“Mấy
hôm nay anh lên cơn sốt cao, lúc nào anh cũng mê. Trong cơn mê anh thấy những
người bạn của anh đang ôm súng nằm phủ kín vùng đồi. Và anh, anh đi hết chỗ của
người nầy đến chỗ của người khác. Nơi nào anh cũng hỏi từng người một: “ Mày có mang theo lựu đạn không. Nếu tụi nó
có tấn công mà ném chứ”. Rồi anh tới người lính khác: “Có mang theo đủ cấp số đạn không mầy. Ngủ gục là chết cả đám đó nghe.”
Trong cơn mê anh thấy hết tất cả. Anh gọi tên từng người. Không thấy có ai
trả lời. Thế rồi anh nói to: “Đó. Những
cây đào tao trồng cho tụi mầy đó. Cành lá xum xuê đó, có cả trái đào nữa, về mà
chạy nhảy rong chơi như thời còn thơ ấu ở quê nhà. Nơi nào cũng là quê cả tui
bây ơi. Về đi. Về đi. Về với ta”. Anh la to làm hai con chó giật mình chồm
dậy. Chủ bịnh, hình như chúng cũng muốn binh theo...”. Tôi tua lại đoạn đọc
truyện mấy lần chỉ để nghe lại đoạn nầy
thôi rồi ngồi thừ ra suy ngẫm. Đây là đoạn văn ngắn trong truyện Vùng Đồi của
nhà văn Phạm Văn Nhàn vừa được đọc trên Đài phát thanh-truyền hình Tiền Giang
trong chùm 5 truyện ngắn của anh đọc liên tục từ ngày 7-11/04/2021 tiếp sau hai
truyện ngắn của nhà văn Trần Hoài Thư được đọc vào hai ngày trước đó 5-/04/2021
mà Trần Hoài Thư đã viết đùa trên blog của mình về hiện tượng lạ nầy.
Truyện
ngắn Vùng Đồi của nhà văn Phạm Văn Nhàn tôi đã được đọc từ lâu, truyện được in
trong tập truyện ngắn cùng tên do Thư Ấn Quán in lần đầu năm 2000 và được tái bản
vào các năm 2002, 2014, nó cũng được in trong tập Màu Thời Gian của cùng tác giả.
Tôi cho rằng đây là một truyện ngắn hay và có ấn tượng nhất trong các truyện ngắn
của anh. Câu chuyện kể về một người lính miền Nam sau khi ra tù cải tạo đã tự
nguyện lên vùng đồi để phủ xanh cái đồi trọc nham nhở dấu vết bom đạn của một
thời chiến tranh, cái đồi mà ngày xưa trong chiến tranh chỉ sau một đêm dưới trận
pháo kích dữ dội của những người “anh em” phía bên kia đồng đội của anh không
còn một ai sống sót và anh cũng chỉ thoát chết trong gang tấc. Chỉ có sống trên
ngọn đồi nầy, người lính cũ ấy mới cảm thấy không bỏ rơi đồng đội, không có lỗi
với họ, tìm chút gì đó an vui, ấm áp cùng chia ngọt xẻ bùi với đồng đội như
trong những thời khắc khốc liệt nhất của chiến tranh. Những kẻ đi rừng cho rằng
có ma có quỷ trên đó vì mỗi đêm gió nổi lên họ nghe có nhiều tiếng hú rợn người
nhưng người lính lại cho rằng đó là lời nói thầm thì của đồng đội đang nói chuyện
với mình, kêu gọi anh về với họ. Nỗi ám ảnh khôn nguôi, một “sang chấn tâm lý”
thời hậu chiến mà nhiều người lính cả hai phe thắng và thua cuộc đều mắc phải.
Phải
nói thật lòng, trước 1975 tôi chưa có dịp đọc và tiếp xúc nhiều với các tác phẩm
của nhà văn Phạm Văn Nhàn, tần suất của anh hiện diện trên các tạp chí miền Nam
bấy giờ rất ít trong khi đó người bạn văn cũng là người bạn thân của anh-Trần
Hoài Thư- truyện lại ‘phủ sóng” khắp nơi từ Văn, Văn Học, Bách Khoa, Vấn Đề...
Sau nầy đọc bài viết “Phạm Văn Nhàn Những Hiển Lộ Từ Miền Ký Ức” của Nguyễn Lệ
Uyên tôi mới biết phần nào lý do sự vắng mặt đó:
“Phạm Văn Nhàn viết ít. Đến nay ông
có 2 tập truyện là “Vùng Đồi” và “Màu Thời Gian”, đều viết khi định cư tại Hoa
Kỳ và do Thư Ấn Quán xuất bản. Trước 75 ông cũng có một số truyện ngắn đăng rải
rác trên các báo văn nghệ miền Nam, nhưng có lẽ do chiến tranh, hành quân và
huấn luyện nên không giữ được bản thảo và cả những bài lai cảo để có thể coi đó
là dấu mốc cho sự nghiệp văn chương cho cá nhân.
Có lần ông tâm sự: “Tôi đến với văn
chương, trước hết là vì bạn bè”. Như vậy, phải chăng niềm đam mê của ông với
chữ nghĩa được nhìn thấy từ bóng dáng các bạn văn nghệ một thời, nơi những vùng
đất đóng quân, kéo dài từ Bình Định đến Bình Thuận. Đó là những Trần Hoài Thư,
Lê Văn Trung, Võ Tấn Khanh, Nguyên Minh, Nguyễn Bắc Sơn, Tô Đình Sự… nhất là
với người anh Từ Thế Mộng. Nói khác, ông đã bị cuốn hút vào sinh hoạt văn nghệ
từ trong nước hay sau này ở nước ngoài, ít nhiều đều xuất phát từ những người
bạn. Ở đó, họ sống hết mình, làm việc hết mình và đối đãi với nhau bằng cả tấm
lòng chân thật”.
Thế hệ của nhà văn Phạm Văn Nhàn là thế hệ của những Hà
Thúc Sinh, Trần Hoài Thư, Trần Dzạ Lữ, Nguyễn Bắc Sơn, Lâm Hảo Dũng, Phạm Cao
Hoàng, Mang Viên Long..., thế hệ đó Trần Hoài Thư gọi chua chát và cay đắng
nhưng cũng rất tự hào là “thế hệ chiến tranh”, thuở ấy từ xa tôi nhìn họ với
cặp mắt ngưỡng mộ và háo hức theo dõi từng bước chân của họ trên con đường văn
học. Đối với nhà văn Phạm Văn Nhàn bằng lối kể chuyện dung dị,
không rào đón hay tạo những nếp gấp bất ngờ hầu bẩy người đọc, ngòi bút của ông
giống như con sông đưa nguồn nước rỉ rả đi về mọi hướng bằng những câu chuyện
xưa cũ, kỷ niệm nào đó thời đi học, những con người một thời thân quen gần gũi
nay không còn hay đang ở một phương trời xa lắc,và nhất là hình ảnh người lính,
anh viết về đồng đội của mình một thời đồng cam cộng khổ, một thời tù đày cải tạo
với một niềm cảm thông và quí mến, những Nó, Hắn, Anh như nói đến một người nào khác nhưng thật ra
tôi biết đâu đó trong Nó, Hắn, Anh có hình ảnh của anh bên trong. Những người
đã mất hình như vẫn còn đâu đó, đan xen vào những giấc mơ khi thì đằm thắm dịu
dàng, khi thì cay đắng xót xa, khi thì ngậm ngùi buồn bã... nhưng tuyệt nhiên
tôi không thấy nét hận thù căm tức hay sự nguyền rủa khinh bỉ đối với những kẻ
đã đày đọa mình sống như một loài cầm thú, gánh lấy những oan khiên đầy khổ nạn
của những người lính bên thua cuộc.
Đất nước trải qua một cuộc chiến tranh kỳ
lạ, đau đáu trong lòng người cháu trước hoàn ảnh gia đình của người bác:
“Để ngày ngày bà ra ngồi nơi cách cửa phía sau nhà nhìn ngôi mộ
của anh mà buồn da diết. Cha theo về phía bên kia. Con cháu về phía bên này. Cứ
đánh nhau hoài. Bà ăn chay niệm Phật hằng đêm để cho cha con đừng giáp mặt
nhau. Nhưng làm sao biết được, có thể cha con cùng đánh nhau trên một mặt
trận mà không hay biết. Chiến tranh kỳ quặt, rõ ràng nồi da xáo thịt trong
ngôi nhà của bác tôi.” Và
ngay cả bản thân người cháu cũng bị cuốn theo guồng máy của cuộc chiến tranh kỳ
lạ ấy để rồi ba năm đi lính và bảy năm cải tạo, cũng phải rời bỏ quê nhà mà
không biết bao giờ trở lại.
(Một Chút Ngậm Ngùi)
Hương Xưa cũng là một truyện ngắn khác
làm tôi trăn trở rất nhiều về chính sách lừa dối mị dân của chính quyền mới thời
đó: Hắn sau nhiều năm đi tù cải tạo vì là lính miền Nam, ra tù vất vả kiếm sống
“Hắn không từ
bỏ một chỗ làm nào, miễn làm sao có tiền để sống”.Trong một lần ngồi nghỉ trước
cổng căn nhà khang trang của một gia đình có vẻ quyền thế trong một xã hội đã
thay đổi chủ, hắn đã tần ngần say mê nghe lại một bản nhạc cũ, nhìn sự xơ xác của
hắn đến nỗi mấy đứa con gái trong nhà tưởng hắn là lão ăn xin “ Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương
xưa. Cho tôi về đường cũ nên thơ. Cho tôi gặp người xưa ước mơ... hay chỉ là giấc
mơ thôi ...” Một loại nhạc vàng mà chế độ mới cấm đoán vì là nhạc đồi
trụy phản động nhưng nó lại được vang lên một cách tự do mạnh mẽ trong những
ngôi nhà sang trọng của kẻ thắng cuộc. Cuộc đời có những cái phản diện, phi lý
và dối trá đến thế.
Khi gặp lại chị của người bạn cũ, anh nhận
ra những thay đổi rất lớn ở chị của bạn. Những khổ đau trong cuộc sống mà con người đã trải qua, họ
lại mong muốn chẳng thà mình điếc hẳn luôn để không nghe thấy những điều buồn
bã, đau khổ trong cuộc đời nầy nữa:
“Thời gian đã làm thay đổi đi tất cả, con hẻm
ngày nào im ắng chậm chạp, chây lì trước những biến thiên của thời cuộc, bây
giơ sau cộc đổi đời đã trở nên ồn ào náo nhiệt, Tôi đi chậm trên con hẻm
vào nhà chị, chẳng ai nhìn ra tôi. Ngược lại tôi cũng thế. Chẳng lẽ thế hệ của tôi,
ngày hôm nay, trong con hẻm này chẳng còn ai để nhìn ra nhau, hay để tôi nhìn
ra họ để có một lời hỏi thăm mừng rỡ.Con người sống trong kỷ niệm, nặng
lòng với quê hương, Những kỷ niệm như ùa về: “Tôi vẫn bước những bước
đi thật chậm, để nhìn thấy tôi trên con hẻm này mấy mươi năm về trước. Để nhìn
thấy lại những viên gạch bằng đất nung đỏ au dùng loát đường, nay thay bằng nhựa.
Tôi đi thật chậm để nhìn thấy bong tôi và Hạo, em trai của chị, mỗi lần tôi đến
nhà chị chơi với Hạo.” Một
người chị của bạn, 40 năm sau tìm về thăm, tai điếc nặng hỏi sao không gắn máy
trợ thính, người con gái trả lời thay mẹ:
- Mẹ cháu muốn vậy. Chẳng muốn nghe ai
nói chuyện gì hết. Chửi cũng được. Khen cũng được. Mẹ cười tất. Chỉ thế thôi cũng
đủ làm ta trỉu lòng, còn gì đau đớn hơn một nỗi
đau u hoài và thầm lặng đến thế không nhỉ?
(Sống Với Kỷ Niệm – web Văn Chương Việt)
Trong một câu chuyện khác cũng buồn như thế,
đất nước đã không còn khói lửa chiến tranh thì tại sao mình lại rời bỏ quê
hương không biết bao giờ mới quay về?
“Cuối cùng rồi chuyến bay cũng cất cánh vào lúc nửa khuya. Tôi
nhìn Sài Gòn qua khung cửa nhỏ của con tàu. Sài Gòn vẫn ngập trong ánh đèn. Và
bạn bè tôi, cùng Cầm chắc giờ này đã ngủ. Và, như năm 68 với Cầm, tôi vẫn biệt
tăm khi con tàu mang tôi rời khỏi quê hương không biết khi nào trở lại”.
(Vẫn Mãi Mãi Biệt Tăm – web
Văn Chương Việt)
Trong truyện ngắn của anh, Chiến tranh
hiện ra như con quái thú, bi thảm kì quặc và trần trụi hận thù thành một vết sẹo
lớn nhăn nhúm khó coi hằn sâu vào tâm khảm những người còn sống không thể gột rửa
hay trút bỏ khỏi xác thân dù quá khứ ấy đã đi qua cuộc đời họ lâu lắm rồi như
hình ảnh Tiểu Lan trong Thị Trấn Nhỏ, Toán trong Cô Bạn Gái Năm Xưa, người mẹ
trong Nghe Tin Ngừng Bắn, người thầy giáo trong Bông Mía Lau, Hắn trong Hương
Xưa, tôi trong Khoảng Đời Còn Lại, Người lính già trong Nơi Góc Phố Cũ, Hắn
trong Tìm Về, Ông trong Màu Thời Gian, thằng Ân khi nhìn thấy xác của thằng bạn
bị bắn chết trong Đất Khô. Người Khổ... và còn biết bao nhân vật đi qua trong
tác phẩm của anh mà không có lấy một cái tên cụ thể nào, mà thật ra cũng cần
chi gán tên cho một ai đó mà trong thâm tâm họ cũng cố muốn quên đi những ký ức
đau buồn mà. Hãy để “Màu Thời Gian” cho nó tàn phai đi có lẽ hay hơn cả thì phải. Hiếm
hoi có một chút niềm vui gượng gạo của người vợ trẻ khi đưa chồng xuất viện mà
thân thể còn khá lành lặn dù bị thương tật rất nặng(Mùa Hoa Mận Nở).
Đúng như lời mở của nhà văn Trần Hoài Thư khi giới thiệu
tập truyện ngắn “Màu Thời Gian” của anh: “Được đọc tác phẩm của một tác giả
mình yêu thích là một niềm vui. Càng vui mừng hơn nữa khi tác giả ấy là một
người cùng một thế hệ, cùng một lứa tuổi, trên vai mang cùng chung những thăng
trầm của lịch sử. Bởi vì, ít ra, từ tác phẩm, chúng ta có thể tìm lại cái bóng
của mình của một thời...”
Tôi quí ở nhà văn Phạm Văn Nhàn tình bạn
không gì thay đổi dù trong hoàn cảnh chiến tranh hay lúc sa cơ lỡ vận qua lời kể
của nhà văn Trần Hoài Thư: “Cám ơn Thượng đế đã cho tôi có một người bạn như anh. Anh chơi với bạn thật
tình. Anh chơi với bằng hữu thật tình. Anh đến với bằng hữu không câu hỏi, và
thắc mắc. Anh cho nhiều hơn là nhận. Căn nhà khu Sáu ở Qui Nhơn vào những năm
68,70,71 là một bằng chứng. Một người lính nghèo như anh lại dám bỏ ra thuê một
nơi dùng để dung dưỡng bao bọc những bạn bè bằng hữu và cả những người lao công
đào binh của đơn vị mà anh bảo lãnh ra ngoài.”
Tôi ví các tác phẩm của anh như là những
cánh chim lưu lạc bay qua dòng sông định mệnh vì ngay từ nhỏ bản thân anh đã là
một cánh chim lạc loài bay vô định trong cơn lốc chiến tranh: Nằm trong một đầu
thúng được mẹ gánh chạy Tây càn qua các vùng quê của Đại Nẫm bên nhánh sông Cà
Ty đầy lau sậy, lớn lên một chút mấy đứa bạn một thời chăn trâu tắm sông thân
thiết thì đứa ở bên nầy đứa ở bên kia cầm súng bắn giết lẫn nhau. Sau tháng
4-1975 kẻ thì hả hê sung sướng người thì lâm vào cảnh tù đày cải tạo. Nhà văn
Phạm Văn Nhàn cũng không thoát khỏi vòng xoáy định mệnh ấy như bao người lính
miền Nam lúc bấy giờ nên với anh: “...Viết
không phải để trở thành nhà văn, nhà thơ. Vì nhà văn còn có thể “hư cấu” tạo ra
một câu chuyện để trở thành một truyện, dù ngắn hay dài. Còn tôi thì không. Trước
75 và bây giờ cũng vậy. Viết những gì mà tôi đã thấy, đã nghe, để ghi lại như một
câu chuyện kể, bạn bè đọc cho vui. Nhưng, nói gì thì nói, viết gì thì viết, người
lính miền Nam vẫn còn mãi trong tôi với những cái đẹp của người lính...”.
Anh viết như thể trả món nợ ân tình với bạn bè, đồng đội với quê hương khổ đau
của mình như nhân vật trở về và ở lại trong Vùng Đồi. Điều
nầy làm tôi nhớ lại mấy câu thơ của Tô Thùy Yên:
“
Ta về khai giải bùa
thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi”.
(Ta Về)
Vâng! Một lần kể lại để rồi thôi. Những
bài ký, truyện ngắn của anh trong Vùng Đồi, Màu Thời Gian hay đăng rải rác ở
đâu đó trên mạng chắc cũng chỉ muốn có vậy.
Giờ đây cánh chim lưu lạc ấy đã trôi qua một dòng sông định mệnh khác nhưng
không phải là một dòng sông chết chóc hận thù mà là dòng sông đầy ánh sáng và
màu sắc, yên bình hơn nhưng trong lòng lại luôn hoài vọng về một dòng sông định
mệnh trong quá khứ đầy khốc liệt và bão dông vùi dập bao kiếp người nhưng cũng
thấm đậm nhân bản và hạnh phúc dù rất mỏng manh đầy đau đớn. Ta có quyền hy vọng
những dòng tinh huyết ấy lại có điều kiện tuôn trào dù bây giờ chỉ còn là những
dòng nước nhỏ nhoi nhưng lại tinh túy và thanh khiết biết bao nhiêu.
Bên bờ Kênh Tẻ, tháng 6-2021
NGUYỄN AN BÌNH
(Trích từ tập RONG CHƠI CHỮ NGHĨA CÙNG PHẠM VĂN NHÀN - Thư Ấn Quán xuất bản, 2021)
Tham khảo:
1- Tập truyện
ngắn Vùng Đồi, Màu Thời Gian, các tác phẩm khác đăng trên web vhnt Văn Chương
Việt của Phạm Văn Nhàn.
2- Phạm Văn
Nhàn Những hiển lộ từ miền ký ức của Nguyễn Lệ Uyên
3- Với Phạm Văn Nhàn của Trần Hoài Thư
*Nhận xét của nhà văn Phạm Văn Nhàn:
Cảm ơn Nguyễn An Bình đã viết về một PVN.
Bài viết đúng về anh.
Từ xưa chơi với bạn bè anh vẫn nói : tôi đâu phải nhà văn nhà
báo, dù anh viết phóng sự cho Nhật báo Quyết Tiến. Và có thẻ báo chí.
Qua Mỹ ngoài ở tù 8 năm đưa thẻ báo chí ra. Mỹ bắt tay và hẹn
gặp ở Mỹ. Không hỏi một câu.
Nói cho vui vậy mà.
Cảm ơn em đã viết về một người bạn. PVN. (gởi qua email ngày 22/06/2021