(Tập 1, tr.99-101)
1. Bài thơ viết năm 19 tuổi
Nếu khai sinh và các loại giấy
tờ chính xác, thì nhà thơ, nhà văn Đoàn Văn Khánh (ĐVK) sinh ngày 1.6.1949. Năm
tác giả viết bài thơ Hoá kiếp tôi được ghi cuối bài là năm Mậu Thân, năm1968.
Nghĩa là lúc đó, chàng trai Đoàn Văn Khánh vừa xong bậc trung học đệ nhị cấp.
Và, bình thường, lẽ ra, hết mùa phượng đỏ, 19 tuổi chàng đang thênh thang giảng
đường, công viên, thư viện ở khung trời đại học đầy ước mơ, khát vọng tương
lai... Nhưng cuộc đời có những ngả rẽ không ngờ. Tuổi trẻ của quê hương tôi năm
tháng ấy bị bứt khỏi cuộc sống bình thường bình yên đó, bị ném vào cuộc chiến
tranh tàn khốc nhất, bi đát nhất, phi lý nhất... Mọi cánh cửa tương lai xin
"Trả lại em yêu"*. 19 tuổi. Không phải được lang thang trên "con
đường Duy Tân cây dài bóng mát", không có "khung trời đại học",
những buổi đi về hò hẹn "uống ly chanh đường uống môi em ngọt...", mà
như bao chàng trai thời loạn có trách nhiệm bất kỳ thời đại nào, bước chân của
chàng thư sinh ấy không đi vào giảng đường mà mang nặng hành tranh ước mơ và
yêu thương đi ra mặt trận như biết bao chàng trai thời loạn ấy:
Con đường đáo nhậm xa như nhớ
Chiều mập mờ xiêu lạc dáng
cò.
Quán chật xanh lên rừng lính
ướt,
Mặt bơ phờ dính gió bao la.
(Qua sông, Tô Thùy Yên)
Trong bộ nhận định và biên
khảo Văn học miền Nam 1954-1975 (Toronto, Nguyễn Publisher, 2016), Nguyễn Vy
Khanh cho rằng một số bài thơ của Đoàn Văn Khánh trước 1975 “đã chuyển tải nội
dung của thời đại chiến tranh, tình yêu hoặc đơn thuần thi ca chiều hướng nghệ
thuật” và đánh giá những tác phẩm ấy là những đóng góp trẻ cho vườn thi ca miền
Nam buổi ấy. Đúng vậy, những bài thơ quá trẻ. Tuổi trẻ Đoàn Văn Khánh đâu thể dửng
dưng trước vận mệnh đất nước, dân tộc, cũng không thể chấp nhận cuộc sống, tình
yêu Rồi cũng bọt bèo (tên một bài thơ của Đoàn Văn Khánh). “Chiến tranh đã là đề
tài thường trực trong thơ ông. Những bài thơ gây nhức nhối tư duy nhưng dễ tìm
đồng cảm.” Nhà nghiên cứu cũng ấn tượng: “Bài thơ Hoá kiếp tôi hợp cùng tiếng
thơ hiện thực lẻ loi nhưng đầy nhân bản (...) Ở đây, với nhà thơ, chiến tranh
đã thu gọn lại trong cảm nhận thân phận chân thật nhất" (VHMN 1954-1975,
tr.849).
Tự tôi hóa kiếp chính tôi. Tự
tôi đóng quan tài cho tôi.
Bài thơ năm 19 tuổi này của
Đoàn Văn Khánh cũng từng xuất hiện trên Tạp chí Bách Khoa 365 (số ra ngày
15/3/1972), với bút hiệu Đoàn Bằng Hữu.
HOÁ KIẾP TÔI
Hai tấm ngắn. Bốn tấm dài
Lầm lì tôi đóng quan tài cho
tôi
Khuya nay khâm liệm con người
Tôi làm con thú nói cười huyên
thuyên
Bò lê khắp cả hai miền
Cần chi cơm áo bạc tiền
thành danh
Cần chi lo chuyện tương
tranh
Hiệp thương, hưu chiến, yên
bình... vu vơ
Tôi làm con thú khù khờ
Vẫy đuôi hạnh phúc bên bờ vực
sâu
Tôi làm cây súng hai đầu
Đong đưa bóng chết qua cầu
thế gian
---------------
Mậu thân 68
Thật không ngờ chàng thư
sinh chỉ mới 19 tuổi ấy lại có thể thốt lên nỗi ám ảnh bi đát về cuộc chiến đến
thế. Từng câu, từng chữ, bức tranh thân phận tuổi trẻ bị đánh cắp hằn như vết cắt.
Câu lục mở đầu đanh lại. Nhịp ngắt 3/3 khác thường tức tưởi dồn nén. Nhà thơ
đang gồng chặt nắm tay, đông cứng từng giác quan tri nhận để đối mặt với cái chết
của chính mình: "Lầm lì tôi đóng quan tài cho tôi". Có ai từng nghĩ
mình sẽ trải qua phút giây này, cảnh huống này. Tôi đang sống. Và tôi đang chuẩn
bị tiễn mình vào cõi chết. Điệp khúc "Tôi làm con thú" 2 lần nhắc lại
đau đớn bất lực phải chăng là một sự lên án mãnh liệt cái cuộc chiến tàn bạo vô
nhân chống lại con người này.
19t chàng hãy còn trẻ lắm
nhưng cũng khí khái biết bao: cần chi những thứ vặt vãnh áo cơm bạc tiền danh lợi
đua chen. Cần chi tương tranh máu chảy ruột mềm. Chàng cũng chua chát nhận ra mọi
thứ giả trá phù phiếm phỉnh lừa "Hiệp thương, hưu chiến, yên bình... vu
vơ".
Tôi làm cây súng hai đầu
Đong đưa bóng chết qua cầu
thế gian.
Hai câu kết ám ảnh quá.
"Cây súng hai đầu"
của ĐVK sao mà đầy hình tượng ám dụ gợi những mạch ngầm nhức buốt không dễ giải
mã một cách giản đơn hời hợt... Sao lại “hai đầu? Nòng súng, đầu súng, mũi súng
nhiệm vụ lạnh lùng đúng bổn phận chức năng của súng là nơi viên đạn được thoát
ra khi bóp cò. Và tất nhiên phải sát thuơng hay kết liễu một mục tiêu nào đó. Một
ai đó. Vào ai đây? Vào cái gì đây? Ai ta? ai địch ?
Cây "cầu thế gian"
mà tuổi thanh xuân Việt Nam đi qua quá chênh vênh, mờ mịt... và dường như chỉ
có một đích đến cuối cùng: sự hủy hoại và cái chết. Biết là vậy. Nhưng bổn phận
công dân, họ chấp nhận "đong đưa bóng chết" như tự làm xiếc với chính
sinh mạng mình, chính thân phận mình giữa hai bờ sinh tử, thực hư... trong bom
đạn vô tình...
Nửa thế kỷ rồi.
Làm sao có thể quên.
Tôi đã lùi lại bao nhiêu ký ức
ngày nào khi đọc bài lục bát lạ lùng lẽ thường không dành cho một người quá trẻ
như ĐVK 51 năm xưa. Một thế hệ già trước tuổi. Một thế hệ bị đánh cắp mọi ước
mơ hoài bão làm người.
Hiện thực đất nước những năm
60, đặc biệt cái năm 1968 đầy biến động đã nhuộm màu tang thương qua tiếng thơ
tự thức cật vấn, đớn đau, phủ định của tác giả ĐVK từ buổi mới đôi mươi… Nói về
cái chết, 'tôi đóng quan tài cho tôi" cũng là diễn ngôn phản kháng cái chết
của ĐVK khi cái chết đã trở thành một hiện thực nghiệt ngã thường trực đối mặt
mặt trong tích tắc rủi may. Tỏ thái độ bất lực, chấp nhận, chua chát "tôi
làm con thú nói cười huyên thuyên" hay 'khù khờ" cũng chính là thái độ
phủ định chiến tranh lạnh lùng vô nhân chà đạp thân phận kẻ làm người...
Tiếng lòng đau đáu ấy đâu chỉ
của riêng ai... Nhưng cảm thức hiện thực tan vỡ trong thơ ĐVK đã vọng lên theo
cách đầy ấn tượng của riêng chàng, khẽ chạm đến từng hình ảnh, từng con chữ…, vẫn
chưa thôi nhức nhối người đọc hôm nay.
Cảm ơn anh đã cho chúng tôi
đau lại nỗi đau thành thực của một người trai thời loạn, để trân quý hơn những
phút giây được sống trên đời...
Hai tấm ngắn. Bốn tấm dài
Lầm lì tôi đóng quan tài cho
tôi
Ôi thơ 19 tuổi.
Còn gì bi đát hơn? Còn gì
tuyệt vọng hơn? Tuổi trẻ Việt Nam! Tuổi trẻ Đoàn Văn Khánh!
2. Bài thơ viết năm 21 tuổi
Không bất ngờ như lần đầu,
song chạm đến từng dòng thơ Đoàn Văn Khánh nửa thế kỷ trước, cảm xúc vẫn cứ
tràn đầy, tràn cả vào giấc đêm trăng 17 lẻ loi một mình giữa bầu trời rộng xa
xăm...
Bài thơ thứ hai trong hai
bài còn lại cũng ngang tàng chênh vênh và đắng nghẹn nỗi niềm chinh nhân thời
loạn không kém. Nguyễn Vy Khanh đã chọn giới thiệu trọn bài vào bộ nhận định
biên khảo nói trên và cho rằng “thơ Đoàn Văn Khánh còn tài tình, ngập ý khi
nhìn lại cuộc đời, thân phận chung cũng như riêng.” (VHMN 54-75, tr.852)
NĂM CÙNG THÁNG TẬN
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Ném xuống dòng sông tờ lịch
cuối
Có phải bây giờ trời đương
xuân
Quanh đây không một niềm rạo
rực
Trong ta gượng gạo tiếng reo
mừng
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Khom lưng đứng nhìn con nước
xuống
Dề lục bình mắc cạn không
trôi
Đàn cá nhỏ quẩy đuôi thoi
thóp
Lao lung niềm tuyệt vọng sao
nguôi
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Đo chiếc bóng theo tia nắng
quái
Viên đá lệch còn vang vọng
mãi
Con đường lõa lồ nằm ngủ
tênh hênh
Gã vô danh an phần mộ thí
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Đốt điếu thuốc bâng quơ đứng
ngóng
Sự chết nằm trên từng lá cây
Sự sống nằm trong từng hơi
thở
Phó thác đời may rủi, rủi
may
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Đêm thức trắng ngày no cơn
buồn ngủ
Muốn nằm vùi nhưng xị đế cạn
khô
Banh miệng khóc khó rơi hạt
lệ
Vò tóc tai thèm được nổi
điên
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Quăng trái lựu đạn lên trời
cao
Dòng chữ rối buồn thiu bóp
trán
Thơ dành cho những tháng
ngày sau
(Cầu ông Vẽ, 1970
Thơ miền Nam trong thời chiến,
tr.99-101.)
Gõ xong bài thơ dài nhất
trong 3 bài thơ Đoàn Văn Khánh đăng trên "Thơ miền Nam trong thời chiến"
tìm khắp google không có này, tôi chợt phát hiện mình ám ảnh nhất là khổ thơ cuối
trong bài thơ 7 chữ 6 khổ, khổ 4 dòng khổ 5 dòng xen kẽ này. Nói đúng ra..., là
ám ảnh bởi 1 từ duy nhất như chiếc chìa khóa bật lên cái tứ độc đáo, mở ra cả
không gian thời gian và bức tranh hiện thực miền Nam những năm 70 mịt mù khói lửa…
Quăng.
Tựa bài "Năm cùng tháng
tận". Nghĩa là đất trời đang vào xuân. Nhưng, nàng xuân đâu rồi không khoe
sắc, khoe hương chỉ gượng gạo hững hờ mắc cạn, thoi thóp...nơi quan tái...
Người lính và thơ.
Chiến chinh như cơn ác mộng.
Diễn ngôn kháng cự chiến tranh và cái chết phi lý đâu cần nhiều lời hoa mỹ vẽ vời.
Tứ thiệt lạ. Cử chỉ cũng thiệt bất ngờ mà dứt khoát như trong cơn cuồng nộ phi
lý: "Quăng trái lựu đạn lên trời cao". “Quăng” là vứt đi, bỏ đi, ném
đi... thật xa một vật thể nào đó mình dứt khoát không còn muốn thấy lại nữa...
Muốn "quăng" được tất nhiên phải dùng hết sức vung, sức bật vốn có
không chỉ của đôi tay mà của cả đôi chân rướn làm đà, có khi còn phải huy động
toàn lực của thân xác... Ở đây, như “viên đá lệch”, như “dề lục bình mắc cạn
không trôi”, đến nỗi tuyệt vọng còn bị lao lung..., như con sâu đo tự đo bóng
mình, khóc cười trong cơn vò đầu bứt tai “thèm được nổi điên” mà điên không nổi;
muốn chết mà chỉ có thể “phó thác đời may rủi, rủi may”, chàng trai trẻ muốn
tung hê tất cả, vượt thoát nỗi tù đọng ngộp thở của thời đại, quăng định mệnh đời
mình lên tận trời cao. Cái khoảng không quá mênh mông xa vời vô cùng vô tận...
Sức con người có thể chạm vô biên...?
Trút bỏ hết. Quăng thật
xa... quê hương điêu linh tương tàn tang tóc bao giờ hết lầm than...?
Quăng đi. Quăng đi “tờ lịch
cuối" trời xuân không rạo rực.
Quăng đi. "Lao lung niềm
tuyệt vọng chưa nguôi".
Quăng đi. quăng đi những may
rủi, rủi may:
"Sự chết nằm trên từng
lá cây.
Sự sống nằm trong từng hơi
thở"
Quăng đi.
"Đêm thức trắng, ngày
no cơn buồn ngủ
Muốn nằm vùi nhưng xị đế cạn
khô
Banh miệng khóc khó rơi hạt
lệ
Vò tóc tai thèm được nổi
điên"
Quăng hết đi. Chết chóc. Hận
thù.
Quăng đi.
Quăng đi...
Cả tôi.
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Buổi chiều một mình trên
thành cầu
Cô đơn tận cùng trong câu mở
đầu 6 khổ thơ lặp đi lặp lại như một điệp khúc buồn thê thiết. Tiếng nói thân
phận tuổi trẻ vọng giữa thời gian và không gian tù đọng, đặc quánh. Buổi chiều.
một mình. ngồi bên thành cầu. Người lính ấy chỉ còn đối diện với chính bản thân
mình cùng nỗi cô đơn tột cùng, vắng lặng tột cùng, ở một nơi có lẽ cũng xa lạ tử
sinh rình rập vô cùng: một tiền đồn biên cương heo hút sỏi đá hoang vắng thưa
người nào đó… Hai tiếng ‘một mình” như điệp khúc xác lập tình thế chủ thể trữ
tình trong thời khắc “năm cùng tháng tận”, xoáy vào lòng người đọc khoảnh khắc
tâm thức cộng đồng thiêng liêng bao đời nay của người dân Việt: hòa bình, xum họp,
đoàn viên…
Chỉ còn khát vọng chưa bao
giờ tắt trong trái tim thanh xuân đang rướm máu giữa cuộc chiến quá dài trên mảnh
đất quê hương mà anh cũng như bao đồng đội đau đáu yêu thương.
Hóa kiếp tôi.
Năm cùng tháng tận
Lao vào bụi đỏ mịt mờ
Sau lưng gió đuổi bơ phờ tóc
tai...
để rồi "Rú chân ga
phóng truy lùng quê hương"
(Trên quốc lộ 13, tr.101)
Có ai nghĩ ra chuyện"
truy lùng quê hương" kiểu ĐVK? Rú chân ga. phóng. Mạnh mẽ và quyết liệt. Bất
cần. Phải truy lùng cho được. Quê hương. Thần thoại. Tan hoang.
Như một lời dự báo. Như là một
khát khao. Như là một chấp nhận. Như là một... trối trăng, câu kết gieo những
tia mộng mơ thật đẹp.
"Thơ dành cho những
tháng ngày sau"
Ôi giấc mơ xa xỉ diễm tuyệt
mùa chinh chiến. May sao, tạ ơn đời, giấc mơ hoài vọng dự báo đó đã không bị dập
vùi tan nát cùng bom đạn bạo tàn. Người lính đã bước qua tử sinh trở về để giấc
mơ thành hiện thực. Thơ- điều xa xỉ ấy bây giờ đã được ĐVK chắp cánh vui buồn
mưa nắng nắng mưa tự tình cùng tình yêu và cuộc sống...
Một đời nặng những lao lung
Trăm cây ngàn lá trong rừng
đã quên!
(Mã lộ người, dẫn theo Nguyễn
Vy Khanh, Sđd, tr.850)
Viết xong bài này 2 năm trước,
bây giờ đọc bài nhận định của Nguyễn Vy Khanh, chợt thấm thía kinh nghiệm đọc
thơ ĐVK của nhà nghiên cứu này: “Ở Khánh, thơ đến làm chóng mặt không hẳn ở độ
cao mà thường ở những cụ thể đời thường- nhất là thời chiến; sáng tác thơ mà
như chơi trò thể thao “nặng ký”,“Tôi làm cây súng hai đầu/Đong đưa bóng chết
qua cầu thế gian”- từ đỉnh cao rơi xuống vực thẳm và ngược lại, từ tận cùng bên
dưới phóng lên”. Đơn giản, nhẹ nhàng, không cầu kỳ câu chữ hình thức, song
chính ở những cái rất cụ thể, rất đời thường ấy cho thấy, với ĐVK, “thơ là cảm
thức nghệ thuật thích ứng nhất để đến với đời, với người”, với thời đại và lịch
sử…
Và, thật đúng như kinh nghiệm
đọc của tôi hôm nay, thơ Đoàn Văn Khánh trên Văn học miền Nam thời chiến và những
sáng tác sau này, dù ở đề tài, hình thức thể loại nào, cũng là loại “thơ để
nghiền ngẫm và ngay cả người đọc sẽ phải sống lùi lại thời gian và những câu hỏi
thực hiện sinh, thực sâu lắng nhất!” (Nguyễn Vy Khanh, Sđd, tr.854)
Thị Nghè, 9.6.2019
Đọc lại, 1.6.2021
HKO
* Phạm Duy sáng tác ca khúc
"Trả Lại Em Yêu" năm 1971, trong lúc chiến tranh đang tiếp tục nuốt
chửng hàng hàng lớp lớp các chàng trai của cả một thế hệ, miền Nam cũng như miền
Bắc. Bài hát làm xao xuyến bao tâm hồn thanh niên thiếu nữ Sài Gòn thời đó.