CÙNG NGUYỄN CÔNG TRỨ
Sau giờ đọc văn "Bài ca ngất ngưởng"
Ngày
ông nhận quyết định hưu quan,
Hình
như cả kinh đô bàng hoàng,
Đạc
ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng…
Làm
quan chán, ông muốn làm trẻ con,
Cưỡi
bò thung thăng bờ đê lộng gió.
Dân
gian ngờ ông vẫn còn ấm ức,
Bịa
chuyện mo nang che miệng thế gian cười.
Tôi
không bao giờ tin Nguyễn Công Trứ lại tầm thường đến thế!
Nghe
nói miền Kim Sơn, Tiền Hải dân dựng đền thờ ông khi ông còn sống,
Ông
không màng,
Ông
không chiêu dân lập ấp khẩn hoang,
Thì
sẽ có người khác,
Nước
Nam mình thời nào cũng có người tài.
Cần
gì đền miếu!
Ông
về quê.
Hồng
Lĩnh phau phau mây trắng,
Lam
Giang biêng biếc dòng xanh,
Nhưng
không lên núi một mình,
Dắt
díu theo toàn gái đẹp,
Lưng
ong, mắt biếc, mày ngài,
Tom
chát, chát tom, sênh phách.
Thế
gian cười hay khóc,
Ông
cứ sống được là mình.
Ăn
ngon mặc đẹp sao bằng chơi đẹp,
“Cổ
lai thánh hiền giai tịch mịch….”
Lưu
danh muôn đời để làm chi,
Sống
cho trọn kiếp người… nhớ câu “sinh kí tử quy”,
Biết
sống cho mình, được mấy người biết thế!
Nương
dâu, bãi bể,
Bãi
bể, nương dâu,
Ông
vẫn vẹn nguyên như thế.
Đàn
ca sáo nhị phách sênh
Tom
tom chát.
Người
xinh
Giọng
hát cũng xinh,
Người
ròn cái tỉnh tình tinh càng ròn.
Về
Tiền Hải, Kim Sơn,
Chỗ
nào cũng thấy ông hiển hiện.
Về Cổ
Đạm
Nghe
đào nương ca cao vút tiếng thông reo.
Tom
chát, tom tom chát, chát tom…
VỚI LÍ BẠCH
Ông
sinh ra trong một gia đình thương nhân giàu có,
Chẳng
có tội tình gì,
Quê
hương ông xa Trường An vạn dặm đường,
Càng
hay.
Không
phải uốn mình theo lễ,
Không
phải tự trấn an bằng sáo ngữ “an bần lạc đạo”,
Khỏi
phải nghe cho rườm tai những lời đạo chích – thánh nhân.
Múa
kiếm, làm thơ và uống rượu,
Cho
phỉ chí làm trai cho bõ công trời sinh.
Uống
rượu một mình dưới trăng và ngêu ngao hát…
Có
thêm bạn bè thì cởi áo cừu, đem ngựa quý mà đổi lấy rượu ngon.
Tiền
bạc, chức tước là vật bên ngoài chỉ làm tấm thân cồng kềnh thêm nặng,
Chết
đi rồi ai lưu lại danh thơm?
Chỉ
thấy chật đầy những trang sử hôn quân, ngu trung, bất nhân, bất nghĩa,
Chỉ
thấy chật đầy những trang sử xương trắng phơi đầy đồng nội,
Chỉ
thấy chật đầy nước mắt dân đen.
Làm
trai cũng muốn đem tài giúp nước,
Nhưng
phượng hoàng thi chung lũ vịt gà, Lí Bạch không thèm.
Trời
sinh ra ông có tài, ông sẽ sống có ích,
Cần
chi một tấm biển đề danh!
Lâm
triều, ông nhận ngay ra thân phận,
Nhà
thơ ngự dụng làm sang cho Đường Minh Hoàng,
Biết
bao kẻ lấy thế làm vinh còn ông chỉ thấy nhục.
Quán
rượu nghèoTràng An ông tìm đến hàng ngày.
Nỗi
nhục nhã liệu có rửa trôi bằng rượu đắng?
Thân
phận tôi đòi càng thấm thía khi say!
Những
mũ cao áo dài ông khinh bỉ,
Cả
em trai họ Dương ông cũng đem ra làm trò hề,
Cả
vua nữa ông cũng coi là trẻ ranh không sợ,
Làm
thơ tình gửi tặng Quý Phi.
Giữa
Trường An lunh linh hoa lệ,
Ông
nhận ra dông bão phía trời xa,
Sấm
sét nổ kinh đô thành đống gạch,
Cỏ mọc
đầy lang sói ùa ra.
Học
theo người xưa “quy khứ lai từ…”
Không
về được với Đào Nguyên thì ta về với rừng với núi,
Nghe
thông reo suối hát nhìn ngắm mây bay,
Ngắm
trăng khuya một mình và nghe chim hót,
Bận
tâm làm gì,
Cuộc
thế phù du.
Thuyền
trôi trên sông, trăng sáng bốn bề,
Lòng
sông xanh thẳm,
Trời
cao mây bay,
Gió
hiu hiu thổi,
Uống
rượu và hát,
Trời
cho ta tài,
Cho
ta trí,
Cho
ta làm người.
Nào
thêm một chén ta mời ta,
Thêm
chén nữa ta mời trăng sáng,
Giã
từ cuộc thế phù du.
VỚI ĐỖ PHỦ
Suốt
đời ông mong có một minh quân,
Suốt
đời ông đọc sách mong mỗi khi lên tiếng;
Bút
mực có thần.
Học
hành, thi cử, đỗ đạt, làm quan…
Thờ
vua và giúp dân đời yên bình ngày Nghiêu tháng Thuấn,
Lối
đi ấy thênh thang hay đường cùng ngõ cụt?
Nào
ai có hay!
Thời
trai trẻ cũng có khi phải khom lưng và uốn cong ngòi bút,
Viết
những lời giả trá mong nhận được ân huệ từ bề trên,
Hàng
chục bài thơ, nhiều trăm bài thơ rập rờn sáo ngữ,
Đàn
bướm ngôn từ sặc sỡ,
Đàn
bướm ngôn từ chết khô,
Đàn
bướm ngôn từ vô dụng.
Cuộc
thế vần xoay loạn lạc nổ bùng,
Trường
An mùa xuân hoa đầm đìa nước mắt,
Cỏ mọc
đầy che kín mặt thành,
Ngõ
Ô Y vắng tanh vắng ngắt,
Cú
bay, quạ bay mắt xanh lè xám ngắt,
Khắp
Trung Nguyên xương trắng phơi đầy,
Biên
thùy máu thành biển đỏ.
Giấc
mộng Thuấn – Nghiêu thành mây khói,
Quan
hạt vừng Đỗ Phủ hóa dân đen.
Loạn
lạc, chia lìa hất ông về nơi cùng khổ
Thơ
ông đẫm lệ nỗi oan khiên thập loại chúng sinh.
Ông
viết thơ cho mình,
Ông
viết thơ vì mình,
Tận
cùng nỗi đau, tận cùng nước mắt, tận cùng máu,
Sống
trên quê nhà mà nơm nớp âu lo,
Người
sống hệt như búi cỏ,
Bị hất
tung lên khô héo phận hèn.
Người
chết hóa thành ma, thành quỷ,
Đêm
buồn dài bất tận
Người
sống sót trở về sau loạn như ma hiện giữa ban ngày,
Sức
dân tàn kiệt
Khắp
Trung Nguyên làng mạc xác xơ gầy
Khắp
Trung Nguyên rền rĩ khóc than ai oán
Mặt
trời úa vàng
Vầng
trăng tái xám.
Nguồn:
Văn Việt
______________
Ghi
chú: Tác giả 3 bài thơ này đang sống ở Thái Nguyên, trùng tên với nhà phê bình
văn học Đặng Tiến đang sống ở Pháp.