Tuesday, April 6, 2021

1980. NGUYỄN THỤY ĐAN Nam Học Hán Tự của Nguyễn Can Mộng



Thôi cái chữ này rồi cũng hết,

Mà con người ấy sống còn dai.

 

Nguyễn Can Mộng, Thức Đêm

 

         Tuần cuối cùng năm Canh Tý – có lẽ là vài hôm trước Trừ tịch – tôi nhận được cuộc gọi từ nhà văn Nguyễn Minh Nữu. Vốn trước hôm ấy tôi không hề quen biết Nguyễn Minh Nữu, dù sau cuộc gọi đó tra lại thì phát hiện ra hai người đã cùng có bài viết đăng trong Thư Quán Bản Thảo số 89 tháng 6 năm 2020 chủ đề “Văn chương trong mùa đại dịch”. Anh Nữu kể đã biết đến tôi qua Thư Quán Bản Thảo số 91 tháng 1 năm 2021 chủ đề “Đầu xuân lộc mới – Giới thiệu một người viết trẻ hải ngoại Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan”. Hai người chuyện trò hồi lâu về cách luật và thể loại thơ cổ điển, về thơ miền Nam thi chiến, về cuộc sống và lai lịch nhau. Kp lúc anh Nu k ông c thân sinh nguyên là phó bng Nguyn Can Mng 阮玕夢 (1880 – 1954), tôi chợt thốt lên:

-       “À, à,  Nguyễn Can Mộng. Em có biết tên cụ. Hình như có bài đăng trên Nam Phong Tạp Chí. Có cả tác phẩm quốc âm lẫn Hán thì phải.”

Anh Nữu bảo:

-       “Đúng, đúng. Có cả Hán lẫn quốc ngữ.” 

Trước khi cúp đin thoi, anh Nu đã ân cn ng hu ý gi tng tôi cun Nông Sơn toàn tp 農山全集, là di thư ca c Bng Mng do con cháu son li và xuất bản ở hải nội. K thc, sau khi cúp đin thoi, ngi ngm nghĩ li, tôi nhn ra tôi đã có chút nhm ln – trước kia tôi có đọc Nguyn Can Mng, nhưng không phi trong Nam Phong tp chí 南風雜誌. Chính ra là trong cun Văn Đàn Bo Giám 文壇寶鑑. Tôi bị lẫn lộn tên Nông Sơn 農山 (tên hiệu cụ Bảng Mộng), với tên Thạch Nông 石農. Vốn trong mục Hán văn của tờ Nam Phong có vài số đăng thơ từ Thạch Nông thi tập 石農詩集, trong đấy tôi nhớ duy nhất một câu, đến nay vẫn thường ngâm nga một mình:

Tao khách vô tình đạm khứ lưu

 

Vụng dịch sáu tám:

Lạnh lùng thay gã làng thơ,

Ở, đi đôi ngả hững hờ cả hai.

 

Nhận được Nông Sơn toàn tập, tôi đọc liền một hơi Ngạn ngữ phong dao, Lịch sử Bắc Kỳ, và Nông Sơn thi tập. Sự nghiệp học thuật và tinh túy văn chương của Nguyễn Can Mộng, đúng ra tôi phải dành riêng một – hoặc nhiều – bài khác để phân tích cho xng đáng vi tài hoa ca ngài. Ở đây nói tóm tắt vài ý. Thi ca ca Nguyn Can Mng, tôi cho rng xng đáng để tặng bn ch hàn hoa vãn tiết 寒花晚節của thi đàn cổ điển. Đặc biệt, là thi đàn cổ điển của đất Bắc Hà kéo dài từ thời Lê trung hưng cho đến thế hệ giao thời của ngài. Đọc kỹ và ngoạn vị Nông Sơn thi tập, cũng giúp cho tôi có dăm ba ý tưởng mới về tiềm năng và tính khả thi của thơ quốc âm trong bối cảnh đương đại. Tôi thú vị ở chỗ, đọc Nguyễn Can Mộng càng thấy sự tinh mắt của Hoài Thanh Hoài Chân khi chọn tôn vinh Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu làm tiên phong của phong trào Thơ Mới – Nguyễn Can Mộng và Tản Đà cùng thế hệ với nhau, thi ca hai người tuy cùng thuộc thể cách cổ điển, song chúng ta tìm thấy nơi thi cảnh Nguyễn Can Mộng một thế giới thuần cổ điển, không phải người đích thân ra đền vào các, duyệt lịch thăng trầm hoạn hải, khó có thể đạt tới cảnh giới ấy. Thơ Tản Đà thể cách tuy cổ, nhưng phong cốt đã có một chuyển biến nào đó khiến cho ý cảnh đổi hướng dần về Thơ Mới.

          Những năm qua mỗi lần có người nhờ tôi giới thiệu giáo trình để nhập môn Hán văn, thường tôi đề nghị giáo trình Hán Vit tân khóa bn 漢越新課本ca Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi. K thc, c ý tôi thì giáo trình nào cũng được – ct là phương pháp sư phm ca người thy (nếu có thy) và ý chí cu tiến ca người hc. Hán văn có mt t rt hay để nói ý chí này – tt hc 疾學. Tật , tức là cấp tốc, mãnh liệt. Cũng có nghĩa là ưu hoạn, bệnh tật. Nói tật học tức là nỗ lực học tập, trong Lã thị Xuân Thu 呂氏春秋 có câu: “Thánh nhân sinh ra bởi tật học. Không tật học mà có thể làm cao sĩ danh nhân, chưa từng có ai như vậy.” 聖人生於疾學。不疾學而能為魁士名人者,未之嘗有也。(Thánh nhân sinh ư tật học. Bất tật học nhi năng vi khôi sĩ danh nhân giả, vị chi hữu dã.) Muốn học mà không dốc hết cả tâm chí vào sự học đến nỗi ngày đêm trăn trở, suy tư không thôi về điều mình học, thậm chí đến sinh bệnh, tôi cho là đang chơi, chứ chưa dám gọi là học.

Đã có chí tật học, tưởng học giáo trình nào cũng được vậy. Tuy nhiên, nếu được hướng dẫn đúng đường từ đầu, học tập có phương pháp thì vẫn hơn tự mò mẫm tìm lối vào rừng Nho. Tôi chính thức mở lớp Hán văn từ mùa xuân năm Canh Tý 2020, đến nay đã ba lần dạy lớp cơ sở. Mỗi lần đều thay giáo trình ít nhiều – chủ yếu vẫn lấy Hán Việt tân khóa bản của Lê Thước, Nguyễn Hiệt Chi làm gốc, cắt bớt rất nhiều và bổ sung thêm nội dung tôi tự soạn hoặc trích đoạn từ cổ nhân. Giáo trình và phương pháp dạy học của tôi, tự tôi chưa thấy hài lòng. Đặc biệt, tôi tự cho là đã thất bại ít nhiều trong việc hướng dẫn cho học viên cú đậu văn bản chưa ngắt câu sẵn. Cú đậu 句讀, có thể hiểu đơn giản là phảy và chấm câu. Trên lý thuyết, Hán văn không ngắt câu sẵn, người đọc phải tự phảy (đậu) và chấm () câu theo cách hiểu của mình. Cùng một câu mà cú đậu khác, ý nghĩa toàn câu cũng theo đấy mà khác đi. Sách vở và tài liệu ngày nay đều đã có cú đậu sẵn, nếu là sách kinh điển thì thường cú đậu theo lối chú giải của một nhà uy tín nào đó thời lịch triều. Tuy nhiên, để thật sự làm chủ một văn bản, độc giả không thể nào phụ thuộc vào cú đậu của người khác – vô luận là kim nhân hay cổ nhân. Không phải cứ cổ nhân là đúng, không phải cứ theo chú giải là chuẩn. Vậy nên, khả năng tự cú đậu, tự cân nhắc các lối cú đậu tương đối hợp lý cho một câu nào đó, là một kỹ năng không thể thiếu sót nơi người đọc. Song, để trau dồi tư duy phê phán này, không phải việc thầy có thể truyền cho trò trong khoảng đán tịch chi gian. Phải đọc thật nhiều, đọc thật kỹ, đọc lâu năm, sở ngộ ngày một rộng ra mới có thể đọc lưu loát văn bản không cú đậu.

Khi nhận được Nông Sơn toàn tập từ anh Nữu, tôi đã lưu ý giáo trình Nam Học Hán Tự 南學漢字 ca Nguyn Can Mng để xem phương pháp sư phạm của cụ. Trong phần Tiểu Dẫn, Nguyễn Can Mộng viết:

Vì sao làm ra sách này? Nước ta xưa nay bao nhiêu những tiếng thuộc về văn hóa hay là tinh thần mà còn thiếu thốn không đủ dùng, thì đều thủ dụng bằng Hán tự cả. Thông thường truyền khẩu, lần lữa quen tai, kẻ nói người nghe, thành ra sáo ngữ, có nhiều người mắt chưa từng đọc qua mặt chữ Hán; mà miệng thì nói chữ Hán đến hai phần ba trong câu chuyện, dần dần hoạt dụng, hồn nhiên là tiếng nước mình vậy. Hán tự thực là cái nguồn cho Quốc ngữ. Nếu không có sách để hiểu thấu cái chân lý tiếng nói thì không sao tránh khỏi lỗi sai lầm, mà Quốc văn cũng mất cái tinh thần sinh hoạt…Song đang lúc giao thời này, còn thời giờ đâu mà nấu sử sôi kinh, hàm như uyên bác như đời xưa được. Phải tìm một cách toát yếu, cống hiến cho bạn thiếu niên, dụng công ít mà biết chóng hơn, như phàm lệ sau này; thực là đơn giản, dễ học, rút lại cốt lợi dụng Hán tự, để phát huy quốc văn, đó là dụng ý của trước giả.

Nội dung của Nam Học Hán Tự chủ yếu dạy theo bộ thủ, mỗi bài tập tập trung vào một hoặc hai bộ thủ, chọn chữ từ trong bộ thủ ấy rồi soạn thành những câu văn ngắn gọn, dễ hiểu. Xin lấy ví dụ từ bài tập 15, “Thủy, Băng”:

水液下流,溫浮為汽,冷凍為冰。江河溝渠,水洩也。洋海湖池,水匯也。

Thủy dịch hạ lưu, ôn phù vi khí, lãnh đống vi băng. Giang, hà, cầu, cừ – thủy tiết dã. Dương, hải, hồ, trì thủy hối dã.

Nước lỏng chảy xuống, nóng bốc lên là hơi. Lạnh đông lại là băng giá. Sông con, sông lớn, lạch, ngòi ấy là chỗ nước tiêu. Biển lớn, biển nhỏ, hồ ao ấy là chỗ nước chứa.

Chữ trong bài tập này đa phần thuộc bộ Thủy (viết theo kiu “tam đim thy). Đại để nội dung các bài tập trước sau trong Nam Học Hán Tự đều tương tự bài này – ngắn gọn, không có ý sâu xa, cốt giúp người học làm quen với mặt chữ, làm quen với bộ thủ. Ngẫm nghĩ một hồi, tôi quyết định đưa Nam Học Hán Tự vào giáo trình Hán văn nhập môn của tôi, nhưng thay vì dùng theo bản ý của Nguyễn Can Mộng, tôi thay đổi đi để làm bài tập cú đậu. Khi giao cho học trò, tôi chỉ đưa cho họ đọc nguyên văn Hán tự, không cú đậu, không phiên âm, không dịch nghĩa, mỗi tuần hai ba bài tùy theo lượng nội dung của phần giáo trình còn lại.

         Khi dạy cổ văn, tôi chủ trương không dạy ngữ pháp, cũng không đề cập ngữ pháp. Lối tiếp cận cổ văn này, không phải không có chỗ bất cập, mà suy cho cùng là cách cổ nhân đã học tập đọc và viết văn bao nhiêu nghìn năm qua trước khi mượn ngữ pháp Tây phương để áp dụng vào tiếng Hán và tiếng Việt. Mãi sau này, tôi đọc cổ văn với giáo sư Andrew Plaks, một trong những nhà Hán học Tây phương lỗi lạc và lừng danh nhất ngày nay, giáo sư Plaks cũng khuyên sinh viên nên bỏ tư duy ngữ pháp khi đọc cổ văn, đặc biệt là sinh viên người Hoa cứ ỷ y mình đã rành tiếng Trung hiện đại nên đọc Hán văn cổ chắc cũng tương tự. Theo lời giáo sư, căn bản là: “Hán văn không có ngữ pháp.”

Thay vì dạy ngữ pháp, ngay từ đầu, tôi chủ trương giúp học trò làm quen với các “khuôn”, các kết cấu đặt câu thường gặp trong cổ văn. Chẳng hạn khi người xưa muốn định nghĩa một khái niệm nào đó, thường họ sẽ đặt trong câu giả – như câu trên trong Nam Học Hán Tự: “Dương, hải, hồ, trì [là chỗ] nước chứa vậy”; hoặc giả khi đặt một câu hỏi tu từ (rhetorical question) có khi sẽ dùng chữ kỳ để dn vào câu hi, v.v. Tuy nhiên, dạy theo lối này, nội dung giáo trình phải viết đúng theo văn phong cổ điển. Khi dùng Hán Việt tân khóa bản và những giáo trình tương tự, tôi thường bất mãn ở chỗ văn phong tạp nhiễm văn bạch thoại, thậm chí không những là văn bạch thoại mà là bạch thoại viết ra theo tư duy của người Việt, chứ cũng không phải là cách đặt câu tự nhiên theo văn bạch thoại Trung Quốc tiền bán thế kỷ 20. Đúng không hẳn là đúng, sai chưa hẳn là sai. Vì vậy, tôi luôn nhắc nhở học trò – tận tín Thư bất như vô Thư 盡信書不如無書 – chớ có câu nệ từng chữ trong giáo trình, không phải cứ thấy trong sách các cụ là đúng, hoặc cho dù không sai, cũng chưa chắc đã là lối đặt câu, lối diễn đạt ý tưởng hay nhất. Chính đây là thêm một chỗ ưu điểm của Nam Học Hán Tự – nội dung vừa đơn giản dễ học, vừa viết theo văn phong thuần cổ điển; nội dung một số bài tuy vẫn phản ánh xã hội và tư tưởng tiền bán thế kỷ 20 tức là có sử dụng một số tân danh từ chẳng hạn như từ xã hội 社會 – song văn phong không lìa khỏi lối viết chi hồ giả dã 之乎者也. Ở những bài sau, khi giải thích về hư từ thường gặp trong cổ văn, Nguyễn Can Mộng lại chú giải thêm hư từ tương đương trong văn bạch thoại – điều này cực tiện lợi để giúp cho những người không có điều kiện hoặc không có nhu cầu học nói tiếng Trung hiện đại mà vẫn phải tiếp cận và đọc văn bạch thoại, chẳng hạn để đọc tiểu thuyết kinh điển thời Minh Thanh.

Vốn trước đây hai ba năm, tôi đã bắt tay vào việc tự soạn giáo trình Hán văn theo chủ trương sư phạm của riêng tôi. Soạn được dăm ba bài tập, tôi gửi cho một người bạn thân đọc, góp ý. Bạn tôi bây giờ đã xuất thế tu hành làm thầy cả trong dòng kín dòng Carthusian, bản thảo cũng trôi về đâu đó, lâu nay tôi không còn để tâm đến. Một năm qua tích tụ kinh nghiệm dạy Hán văn, tôi lại thấy không cần thiết để cố chấp vào một giáo trình duy nhất – cứ mượn từ nơi này, nơi nọ, khi nào học trò đã vững căn bản thì chuyển sang đọc trực tiếp từ cổ nhân, ấy là ý câu đắc ngư vong thuyên 得魚忘筌, “được cá quên nơm” vậy. Dù vậy, tìm được thêm một bậc lương sư ích hữu 良師益友 nơi Nam Học Hán Tự, chắc chắn những người đến học chữ với tôi từ nay về sau sẽ còn gặp gỡ dài dài Nguyễn Can Mộng, một bậc tài tử thuần Nho của buổi giao thời Đông Tây kim cổ, đã ít nhiêu trôi dần vào quên lãng.   


NGUYỄN THỤY ĐAN

24.3.2021

.  
Bìa cuốn sách

Cụ Phó Bảng Nguyễn Can Mộng