Trăm năm cuộc lớn nguyên là
mộng
Một ngọn đèn con biết với ai
(Nông Sơn Nguyễn Can Mộng,
Nông Sơn toàn tập, tr.811)
1. Giở từng trang bản thảo bút ký-hồi ký-tản văn-truyện và tự truyện
vừa nhận qua email của tác giả Nguyễn Minh Nữu, đêm tháng sáu Sài Gòn mùa giãn
cách chợt ngưng đọng lại, ngọn đèn và tôi, và những câu chuyện không phải tôi vừa
đọc mới đây, mà từ những ngày tháng trước, 1 năm, 2 năm trên Quán Văn, lâu hơn,
có truyện đã 3, 4 năm… bất chợt cứ trở đi trở lại làm tôi băn khoăn không dứt.
Đi ngược chiều thời gian, tâp truyện mở ra không gian quen thuộc là đầu nguồn
dòng Potomac, và thời gian hiện tại với truyện mới nhất như mới viết hôm qua,
hôm nay giữa mùa đại dịch cúm Tàu tháng 5.2020. Rồi kết thúc với truyện đầu tay
đăng báo đến nay vừa tròn nửa thế kỷ (1971). Câu thơ bất chợt “lẩy” từ trang
sách cụ Phó Bảng trong bài “Thức đêm” (Nông Sơn toàn tập, nxb Tổng hợp, 2004)
làm lời đề từ bỗng như một khai mở cho tâm cảm người viết. 50 năm. Thời gian phải
chăng vốn cũng chỉ là giấc mộng Nam Kha mà trăm năm, ngàn năm trước trong cái
bí ẩn bất lực huyền diệu người xưa vẫn ví von… Có chăng những tiền duyên nhân
quả trong cõi bụi bặm này? Có chăng kiếp lai sinh kỳ diệu? Có chăng lời nguyền
hoạ phúc báo ứng hiện tiền? Có chăng ta còn gặp lại ta lần nữa? 19 truyện, ký của
tác giả Nguyễn Minh Nữu đây trong vô tình hay hữu ý đã lặng lẽ đi lại hành
trình cuộc mộng lớn nhân sinh ấy.
Nếu trong tác phẩm tôi được
đọc 4 năm trước Thương quá Sài Gòn chủ đề khá tập trung là đất Sài Gòn, người
Sài Gòn, là tình bạn, tình yêu trong dòng chảy ký ức miên man ân tình “thương
quá” để mỗi bước đi về làm tác giả ngẩn ngơ thì tập Thuồng luồng mắt biếc lần
này không hoàn toàn chỉ dừng lại ở đó. Vẫn thấp thoáng từng cái tên Bình Đông,
Kênh Tẻ, Long Kiểng, Tân Quy; từng con đường Duy Tân, Kỳ Đồng, Trần Bình Trọng…mở
ra không gian Sài Gòn quen thuộc yêu thương thao thiết làm nền cho toàn tập
truyện ký này, nhưng từ tâm cảm “một ngọn đèn con biết với ai” ấy, những lớp ẩn
ngữ, ám dụ và cả sự chọn lựa các truyện, ký không cho phép tôi dừng lại ở chủ đề
quen thuộc cũ. Quả là không có sự đọc cuối cùng. Bài đã đọc, đã viết 4 năm trước
sao giản đơn hời hợt 3/10 bề mặt cốt truyện, sự kiện, tình tiết… dường như chưa
chạm được phần chìm của tảng băng mà tác giả Nguyễn Minh Nữu muốn gửi trao cho
người đọc hôm nay?
2. Thuồng luồng mắt biếc gồm 19 truyện lẫn tự truyện, cũng có thể
gọi là bút ký hay hồi ký, vì thi pháp nổi bật là những truyện kể theo dòng ký ức
và nhân vật trần thuật có đến 14/19 truyện xuất hiện ở điểm nhìn người trong cuộc.
Xin tạm gọi chung là truyện-ký. Điều rõ nhất là luôn có sự đan xen trộn lẫn khó
phân biệt ranh giới tách bạch các thể loại cũng như cấu trúc trong từng truyện
khiến người đọc không khỏi không nghĩ đến thi pháp mảnh vỡ (Fragmentation) đặc trưng của văn
xuôi khuynh hướng hậu hiện đại (Postmodernism). Theo lý thuyết, Mờ hoá
(Declearisation) là bản chất của văn xuôi tự sự hậu hiện đại, bao gồm những
khuynh hướng chính kế thừa và phát triển từ văn chương hiện đại như Dòng ý thức
(Stream of conciousness) Huyền ảo (Magical), Mảnh vỡ (Fragmentation), Tối giản
(Minimalism), Giễu nhại (Parody) Giả trinh thám (Pseudo-Detectivity) tuỳ trường
hợp, được sử dụng một cách có chủ đích nhằm tạo ra hiệu quả thẩm mỹ.
Trong kiểu đan xen thể loại đó, đặc trưng của thi pháp mảnh
vỡ hiện rõ trong cấu trúc các truyện gắn với hình thức hồi ký như loạt 10 truyện
về Sài Gòn từ Khu Nancy ở Sài Gòn, Số 19 Kỳ Đồng, Chuyện cổ tích trên bến Bình
Đông, Nhớ về Long Kiểng… đến những trang tự truyện, tự thuật trong Cuối năm nhớ
mẹ, Văng vẳng bên trời tiếng hạc qua, Thanh Ca tác động, Nguyễn Minh Diễm anh
tôi, Bên bờ Kênh Tẻ, Khu phố ngày xưa… Dấu vết của thủ pháp mảnh vỡ nổi rõ ở điểm
tuy là hồi ký, tự truyện song cũng không còn là chuyện riêng một cá nhân tác giả,
mà là một kiểu nhật ký, hồi ký dành cho tất cả mọi người. Bởi, lồng trong những
câu chuyện của người trần thuật xưng “tôi” ấy, người đọc có thể nhìn lại, nhớ lại
như cuốn phác thảo biên niên của một vùng đất, một bờ kênh, một khu phố, một
tên tuổi danh nhân lừng lẫy, một phong trào du ca của tuổi trẻ Sài Gòn, các thi
văn đoàn tuổi học trò trước và sau 1975, kể cả những tâm tình chân chất, nết ăn
nết ở phóng khoáng ân tình của con người Sài Gòn trọng nghĩa khinh tài mà ngày
nay ngỡ như chỉ là “chuyện cổ tích”. Cả đến câu chuyện rõ ràng chỉ là chuyện một
gia tộc, một gia đình, ký ức yêu thương xót xa về mẹ, về cha, về anh, về chị… rất
cá biệt, rất riêng của mỗi Nguyễn Minh Nữu, nhưng bóc tách từng lớp ký ức chồng
chéo ấy, phải chăng lại ẩn sau nó những giá trị rất chung. Đó là hồn cốt dân tộc,
là nền nếp gia phong cốt cách của cả một thế hệ trí thức Nho học trước1945 mà dẫu
bao phân ly thất tán, tâm thức những người con Việt chúng ta hôm nay vẫn cung
kính tìm về và gìn giữ nâng niu. Đặc biệt là hình ảnh đầy xúc động về người mẹ
bản lĩnh một đời lặng lẽ hy sinh giữ tròn tiết hạnh gia phong, người chị hiếu đễ
tất tả thay mẹ chăm chút cậu em nhỏ nên người trong cơn vật đổi sao dời biển
dâu dồn dập, thời đại nào, hưng phế đến đâu, cũng là hình ảnh truyền thống đẹp
đẽ được trân trọng trong xã hội Việt Nam bao đời nay.
Phải chăng đó cũng là cái Hà Nội thứ tư nền nã, thanh lịch,
nghìn năm văn hiến mà Cao và Ông Vượng thợ Khảm đã tin tưởng, đã hy vọng lắng
sâu lẩn khuất đâu đó trong hồn người sẽ có dịp hiển lộ ra?
Cấu trúc nhiều truyện trong
Thuồng luồng mắt biếc còn mang đậm đặc trưng mảnh vỡ ở lối viết rời rạc, ngắt
quãng, chuyển cảnh đột ngột và kết thúc bỏ lửng giống như tác phẩm chưa hoàn tất.
Tính ghép mảnh, phi trung tâm cũng khá đậm nét trong những hồi ký-tự truyện như
Khu Nancy ở Sài Gòn, Nhớ về Long Kiểng… Ví dụ như ở truyện thứ nhất, tác giả nhắc
lại rất tường tận không gian địa lý đường đi lối rẽ của khu Nancy là một nơi chốn
gia đình từng ở, tiếp theo là liên tưởng về ông hoàng tango Hoàng Trọng cũng từng
ở khu Nancy này. Nhưng những trang tiếp không phải kể về Hoàng Trọng ở Khu
Nancy mà lại chuyển người đọc sang nửa vòng trái đất với Club du Jeudi ở nhà Nguyễn
Túc, một người có tài nấu phở Việt, nhiếp ảnh và sưu tập nhật báo… và cách ứng
xử tế nhị, lịch sự của nhóm anh em văn nghệ sĩ vùng DC. Cũng thi pháp mảnh vỡ ấy,
lần nữa cho phép tác giả lại quay về Khu Nancy với phường Cầu Kho nơi còn đó dấu
tích Cụ Nguyễn Đình Chiểu chào đời hai thế kỷ trước, với trường tiểu học Trần
Bình Trọng- nơi có khu nhà mồ học giả Trương Vĩnh Ký và tài học uyên bác của
nhà khoa học lỗi lạc này. Còn truyện thứ hai, Nhớ về Long Kiểng, bắt đầu với những
miêu tả về vị trí địa lý, người kể chuyện “tôi” sau đó mới xuất hiện khi nói về
chị Bội Cẩn, nhưng không đi sâu vào phân tích tâm trạng hay nội tâm, tình cảm
nhân vật mà rời khỏi ngôi nhà ở Long Kiểng của chị Bội Cẩn, ráp tiếp những
trang ký ức rất sống động mà ngậm ngùi về cuộc đời tài hoa thăng trầm khốn khó
của nhạc sĩ Châu Kỳ. Nghe như còn vẳng vọng tiếng hát của ông: “Chỉ có đôi ta
không bao giờ ly biệt, chỉ có đôi ta tha thiết mộng ban đầu. Đừng khóc cho
tương lai mai thuyền ngược về đâu. Với một tiếng tin yêu nhau, mối tình đẹp
ngàn sau...". Chưa dừng ở đó, tác giả tiếp tục dẫn người đọc đi xa hơn ngắm
Chùa Ông, Cư xá Ngân Hàng… Để rồi cũng chính ông hụt hẫng cùng những cánh đồng
ngập mặn, những con lạch quanh co, những rừng dừa biến mất, trong miên man nỗi
nhớ về miền đất thân thương một thời gắn bó, dù giờ đã thay đổi nguy nga tráng
lệ không ngờ…
Tâm cảm đó, ông đã gặp lại nguyên si trong Bên bờ Kênh Tẻ…
Riêng hai truyện ngắn cuối
cùng của tập truyện lại là một bất ngờ khác.
Nửa thế kỷ tròn. Thời gian vời vợi. Không gian mịt mù. Quá khứ tưởng đã lùi xa lăng lắc vậy mà Một thoáng mây phiêu bạt, truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Minh Nữu, đăng trên tạp chí Văn – Sài Gòn, 1971, khi còn là một chàng trai 22 tuổi, vẫn đem lại cho người đọc nhiều sức lay động. Hiện thực chiến tranh là không gian bao trùm mang diễn ngôn sống chết nghiệt ngã định mệnh, không gian hẹp hơn là tiền đồn và những ngày doanh trại ở miền núi heo hút khốc liệt thì chứa đựng trong bản thân nó diễn ngôn phản kháng sinh tồn. Tác giả không xuất hiện mà ẩn vào lời kể và nhân vật. Kỹ thuật viết truyện được xây dựng từ điểm tâm trạng của nhân vật người lính tên Nhự. Mở đầu trực tiếp bằng những câu ngắn, dồn dập với các tình tiết dồn nén cực độ, gần như không còn có thể dồn nén hơn. Tình thế của anh mở ra một thế giới hiện thực đổ vỡ, hỗn độn, mất mát, đổi thay, chua chát…chi phối toàn bộ mạch truyện.
“Tết năm đó, Nhự không về
thăm nhà. Lý do thật dễ hiểu là còn nhà đâu nữa mà thăm. Di cư vào Nam, mẹ Nhự
mướn một căn nhà nhỏ trong khu xóm lầy lội ở Sài gòn làm chỗ thờ bố Nhự, đó
cũng là cái tổ ấm duy nhất của Nhự, trong suốt tuổi ấu thời. Nhự là con trai
út, đứa con tội nghiệp nhất. Nhự mất cha từ hồi còn bốn tuổi, cũng cái tuổi
này. Nhự mất cả quê hương.”
Càng lúc, cảm thức mất mát
bơ vơ càng siết chặt cuộc đời Nhự: “Nhưng càng ngày, Nhự càng cảm thấy một thất
thoát khác, chua xót hơn, man mác mà dầy vò Nhự từng ngày từng đêm từng sớm từng
chiều. Đó là chỗ trở về.” Mất quê hương. Mất tuổi thơ. Một chỗ trở về. Một chỗ
không chỉ để sống, mà còn để chết. Vậy mà, trrong mong manh côi cút của số phận,
Nhự đã không để cái yếu hèn nhỏ nhoi làm mình gục ngã. Nhự vượt thoát nó bằng
những giá trị và danh dự người lính, bằng tình yêu rất đỗi chân thành đằm thắm
của Thuý và niềm tin mãnh liệt ở tình yêu, ở những giấc mơ cho ngày mai…
Tôi cũng thích cách miêu tả
chân thật về mối tình đầu ngây thơ và cách ứng xử đậm chất hảo hán trượng nghĩa
khinh tài của nhân vật “tôi” trong Dòng nước mắt xanh. Cảm giác có một chút ám ảnh
vô thức trong motif -yêu- chị ở mối tình đầu trong veo theo cách lý giải của
Sigmund Freud. Nhân vật kể: “Tôi mồ côi cha từ năm bốn tuổi, tôi thèm khát cái
không khí nghiêm khắc nhưng không kém phần chiều chuộng của người cha, mà tôi
không có được, nên tôi thích chạy qua nhà Hằng chơi, Hằng cũng vậy, mỗi lần tôi
qua là mỗi lần được chiều chuộng, và tha hồ làm nũng, tôi chỉ thành thật yêu mến
Hằng, tới độ không thể xa rời.” Ám ảnh vô thức này hiện diện không ít lần trong
tập truyện. Ngay trong tác phẩm đầu tay, được Thuý yêu và ngỏ ý đợi chờ, Nhự
xúc động tới muốn khóc vì cảm thấy: “như mình trở lại tuổi bé thơ, sống tự
nhiên và thanh thản bên người chị đôn hậu khoan dung.” (tr.203)
Trong Dòng nước mắt xanh, sự
sáng tạo có thể ghi nhận ở cách thay đổi điểm nhìn trần thuật bằng hình thức đối
thoại “tôi” và “anh” tưởng tượng nào đó. Đối thoại ở đây cũng chính là dạng tự
nhân đôi chính mình để tự phân tích tâm trạng mình cũng như tạo sự khách quan
cho nội dung trần thuật. Tình non dại trong veo. Ẩn ức tuổi thơ. Tình thương và
cái tâm hào hiệp đáng yêu chính là khởi điểm cho truyện ngắn Nguyễn Minh Nữu
neo mãi hình tượng đẹp trong lòng người đọc.
Sử dụng kết cấu mở, ngắt đoạn,
rời rạc, không gian ghép mảnh, phi trung tâm, cốt truyện chưa hoàn tất, tác giả
chỉ mô tả lịch sử biến thiên, trình bày đời sống như nó vốn có, không lý giải
phân tích là những dấu hiệu điển hình của thi pháp văn xuôi hậu hiện đại, cho
dù Nguyễn Minh Nữu ý thức hay không ý thức, những đặc trưng này cứ lặp đi lặp lại
định hình một phong cách sáng tác riêng, những mảnh vỡ hiện thực ấy dường như
là phần chìm bật lên từ tiềm thức nỗi niềm của riêng ông: hối hả đi tìm lại một
cái gì đó đã không còn và luôn thôi thúc trở về. trở về. Sài Gòn và tuổi thơ.
“Chúng tôi đã lớn lên, các Thi văn đoàn và bút nhóm đã lụi tàn.” (Khu phố ngày
xưa); đau đáu xót xa một thế giới hoài niệm đẹp đẽ đầy yêu thương đã mất, một
thế giới vụn vỡ, không toàn vẹn đã và đang thay đổi không ngừng, đã và đang xa
lạ không cùng…
Nhưng lòng thì mãi sao nỡ
nguôi quên…
“Nói cho cùng, trở về chính
là nhân đôi kỷ niệm, được sống, được thở và được vui buồn một lần nữa cái tuổi
thanh xuân đã qua của mình.” (Bên bờ Kênh Tẻ)
3. Ngoài những truyện – ký mang yếu tố hồi ký-tự thuật trên, đặc trưng của văn xuôi hậu hiện đại còn rõ nét hơn ở những truyện truyền kỳ hay có yếu tố siêu nhiên huyền ảo trong tập Thuồng luồng mắt biếc. Ngòi bút của Nguyễn Minh Nữu ở thể loại này vẫn giữ lối kể chuyện tự nhiên song có những kết hợp khá mới mẻ. Bút pháp kỳ ảo, con người miền Tây hiền hoà và các thế lực siêu nhiên như Thần Sông, Thần Biển, Thần Mưa…đưa người đọc trở về thế giới huyền thoại. Nguyễn Minh Nữu không nhằm gieo cảm giác sợ hãi và khiếp đảm như các truyện kỳ ảo nói chung khi mượn những chi tiết hư cấu quen thuộc của truyền thuyết dân gian về Con Rồng Cháu Tiên, về sự tích Núi Cấm, về chín khúc sông Cửu Long…
Vận dụng vào trường hợp Con trai thuỷ thần, Thuồng luồng mắt
biếc, và chi tiết huyền ảo “lai sinh” của cậu bé Nguyễn Minh Kha trong Văng vẳng
bên trời tiếng hạc qua có thể thấy tác giả đã cố tình xoá mờ ranh giới thực hư
và mượn yếu tố siêu nhiên như Thần sông Tử Kim Long, con Vua Rồng Bát Lang…làm
mờ hoá ranh giới con người tự nhiên và lực lượng siêu nhiên quyền năng thần kỳ
khi cho những cuộc hôn phối kỳ lạ giữa Trang và Tử Kim Long, Lân và Kim hay Bát
Lang và em Lành…Nguời đọc bị lẫn vào không khí hư hư thực thực không phân định
như trường hợp đêm định mệnh giữa Chơn Nhã và cô gái làng chài Phú Quốc hỗn loạn
mê mê hoặc hoặc trong Sư ông chùa Núi, cả câu chuyện “lai sinh” hi hữu ngàn năm
có một trên đời.
Hay có thể bắt gặp tính chất
giễu nhại (Paroxy) trong Thi thánh. Các chi tiết hư cấu theo ý đồ nghệ thuật
tác giả được tưởng tượng thật thú vị: khi đọc một câu thơ của một tài năng lớn
thì cây “rùng rùng chuyển động âm thanh như sáo trúc” hoặc “cây vạm vỡ vươn cao
rùng mình như tiếng sóng”. Ngược lại những kẻ bất tài vô danh tiểu tốt, hợm
hĩnh ưa phỉnh nịnh thì tiếng “rung yếu như gió thoảng và âm thanh nhỏ xíu như
tiếng muỗi kêu. Trên cây có dăm ba lá xanh, nhiều nhất là lá vàng, và mươi chồi
non, chồi nào cũng héo úa không thể phát triển được.” Cách hư cấu cuộc gặp giữa
Thi Lâm quả nhiều ý nghĩa sâu sắc. Hình tượng ám dụ vô cùng sinh động, như một
lời nhắc nhở nhẹ nhàng, thâm thuý: “Cái vĩnh viễn sống đời là Tác Phẩm chứ
không phải tác giả” (Thi Thánh).
Motif sông nước và hôn nhân
giữa người-thần linh trong truyện cổ dân gian từ thời công xã nguyên thuỷ được
lặp lại trong truyện có cùng tên tập sách và cũng là truyện chiếm dung lượng
dài nhất (24 trang): Thuồng luồng mắt biếc.
Mở đầu với không gian bờ sông Potomac ở Washington Hoa Kỳ và cuộc sống
yên bình của ba mẹ con bà cháu, nhưng theo dòng hồi tưởng và thi pháp mảnh vỡ,
tác giả lại dẫn ngược về quá khứ một căn bệnh lạ được người bình dân gọi là “Mắc
Đàng Dưới” của nhân vật Trang, một cô gái hiền lành nết na những năm tháng bên
bờ sông Hậu ở Hồng Ngự - Đồng Tháp, Việt Nam, bỗng dưng có mang... Thủ pháp đồng
hiện thông qua các sự kiện, các tình tiết hoang đường, các nhân vật đời thường
lẫn nhân vật siêu nhiên được kết cấu theo trình tự thời gian, xuất hiện trong
nhiều thời điểm, nhiều không gian cụ thể,
cách biệt rất xa về địa lý nhưng có thật, làm tính chất hư hư thực thực cứ quyện
lẫn vào nhau. Thực tại là chuyện gia đình ông Thái Lao sau năm năm ông đi học tập
cải tạo, về Hồng Ngự sinh sống rồi duyên may, định cư tại Mỹ. Thực tại là Trang
và đứa con trai của nàng nay là một bác sĩ khôi ngô tuấn tú đang sống và làm việc
bình thường như một người bình thường. Là chuyện Lân yêu đương và khao khát tìm
kiếm một cô gái đích thực của mình. Kỳ kỳ ảo ảo là chuyện Trang té xuống nước,
thoát chết, nhờ được Tử Kim Long - là một trong 18 thần tướng của dòng sông
này, mấy trăm năm trước – cứu mạng và có mang sinh ra Lân. Khoa học tới nay vẫn
chưa chứng minh được hiện tượng căn bệnh lạ dân gian vẫn lưu truyền này. Thuồng
luồng trong đời sống tâm linh người Việt cổ là một con vật vừa có thực trong Đại
Việt Sử ký toàn thư (kỷ Hùng Vuơng) vừa là con vật tưởng tượng, có sức mạnh
siêu nhiên ở dưới nước và thường cứu giúp thuyền bè hay con người khi lâm nạn
trên sông nước. Thậm chí, còn là vật thiêng trong tín ngưỡng của đồng bào tộc
Thái ở Cao Bằng, Bắc Kạn. Tác giả đã khéo léo tận dụng điều người đọc có thể biết
sẵn ấy để nói lên một điều bí ẩn mà chỉ có tình yêu đích thực mới có thể lý giải.
Màu sắc nghiệp duyên trong học thuyết nhà Phật dễ dàng được nhiều đối tượng người
đọc tiếp nhận khi tác giả mượn lời vị Hòa Thượng ở chùa Quán Thế Âm đầu nguồn
sông Potomac nói với Lân và cô gái tiền duyên thiên định của anh: “Các con tìm
đến nhau và sẽ trộn lẫn vào nhau bởi vì đó là luật sinh tồn của tạo hóa”.
Phải chăng tác giả muốn mượn
mùi hương kinh giới lạ đặc trưng mà Lân được truyền hưởng từ người cha rồng Tử
Kim Long, từng là vật cản khi Lân đến với Thúy, với Jennifer và chỉ hòa hợp khi
gặp con gái Bạch Y Long bởi đó không phải căn bệnh bí ẩn nào hết, mà là mật hiệu
ký thác của thần linh như một thông điệp: Tình yêu là duyên tiền định, là ngàn
năm gặp gỡ. Và tình yêu đích thực là tình yêu thủy chung tuyệt đối. Trăm dặm,
ngàn dặm, đại dương mênh mông cách trở vậy mà “chỉ cần nàng gọi tên ta, Tử Kim
Long, ngay lập tức ta sẽ đến bên nàng, phù trợ nàng, bảo trợ cho con…” Những đoạn
văn dịu dàng cảm động. Ôi, người hay thần linh ma quái, thế giới nào có thể thiếu
tình yêu! Phải chăng chính trong cuộc sống càng xô bồ giả trá này, con người
chúng ta càng luôn khao khát đi tìm một nửa đích thực của mình, khao khát một
tình yêu đẹp thủy chung và tuyệt đối như thế.
Con trai thủy thần cũng nằm
trong hệ đề tài và thi pháp huyền ảo ấy. Ở truyện này, Nguyễn Minh Nữu đã nhại
motif thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh nhằm lý giải hiện tượng tự nhiên bằng một mối
tình cảm động: Thủy Thần biển Đông có 9 người con trai, và ông Tám Rắn đó chính
là người con trai thứ tám phụ trách thông thương cho cửa Ba Thắc (thuộc địa phận
tỉnh Sóc Trăng bây giờ). Nhiệm vụ của họ là mỗi ngày đi vào đất liền bằng chín
lối khác nhau. Mỗi khi đi vào, họ hóa thân thành chín luồng nước lớn, những lớp
vảy là những con sóng bạc, khi họ đi vào là nước thủy triều dâng lên, vừa làm
lòng sông sâu thêm, vừa làm bờ sông mịn láng, và khi lên tới đầu nguồn, họ quay
về biển đông, đó là khi người ta nhìn thấy nước triều xuống. Hàng ngày, thủy
triều lên xuống tạo cân bằng cho sinh thái tự nhiên và là hoạt động của thiên
nhiên chi phối và hỗ trợ con người. Những long thần này còn làm ra những cơn
mưa tưới cho vùng đồng ruộng bát ngát của đồng bằng miền Nam.
Không quá biến hóa và dữ dội
như Mẹ Cả trong Con gái thủy thần của Nguyễn Huy Thiệp, vì tình yêu, Bát Lang
trong Con trai thủy thần đã tự nguyện từ bỏ giống rồng cao quý bất tử để làm
người trần gian, làm ông Tám Rắn bình thường nơi dân dã. Chẳng những thế, để giữ
tình yêu, Bát Lang còn phải chịu đớn đau không nhả viên ngọc rồng tỏa sáng, chịu
quy luật thế gian sinh lão bệnh tử để được yêu em Lành, được sống và chết bên cạnh
em Lành… Bởi chàng nhận ra phép thần thông mà chàng có chỉ có thể giúp chàng
hóa thân làm đủ mọi loài hình dáng khác nhau, xấu đẹp, hiền dữ…. “Nhưng có một
thứ chúng ta không nhân bản được, vĩnh viễn không làm được vì ai trong chúng ta
cũng chỉ có một cái hồn. Cái Hồn đó là cái bản chất riêng tư mỗi cá thể, là cái
tâm để hành xử thiện ác, và là cái mang theo trong suốt cuộc luân hồi”. (tr.41)
Để từ đó, với thân phận con người, nhờ có hồn người, Bát Lang biết yêu thương,
biết giận hờn, biết trách nhiệm, hiểu được thế nào là tình yêu và chấp nhận chết
cho tình yêu.
Một dòng chảy Cửu Long cạn
nhưng hai ngọn đồi bên cạnh núi Két vùng Thất Sơn - nấm mồ của đôi uyên ương lại
nổi lên như một minh chứng đẹp của tình yêu. Điều tôi suy ngẫm mãi là quyết định
bất ngờ của người cha. Thủy Thần đầy quyền năng có thể cải lão hoàn đồng đó chẳng
những không đùng đùng giận dữ, dùng quyền uy cưỡng bức Bát Lang trở về cõi Bất
Tử mà lại thuận theo những lý lẽ con trai phân giải, nghĩa là thuận theo chữ
Tâm, thuận theo lẽ tự nhiên…
Trong nhiều tư liệu lịch sử
(mà hiện nay vẫn còn tranh cãi), sông Tiền sông Hậu chảy vào đất Việt, đổ ra 9
cửa sông gọi là Cửu Long theo thứ tự gồm cửa Tiểu, cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông,
Cổ Chiên, Cung Hầu, Định An, Ba Thắc, Trần Đề. nhưng do hiện tượng cát bồi và
biến thiên của dòng chảy theo thời gian, khoảng thập niên 1960, cửa sông thứ 8
là Ba Thắc đã bị bồi lấp nên sông Hậu chỉ còn hai cửa biển ngày nay là cửa Định
An và cửa Tranh Đề (Sóc Trăng). Gạt đi những yếu tố siêu nhiên, câu chuyện tình
cảm động của người con trai thứ tám của Thủy Thần phụ trách thông thương cho cửa
Ba Thắc cũng là một cách lý giải thật lãng mạn vì sao 9 cửa sông Cửu Long trên
phần đất Việt nay chỉ còn có tám. (Cũng vì sức hấp dẫn hư thực của câu chuyện
này, giáp tết năm 2018, chúng tôi đã rong ruổi các đường quê ven sông đầy hương
sả hương cau để đi tìm 9 cửa sông. Huyền thoại 9 Rồng chính thức chỉ còn có 7,
do cửa thứ 3 Ba Lai đã bị hệ thống cống đập ngăn lại. Hệ thống này nằm trong dự
án ngọt hóa vùng ven biển của tỉnh Bến Tre.)
Con người và thiên nhiên qua
trang viết của Nguyễn Minh Nữu có một sự tương thông giao hảo tuyệt vời. Ngược
lại, quan hệ con người với con người trong Hảo hán cuối cùng phức tạp đầy dằn vặt
mâu thuẫn nghi ngờ, tuyệt vọng. Thoạt đầu, cứ tưởng tác giả đưa người đọc lùi về
không gian bến nước hậu Lương Sơn Bạc xa xưa 108 anh hùng tụ nghĩa do “quan bức
dân phản”, nhưng rồi câu chuyện về Tống Giang được viết thêm với nhiều ám dụ. Sự
tan rã của Lương Sơn Bạc là một đề tài lịch sử nhiều tranh cãi và suy ngẫm cho
nhiều thời đại, nhiều quốc gia. Nguyễn Minh Nữu dường như không chủ đích kể
chuyện các hảo hán Trung Hoa mà đằng sau những sự kiện là những gửi gấm nói về
các “hảo hán” Việt, những người mang lý tưởng vì nghĩa quên thân. Qua đó, bàn
luận, chiêm nghiệm về chữ “bạo” và việc “trừ bạo” thời nay. Tuy đau đớn trước
hiện thực nhiễu nhương, diệt tên tham quan này thì vẫn còn tên tham quan khác
nhưng lẽ nào chỉ còn Phạm Tuấn độc cô thế thiên hành đạo? Không. “Phải trả cho
Lương Sơn cái chính nghĩa vì dân trừ bạo. Dù rằng muốn trừ bạo thì phải dùng bạo,
nhưng cái bạo của người chính nghĩa là cái bạo lực nhân ái.” Cái Ác cho dù có
đang ngạo nghễ thắng thế, kết thúc buồn nhân vật tự rơi vào khủng hoảng nhưng
bàng bạc trong nỗi ngậm ngùi vẫn ánh lên niềm tin Phạm Tuấn sẽ không phải là hảo
hán cuối cùng!
“Giương cao ngọn cờ chính nghĩa vì dân trừ bạo không phải là việc một người, một nhóm người, hay một thời, một đời bất ngờ sáng tạo rồi làm nên được. Tao nghĩ nó âm ỉ khai sinh từ nhiều con người, từ nhiều thế hệ, nó được thêm bớt bằng máu xương nhiều đời để thích nghi và đáp thỏa yêu cầu chính đáng của tất cả. Lúc đó, mọi thế lực dù hung bạo và gian ác cỡ nào nhưng đi ngược với lòng dân thì cũng tự diệt.” (tr. 73)
4. Gấp 238 trang sách lại, ám ảnh sông nước kênh rạch mênh mang
xuyên suốt 2/3 số truyện trong Thuồng luồng mắt biếc vẫn dập dờn. Đó cũng là một
cách cảm nhận và thái độ thẩm mỹ của tác giả đối với con người và thế giới. Bằng
không gian hoài niệm, thời gian hồi tưởng, chiêm nghiệm, cái nhìn trong văn
xuôi Nguyễn Minh Nữu mang cảm thức cội nguồn đậm nét với nhiều hình tượng đầy sức
gợi. Tâm thức là tình cảm và nhận thức đã ăn sâu bền vững vào tâm hồn con người
trong không gian ba chiều: trí tuệ, tâm trí và tiềm thức nằm sâu bên trong tâm
hồn con người để rồi do những tác động nào đó bất chợt chạm vào, khai mở tiềm
thức. Từ cội nguồn thẳm sâu, trùng hợp sao, mảnh đất quê cha đất tổ Duyên Hà
Thái Bình của Nguyễn Minh Nữu cũng vốn là vùng đất 4 bề sông biển từ thế kỷ thứ
7,8 cư dân các miền đã tụ hội. Tâm thức cội nguồn thôi thúc tác giả trở về đi
tìm một Hà Nội thứ nhất đẹp cổ kính của ký ức gia đình, về Sơn Tây quỳ bên mộ
cha cho lòng mơn man thương nhớ được âu yếm vỗ về. Tìm lại chính mình trong từng
trang cổ thi cha truyền lại và lòng nhủ lòng “tiếp mạch thư hương, giữ nếp nhà”
(NMN, Mênh mông trời Bất Bạt). Tâm thức cội nguồn khiến Sài Gòn và những dòng
kênh Đôi, kênh Tẻ cùng những phận đời nổi trôi nhưng khí khái thiện lành lúc
nào cũng đọng lại trong chiều sâu yêu thương tủi buồn bơ vơ tâm hồn thất thổ tứ
tán điêu linh ngày bỏ xứ. Và cũng tâm thức ấy, dòng Potomac bây giờ cũng là nơi
chốn trở về. Linh hồn sông nước Nam bộ - quê hương cô sinh viên Đại học Văn
Khoa Bảy Thâu dịu dàng ít lời hoa mỹ bước vào gắn bó đời anh - cũng hào sảng hoá thân vào từng tên đất tên
sông, hoà đồng, gắn bó với thiên nhiên bằng chính cả sinh mệnh đời mình. Mối
quan hệ sinh thái hết sức tự nhiên cộng hưởng như hình ảnh Trang một đời lúc
nào cũng mơ màng bên bờ sông định mệnh đời mình. Tình nghĩa thuỷ chung son sắt
cũng là một motif đặc biệt trong tác phẩm mà Nguyễn Minh Nữu gửi gắm với mọi người,
với thế hệ mai sau. Có nhau kiếp này vốn duyên ngàn năm hạnh ngộ. Thuỷ chung
trong tình yêu, Bát Lang chấp nhận không quay trở lại thiên đình, chịu kiếp vô
thường sinh tử bệnh lão để trọn nghĩa cùng người con gái mình yêu. Thuỷ chung
trong tình bạn, ấu thơ đùa vui bắn bi đánh đáo hát hò đến đến phút ngậm ngùi tiễn
nhau lần cuối quên đi những lọc lừa toan tính của đời (Hoà Bình áo đen, Thanh
Ca tác động…). Giá trị nhân văn xúc động trong Chuyện cổ tích trên bến Bình
Đông đọc mấy lần tôi vẫn rưng rưng. Ngòi bút kể chuyện như chụp như quay lại từng
khúc phim đời cảm động cho thấy tác giả chắt chiu từng chút tình người, và cứ để
sự kiện dẫn dắt người đọc suy ngẫm… Đạo lý. Nhơn nghĩa. Gieo nhân lành ắt gặt
quả ngọt. Cội nguồn đạo lý ngàn năm của dân tộc bao đời không cần những lời hoa
mỹ, đai tự sự mà nhẹ nhàng như những dòng sông con suối lặng lẽ dào dạt đôi bờ…
Thi pháp phân mảnh (Fragmentation) là một chọn lựa độc đáo của
tác phẩm này với kết cấu ngắt đoạn tự nhiên theo dòng chảy ký ức, có khi như dở
dang bỏ lửng, có khi mờ hoá ranh giới không gian thời gian nghệ thuật. Không có
không gian nào trung tâm, không gian hiện tại bên này dòng Potomac gần nửa đời
gắn bó hay không gian kỷ niệm bên ấy quê nhà thuơng nhớ cứ đan xen trộn lẫn kết
nối thành những mối dây ân tình níu giữ cuộc đời người xin chọn nơi này làm quê
huơng vẫn không thôi thuơng nhớ cội nguồn. Không có và cũng không còn khoảng
cách. Những yếu tố hoang đường được vận dụng linh hoạt trong Thuồng luồng mắt
biếc cùng cách trần thuật theo dòng ký ức cho phép tác giả đan lồng giữa hiện
thực mở đầu là bờ sông Potomac của bang Virginia nước Mỹ với con sông Tiền tận
Hồng Ngự Đồng Tháp xa xôi, hay con đường Nuisap. St với dãy Thất Sơn thiêng
liêng bên kia bờ đại dương cách nửa vòng trái đất mà vẫn không làm người đọc bất
ngờ. Một kết nối thật ý nghĩa.
Hay bởi trong mỗi chúng ta
cũng đang đau đáu một dòng sông cội nguồn thao thiết của chính mình…
Để làm gì trong cõi “trăm năm cuộc lớn nguyên là mộng” này?
Tôi đến đây và ghi dấu đây
Biết trước chỉ trong một
phút giây
Cái vô cùng của rất vô cùng
đó
Xoá sạch đi bằng cơn gió bay
(Lời ghi trên đá, tr. 92)
Một gửi gắm. Một nỗi niềm. Một
kỳ vọng.
Thị Nghè, 6.6.2021
Hoàng Kim Oanh.