
Đẹp
là
cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Khái Hưng in trên Ngày Nay, từ số 169 (8-7-39)
đến số 201 (2-3-40), hoàn toàn dành cho nghệ thuật. Chỉ qua mấy trang đầu, ta
đã nhận ra chân dung Nguyễn Gia Trí trong vai Nam. Phải chăng Đẹp là một
mảnh đời Nguyễn Gia Trí được tiểu thuyết hoá, Khái Hưng viết tặng bạn cũng như
Tô Ngọc Vân viết bài Nguyễn Gia Trí và sơn ta, in trên Ngày Nay số 146
(21-1-39)[8],
vào lúc Nguyễn Gia Trí lên đường làm cách mạng?
Tác
phẩm lồng Nguyễn Gia Trí trong mối tình không phân chia tuổi tác giữa Nam, họa
sĩ và Lan, con gái bạn mình.
Nam,
sống vì hội họa theo cả nghiã đen lẫn nghiã bóng:
“Vẽ
là vẽ. Đó là nguyên tắc của chàng về hội họa. Được vẽ là đủ rồi, là chàng
sung sướng rồi, chàng không cần phải hỏi và phải biết: Vẽ để làm gì? Nhiểu lần,
một bức tranh vừa ráo sơn, vì không sẵn có khung căng vải, chàng quả quyết trát
trắng đi để vẽ bức khác. Mà không phải bức trước không có giá trị. Chàng thường
nói với bạn: “Một bức tranh chỉ có giá trị khi mình còn đương vẽ. Vẽ xong, nó
là cái khung vải bôi sơn. Đem bán, đem cho, hay đem vứt đi cũng thế thôi.”
(trang 7)
Nam
là thứ người đặc biệt, với bộ râu quai nón và tính đãng trí khác người:
“Cái
tính đãng trí của chàng có lẽ cũng là một hình trạng của lòng dửng dưng đối với
đời. Nam không cho một cái gì ở đời là quan trọng, kể cả hội họa. Chàng vẽ như
con chim hót. Con chim nó hót, để hót, nào nó có cho tiếng hót của nó là quan
trọng? Nhưng ở đời có một thứ mà chàng dửng dưng nhất, mà chàng khinh bỉ
nhất, khinh bỉ mà vẫn phải cần đến, và vì phải cần đến mà lại càng khinh bỉ: Đó
là tiền”.
Nam
lục đục với ông giám đốc trường mỹ thuật chỉ vì một bức tranh: Một khách du
lịch Hoa Kỳ đến thăm trường, lưu ý đến bức tranh lụa của chàng và hỏi mua. Ông
giám đốc gọi chàng đến trao cho chàng hai trăm bạc, và bảo chàng phải vẽ lại
đền trường, bức y hệt thế. Chàng trả lời:
“-
Vẽ lại những bức đã vẽ rồi thì chán lắm!
Ông
giám đốc mỉm cười:
-
Chán, nhưng đã được hai trăm bạc tiêu!
Nam
làu nhàu:
-
Hai trăm bạc! Nhưng tôi có muốn bán đâu?
Bắt
đầu từ hôm ấy, ông giám đốc đem lòng ghét Nam. Ông cho chàng kiêu căng tự phụ.
Có lẽ vì thế mà năm ấy, thi lên lớp, Nam trụt từ thứ nhất xuống thứ ba.”
(trang 8-9).
Đẹp
cung cấp cho ta những giai thoại về Nguyễn Gia Trí. Giai thoại trên đây phù hợp
với chuyện thường được nghe kể lại: ông giám đốc ghét Nguyễn Gia Trí, nên khi
có khách đến trường xem tranh, ông cho cất tranh của Trí đi. Vậy, ông cất đi,
chỉ vì sợ khách đòi mua, Nguyễn Gia Trí lại hục hặc với ông.
Nhiều
đoạn khác trong Đẹp ghi lại tiểu sử, tính tình của Nguyễn Gia Trí:
“Cái
tính ghét tiền, không bao giờ chàng bỏ được, mặc những lời chê trách của các
bạn và anh chàng. Chàng có một người anh làm giáo sư yêu chàng như bà mẹ yêu
con nuông. Xưa nay chàng vẫn ở chung với anh. Cho tới ba năm gần đây, công việc
bề bộn quá, chàng mới chịu thuê riêng một cái nhà ở làng Yên Phụ để làm phòng
vẽ và xưởng thợ. Vì từ ngày tạm bỏ sơn dầu và lụa để chuyển làm sơn ta, thì
chàng có rất nhiều khách hàng phần đông là người Âu. Bất đắc dĩ, chàng phải
thuê thợ, đó là một điều làm chàng khó chịu. Vì có lúc chàng cáu kỉnh thấy mình
trở thành một ông chủ thầu hơn là một nghệ sĩ.”
Người
anh này là giáo sư Nguyễn Gia Tường, xưởng thợ này có lẽ là xưởng vẽ Quần Ngựa.
Đoạn
dưới đây có thể làm tài liệu để hiểu về kỹ thuật sơn mài của Nguyễn Gia Trí:
“Ông
giáo G. thầy học yêu mến của Nam, viết một bài phê bình đăng báo để ca tụng học
trò, nói Nam đã nâng sơn Việt Nam lên bực “đại nghệ thuật”. Phe phản đối chẳng
chịu yên lặng. Họ công kích Nam kịch liệt, nói Nam làm mất hẳn giá trị và ý
nghĩa của sơn Việt Nam, cái ý nghiã và giá trị trang hoàng của nó. Và để đánh
đổ cái thuyết của ông giáo kia, họ nêu ra một họa sĩ chuyên vẽ sơn Việt Nam đã
nổi danh khắp thế giới, ông Dunant: Ông Dunant không vẽ rập rạp, tỉ mỉ như Nam
bao giờ.
Anh
em bạn Nam giục Nam trả lời, Nam chỉ cười và đáp lại vui vẻ:
Tôi
vẽ cho tôi, chứ tôi không vẽ cho ông Dunant đâu!
Bức
bình phong ấy chàng bán được ngay, bán theo giá trường Mỹ thuật đã định. Chàng
mừng rỡ bảo anh em:
-
Hòa vốn, may quá!
Thế
là chàng dùng ngay tiền nhận được để làm bức bình phong thứ hai. Bức bình phong
ấy có lẽ trong một năm nữa sẽ hoàn thành. Vì cách chàng làm việc khác hẳn người
thường, làm việc để làm việc không cần mau, chậm: Thời ấy chàng chưa mượn thợ.
Chàng vẫn nói: “Làm sơn ta sướng hơn làm sơn dầu. Có nhiều cái bất ngờ lắm. Mà
cái bất ngờ bao giờ cũng đẹp, cũng đẹp hơn cái mình định trước.”
Ai
đã nhìn chàng mài than một bức sơn mới hiểu câu nói của chàng là đúng. Có khi
sau hàng giờ, nét vẽ mới thành hình. Từ lúc ấy họa sĩ phải gượng nhẹ: Tùy mình
mài sâu hay nông, nền mầu sẽ hiện ra nhạt hay sẫm. Tới một màu ưng ý, chàng
nghiêng nghiêng tấm gỗ ngắm nghía, miệng lẩm bẩm:”Pas bête! Pas bête!”[9]
Rồi thét vang, rồi hát ầm nhà. Hôm ấy, thế nào chàng cũng tìm bạn thân, nhất là
Ngọc, đến xem cái màu lạ lùng, “sung sướng” kia. Và thế nào Ngọc cũng khen
không tiếc lời: “Ngon lắm, anh ạ. Trời ơi! C’est charnu! C’est bon à croquer!
C’est sensuel![10]
Nam yên lặng mỉm cười, bẽn lẽn như đứa trẻ đứng im cho người mẹ vuốt ve, âu
yếm. Về sau Ngọc nói:
-
Còn đợi gì mà không ăn mừng?
Thế
là hai người đưa nhau đi cao lâu.
Nhờ
bài phê bình của ông giáo, nhiều người Âu biết chuộng tài Nam, đến đặt tranh
nhà Nam. “Thế mới chết chứ!” Đó là câu nửa bỡn cợt, nửa thành thực mà Nam thốt
ra với anh em bạn, khi ông giáo cũ đưa tin cho biết có nhiều người đặt “hàng”.
Chính từ đó Nam bắt buộc phải mở xưởng riêng ở Yên Phụ. Và cũng từ đó chàng bận
tíu tít quanh năm, vì khách hàng một ngày một thêm đông. Các người Âu giàu sang
hình như đua nhau có một bức bình phong sơn bày trong nhà.”
(trang 10-12)
Ông
giáo G. chẳng cần suy nghĩ lâu, ta cũng đoán là ông Inguimberty, người thầy mà
Gia Trí rất mực quý mến. Ngọc bạn thân chính là họa sĩ Tô Ngọc Vân. Khái Hưng
lấy một chữ trong tên, như G trong Inguimberty, Ngọc trong Tô Ngọc Vân.
Mục
đích ghi lại tiểu sử Nguyễn Gia Trí đã rõ ràng, còn về cuộc tình chênh lệch
tuổi tác giữa Nam và Lan có lẽ cũng không hoàn toàn hư cấu: Họa sĩ yêu con gái
bạn ư, ai? Con gái Nhất Linh chăng? Chỉ Nhất Linh mới có con gái lớn. Nhưng
không thể biết chắc được, chỉ có thể đoán đó là lý do tại sao Nguyễn Gia Trí
sống độc thân lâu như vậy.
Bây
giờ ta đọc Đẹp như một cuốn tiểu thuyết.
Khái
Hưng diễn tả cuộc đời của một họa sĩ mà cái đẹp đã đi vào tâm hồn, vào tư
tưởng, biến thành luồng dưỡng khí để thở, để sống và để yêu. Bé Lan thông minh,
khôn sớm, yêu “chú Nam” từ lúc tám tuổi. Rồi gia đình Lan dọn nhà, xa chú mấy
năm. Găp lại, Lan đã lớn, Lan ngượng, không dám gọi chú, mà gọi ông, xưng con,
rồi dần dần Lan bỏ chữ con, xưng em… Mối tình tiệm tiến, Lan đi trước, dẫn
đường cho “chú Nam”. Thoạt tiên Nam chỉ coi Lan như một “cái đẹp” như bao nhiêu
cái đẹp khác mà chàng đưa vào tranh, và chàng không phân biệt rõ giữa Lan
và cái đẹp, có khoảng cách gì, như thế nào, chàng yêu Lan hay yêu cái
đẹp.
Với
Đẹp, Khái Hưng trở lại với sự trẻ trung, nhẹ nhàng có từ Hồn bướm mơ
tiên, quên đi những tác phẩm có màu sắc tranh đấu xã hội, để bước vào một
thứ hạnh phúc nhẹ nhàng như nghệ thuật của Nguyễn Gia Trí.
Đẹp
là một cuộc đối thoại dài giữa Nam và Lan, một nghệ sĩ và một người yêu nghệ
sĩ, nhưng chưa chắc đã là hai người tri kỷ. Khái Hưng ghi lại ở đây những mẩu
trò truyện với Nguyễn Gia Trí về cái dẹp, về quan niệm hoàn tất một bức tranh,
về sự khó khăn khi đi tìm cái đẹp…
Lan
chính là Khái Hưng, người trò truyện, trá hình là gái. Nam, trong cuộc đối
thoại này, đã chỉ cho ta những cái đẹp lặn trong đôi mắt người con gái, trong
làn tóc, đôi môi, trong nụ cười, trong sự ngây thơ, trong một câu nói đùa,
trong màu xanh biếc họa sĩ vừa tìm thấy, trong đoá hoa mới nở trong vườn, trong
tia sáng lùa trên kẽ lá…
Thiêng
liêng nhất, Đẹp còn là tình bạn kết tinh như một tác phẩm nghệ thuật mà
chúng ta chỉ nghiệm thấy trong khối Tự Lực văn đoàn, ở đây Khái Hưng tung
Nguyễn Gia Trí lên, như một cái đẹp toàn diện.
(Còn
tiếp)
Thụy
Khuê
thuykhue.free.fr
[1]
Có ba người tên Nguyễn Đức Nhuận: Nguyễn Đức Nhuận (1900-1987) Bút Trà, chủ
nhiệm sáng lập báo Sài Thành, rồi Sài Gòn, sau đổi thành Sài Gòn Mới; Nguyễn
Đức Nhuận (1901-1970) tức nhà văn Phú Đức và Nguyễn Đức Nhuận (1900-1968), chủ
nhiệm Phụ Nữ Tân Văn. (Theo Thiện Mộc Lan, Phấn son tô điểm sơn hà, nxb
Văn Hóa Sài Gòn và Công ty sách Thời Đại, 2004, trang 9).
[2]
Thiện Mộc Lan, Phấn son tô điểm sơn hà, nxb Văn Hóa Sài Gòn và Công ty
sách Thời Đại, 2004, trang 15-18.
[3]
Nguiễn-Ngu-Í, 100 năm báo chí Việt nam: Báo chí hôm qua, 1865-1954,
Bách Khoa số 217 (15-1-1966), số kỷ niệm 100 năm báo chí Việt Nam, trang 29.
[4]
Theo Thiện Mộc Lan, sđd, trang 16.
[5]Dưới
bóng tre xanh, in trên Ngày Nay từ số 1 (30-1-35) đến
số 13 (21-5-35), truyện đang in dang dở thì ngừng, rồi không in tiếp nữa.
[6]
Gia đình, Ngày Nay số 30,18-10-36, sách do nxb Văn Nghệ TP Hồ Chí
Minh, 2001, trang 8. Chúng tôi dùng bản đã in thành sách, Khái Hưng có sửa đổi
đôi chút.
[7]
Thoát ly, bản Đại Nam chụp lại ở Mỹ, không đề năm, trang 13.
[8]
Xem chương: Trường Mỹ thuật Đông Dương, phần II.
[9]
Không tệ! Không tệ!
[10]
Có da có thịt lắm! Ngon lành lắm! Gợi cảm lắm!
Nguồn: Văn Việt