Tặng Lãm Thuý
Lời Nói Đầu Của Người Dịch
Cách
đây gần hai mươi năm, trong chuyến đi công tác vùng Đông Nam Á trong đó có Việt
Nam, tôi có dịp ghé thăm cố đô Huế. Ban ngày đi thuyền dọc theo sông
Hương thăm các lăng tẩm. Buổi tối vợ chồng anh lái đò cho gọi gánh hát
lên thuyền, thắp nến thả trôi trên sông, rồi hát những bài bảo là nhạc cung
đình,xưa kia chỉ vua chúa mới được nghe, nhưng lại có cả những bài tân nhạc như
Mưa Trên Phố Huế v.v… Ca nhạc sĩ đều là những người xuất thân từ nhạc
viện Huế, trình diễn rất cung cách, điêu luyện. Tôi không khỏi nhớ đến
Bạch Cư Dị, và bản dịch Tỳ Bà Hành của Phan Huy Vịnh(Phan HuyThực?) Bản
dịch Tỳ Bà Hành của cụ Phan thật là một áng văn chương tuyệt đẹp. Hai câu
đầu hay không bút nào tả xiết: Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu. Hai câu ấy trong nguyên tác là Tầm
Dương giang đầu dạ tống khách, Phong diệp địch hoa thu sắt sắt. Lá
phong và hoa lau mùa thu xạc xào, sao sác. Hai chữ sắt sắt ở cuối
câu thật mạnh, thật đau xót, vừa có ý xào xạc, lại vừa có ý quặn mình xót xa,
héo hắt. Cụ Phan bỏ không dịch hai chữ phong diệp, nhưng hai chữ lau
lách của cụ đã gói trọn cả cảnh trời sầu muộn biệt ly. Hai câu ấy
thật không sao có thể dịch hay hơn được. Lại có những câu như cùng một
lứa bên trời lận đậnthật là tuyệt hay. Tuy nhiên trong bản dịch ấy
lại có dùng nhiều chữ Việt tuy không phải là những chữ cổ, cụ Phan cách chúng
ta cũng chỉ dưới hai trăm năm, nhưng nghe đã ít quen tai, ý nghĩa dễ bị lạc đi
hướng khác. Chẳng hạn như hai câu ba, bốn: Người xuống ngựa,
khách dừng chèo, Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ty. Trúc ty
thì có thể hiểu ngay là trúc và tơ, là sáo và đàn.
Nhưng nhớ chiều trúc ty thì trước khi đọc nguyên tác tôi đã hiểu nhầm là
nhớ một buổi chiều nào đó trong quá khứ từng ngồi nghe đàn hát với nhau.
Đến chừng đọc nguyên văn hai câu ấy làChủ nhân há mã khách tại thuyền, Cử
tửu dục ẩm vô quản huyền, không thấy có buổi trưa, buổi chiều gì cả, tôi
mới vỡ lẽ ra chiều ở đây là chiều hướng, là dáng vẻ, là chiều như trong
câu Kiều Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. Hay là câu người xuống
ngựa, khách dừng chèo thì tôi không hiểu rõ là người nào xuống ngựa, phải
sau khi đọc nguyên tác mới hiểu đó là người chủ tiệc tức Bạch Cư Dị khi
đến nơi, xuống ngựa, thì bạn đã ngồi đợi trên thuyền.
Trở
về đất Mỹ, tôi bâng khuâng nhớ lại tiếng đàn tiếng hát giữa cảnh sông nước lung
linh, lẩm nhẩm ngâm mấy câu Tỳ Bà Hành, rồi tự lúc nào không biết đã dịch lại
cả bài thơ ấy, cố sao cho gần với tiếng Việt bây giờ. Nay tình cờ có
người bạn Văn mới làm bài thơ có nhắc đến mấy tứ trong Tỳ Bà Hành, tôi chép lại
ra đây gửi bạn cùng đọc.
Tô
Thẩm Huy, Houston, Tiết Hạ Chí, Đinh Dậu 2017
Lời Tựa Của Bạch Cư Dị
Nguyên Hòa thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận Tư Mã.
Minh niên thu, tống khách Bồn Phố Khẩu, văn chu trung dạ đàn tỳ bà giả, thính
kỳ âm tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh. Vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng nữ,
thường học tì bà vu Mục, Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, uỷ thân
vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khúc. Khúc bãi mẫn nhiên,
tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tụy chuyển tỷ vu giang
hồ gian.
Dư xuất quan nhị niên, điềm nhiên tự an, cảm tư nhân ngôn
thị tịch thí giác hữu thiên trích ý, nhân vi trường cú ca dĩ tặng chi phàm lục
bách nhất thập lục ngôn, mệnh viết Tỳ Bà Hành.
元和十年,予左遷九江郡司馬明年秋,送客湓浦口,聞舟中夜彈琵琶者, 聽其音錚錚然有京都聲問其人, 長安倡女嘗學琵琶於穆曹二善才,年長色衰, 委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲。曲罷憫然,自敘少小時歡樂事,今漂淪憔悴轉徙於江湖間。
予出官二年, 恬然自安, 感斯人言是夕始覺有遷謫意,因為長句歌以贈之凡六百一十六言, 命曰琵琶行。
Năm Nguyên Hoà thứ mười (815) ta bị giáng về làm Tư Mã
quận Cửu Giang. Thu năm sau tiễn bạn trên bến sông Bồn, chợt từ thuyền ai
réo rắt tiếng tỳ bà giữa đêm khuya, nghe thánh thót nét nhạc kinh đô. Hỏi
ra thì người ấy trước là ca kỹ ở kinh thành Trường An, từng học đàn với hai
danh sư họ Mục, họ Tào. Lúc xế chiều tàn suy nhan sắc, gửi thân về làm vợ
kẻ lái buôn. Ta bầy tiệc mời nàng dạo mấy khúc. Đàn xong, nàng ngậm ngùi
thuật lại dâu biển đời mình, từ những ngày thanh xuân vui sướng, đến lúc tiều
tuỵ nổi trôi trên chốn sông hồ.
Ta làm quan lưu đầy đã sang năm thứ hai, lòng vẫn an
nhiên tự tại, đêm nay chợt cảm lời ai mà chạnh xót phận mình, viết lên
bản trường ca sáu
trăm mười sáu chữ này để tặng nàng, gọi tên là Khúc Hát Tỳ Bà.
KHÚC HÁT TỲ BÀ
Bản Dịch của Tô Thẩm Huy
Bến Tầm Dương hoa lau sao sác,
Thu úa vàng se sắt
cánh phong.
Ngựa dừng, tiễn
bạn trên sông,
Chén đưa muốn cạn, chạnh không phách
đàn.
Say càng hận hơp tan, ly biệt.
Giòng biệt ly thẫm biếc trăng soi.
Bỗng nghe trên
sóng chơi vơi,
Tỳ Bà thánh thót
đầy trời mênh mang.
Chủ cùng khách bàng
hoàng, xao xuyến,
Lần thuyền xuôi, tìm đến làm quen.
Ngập ngừng, đàn
bỗng lặng im,
Khêu đèn bầy tiệc,
nài xin gặp người.
Mời gọi mãi, vâng lời lộ diện,
Nửa đàn che, e
thẹn mặt hoa.
So dây mấy tiếng
ngân nga,
Chưa vào giai điệu
đã ra hồn cầm.
Mỗi dây đàn, mỗi
âm thổ lộ,
Mỗi nỗi niềm sầu
khổ khôn nguôi.
Nhíu mày nắn phím
đầy vơi,
Bao điều thầm kín
cất nơi đáy lòng.
Tay ngọc vuốt,
bắt, buông, thoăn thoắt,
Chuỗi âm thanh réo
rắt, đê mê.
Dây trầm
mưa gió dầm dề,
Dây thanh
âu yếm tỉ tê nỗi niềm.
Dòng châu dội, vang
trên bàn ngọc,
Hạt nhỏ to, dồn
dập, nỉ non.
Vút cao oanh hót véo von,
Nghẹn ngùng thác đổ trên nguồn thênh thang.
Đang thánh thót, suối đàn ngưng bặt,
Thời gian như đứng
lặng, ngừng trôi.
Không gian mênh mông
chơi vơi.
Nghe trong
thinhlặng kiếp người buồn tênh.
Đàn lại vỡ, trừng
lên gay gắt,
Thét gươm đao, ngựa sắt ầm vang.
Dứt bài, quét phím
mặt đàn,
Bốn dây lụa xé,
vút lan đêm trường.
Đêm ắng lịm, khoang thuyền im phắc.
Vầng trăng thu
ngây ngất lòng sông.
Đàn xong, cất phím
trầm ngâm,
Đứng lên vuốt áo
giãi phân mấy lời.
Rằng, xưa vốn là
người kẻ chợ,
Cồn Hà Mô, trước ở
Trường An.
Mười ba đã thạo
ngón đàn,
Giáo phường đệ
nhất, giữa làng thiện
âm.
Dễ ai hơn giọng
cầm hiu hắt ?
Vẻ phấn son, ai chắc nhường ai ?
Ngũ Lăng say đắm
bao trai,
Tranh nhau lụa đỏ,
chen vai khăn hồng.
Lúc cao hứng, tuột
trâm, gẫy lược.
Khi tiệc vui, đàn
suốt năm canh.
Quần hồng hoen
rượu ngày xanh,
Thu đông hoan lạc, xuân thanh lỡ làng.
Mảnh nhan sắc,
thời gian giầy xé,
Vắng ngựa xe quạnh
quẽ riêng mình.
Dì chết, em lại
tòng chinh,
Về già nương tựa
chút tình khách buôn.
Khách ham lợi mải
đường buôn bán,
Phù Lương đi cả
tháng không về.
Sông trôi trăng lạnh não nề,
Một thuyền, một
bóng đi về lẻ loi.
Đêm khuya chợt mơ trời hội cũ,
Hồng lệ hoen mộng
thủa nào xưa…
…Ta nghe đàn đã xót xa,
Lại thương một
kiếp tài hoa, dạt vùi.
Cùng góc bể, chân
trời phiêu bạc,
Không hẹn mà bước lạc gặp nhau.
Ngỡ ngàng mấy cuộc
bể dâu,
Trong đêm hạnh ngộ
cảm sâu nỗi này.
Ta từ thủa thân
đầy đất trích,
Về Tầm Dương ngoạ
bịnh một năm.
Tầm Dương hoang
vắng thanh âm,
Quanh năm suốt
tháng tuyệt không tiếng đàn.
Chỗ ta ở Bồn Giang
đất thấp,
Chung quanh nhà
lau trúc tràn lan.
Đêm nghe quyên nhỏ
máu than,
Ngày nghe vượn hú
gọi đàn thê lương.
Thân vò võ, tay
đơn, chén chiếc,
Sớm bên hoa, khuya
thiếp trăng thu.
Sáo quê thổi tiếng
inh u,
Trõi tai nghe mãi
lọt ru được nào.
Đêm nay được dạt
dào âm nhạc,
Thơm cả hồn, đến
lạc Thiên Thai.
Gặp nhau, đêm ngắn
mộng dài,
Đàn thêm một khúc
cho ai thoả lòng...
Ngồi xuống gảy một
cung u thảm.
Bao đáy lòng nứt
rạn chênh vênh.
Kìa ai ngấn lệ
long lanh,
Riêng ta, Tư Mã, áo xanh nhạt nhoà.
Vì nàng, viết khúc
Tỳ Bà.
TỲ BÀ HÀNH
Bạch Cư Dị
Tầm Dương giang
đầu dạ tống khách
Phong diệp địch
hoa thu sắt sắt
Chủ nhân há mã
khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô
quản huyền
Túy bất thành hoan
thảm tương biệt
Biệt thì mang mang
giang tẩm nguyệt
Hốt văn thủy
thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy
khách bất phiết
Tầm thanh ám vấn
đàn giả thùy
Tỳ bà thanh đình
dục ngữ trì
Di thuyền tương
cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng
trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán
thủy xuất lai
Do bão tỳ bà bán
già diện
Chuyển trục bát
huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu
tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức
thanh thanh tứ
Tự tố bình sinh
bất đắc chí
Đê my tín thủ tục
tục đàn
Thuyết tận tâm
trung vô hạn sự
Khinh long mạn
nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi Nghê thường
hậu Lục yêu
Đại huyền tào tào
như cấp vũ
Tiểu huyền thiết
thiết như tư ngữ
Tào tào thiết
thiết thác tạp đàn
Đại châu tiểu châu
lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ
hoa để hoạt
U yết tuyền lưu
thủy há than
Thủy tuyền lãnh
sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt
bất thông thanh tiệm yết
Biệt hữu u sầu ám
hận sinh
Thử thời vô thanh
thắng hữu thanh
Ngân bình sạ phá
thủy tương bính
Thiết kỵ đột xuất
đao thương minh
Khúc chung thu bát
đương tâm hoạch
Tứ huyền nhất
thanh như liệt bạch
Đông thuyền tây
phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm
thu nguyệt bạch
Trầm ngâm phóng
bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y thường
khởi liễm dung
Tự ngôn bản thị
kinh thành nữ
Gia tại Hà mô lăng
hạ trú
Thập tam học đắc tỳ bà thành
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ
Khúc bãi tằng giáo thiện tài phục
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố
Ngũ lăng niên
thiếu tranh triền đầu
Nhất khúc hồng
tiêu bất tri số
Điền đầu ngân bề
kích tiết toái
Huyết sắc la quần
phiên tửu ố
Kim niên hoan tiếu
phục minh niên
Thu nguyệt xuân
phong đẳng nhàn độ
Đệ tẩu tòng quân a
di tử
Mộ khứ triêu lai
nhan sắc cố
Môn tiền lãnh lạc
xa mã hy
Lão đại giá tác
thương nhân phụ
Thương nhân trọng
lợi khinh biệt ly
Tiền nguyệt Phù
Lương mãi trà khứ
Khứ lai giang khẩu
thủ không thuyền
Nhiễu thuyền
nguyệt minh giang thủy hàn
Dạ thâm hốt mộng
thiếu niên sự
Mộng đề trang lệ
hồng lan can …
… Ngã văn tỳ bà dĩ
thán tức
Hựu văn thử ngữ
trùng tức tức
Đồng thị thiên
nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất
tằng tương thức
Ngã tòng khứ niên
từ đế kinh
Trích cư ngoạ bịnh
Tầm Dương thành
Tầm Dương địa tích
vô âm nhạc
Chung tuế bất văn
ty trúc thanh
Trú cận Bồn giang
địa đê thấp
Huỳnh lô khổ trúc
nhiễu trạch sanh
Kỳ gian đán mộ văn
hà vật
Đỗ quyên đề huyết
viên ai minh
Xuân giang hoa
triêu thu nguyệt dạ
Vãng vãng thủ tửu
hoàn độc khuynh
Khởi vô sơn ca dữ
thôn địch
Ấu á trù triết nan
vi thính
Kim dạ văn quân tỳ
bà ngữ
Như thính tiên
nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh toạ
đàn nhất khúc
Vị quân phiên tác
Tỳ Bà Hành
Cảm ngã thử ngôn
lương cửu lập
Khước toạ xúc
huyền huyền chuyển cấp
Thê thê bất tự
hướng tiền thanh
Mãn toạ trùng văn
giai yểm khấp
Toà trung khấp hạ
thùy tối đa
Giang châu Tư Mã
thanh sam thấp
白居易
Bản Dịch Tỳ Bà Hành của Phan
Huy Vịnh
Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.
Say những luống ngại khihầurẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.
Lần tiếng sẽ, hỏi ai đàn tá ?
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.
Dời thuyền theo hỏi thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu.
Chau mày, tay gảy khúc sầu,
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt,
Trước Nghê thường, sau thoắt Lục yêu.
Dây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, đau giận ngẩn-ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông.
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời.
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà mô trú ở lân la.
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên.
Gã thiện tài sợ phen dừng khúc,
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.
Ngũ lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tay nhịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Năm năm lần lữa vui cười,
Mãi gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trẩy, lại sầu dì thác,
Lần hôm mai đổi khác hình dung.
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết đôi cùng khách thương.
Khách trọng lợi khinh thường ly cách,
Mãi buôn chè, sớm tếch miền khơi.
Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng.
Đêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.
Nghe đàn ta đã chạnh buồn.
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời,
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ nảy mầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Cuốc kêu sầu, vượn hót nỉ non.
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.
Há chẳng có ca rừng địch nội,
Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe.
Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
Tần ngần dường cảm lời ta,
Đến ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.