JOHN STEINBECK, NOBEL VĂN CHƯƠNG 1962
Sinh ngày 27/02/1902 tại
Salinas, miền trung California. Sống và lớn lên trong một vùng thung lũng đồng quê
xanh tươi, còn được gọi là “Salad Bowl”
với dòng sông Salinas. Xong trung học (1919), có ước vọng viết văn, Steinbeck ghi
tên học môn Văn chương Anh và cả lớp Viết văn / Creative writings tại Đại học
danh tiếng Stanford, gần Palo Alto. Năm
1923, Steinbeck ghi tên học thêm môn Sinh Học / Biology tại Hopkins Marine
Station, tại đây Steinbeck quen biết với William E. Ritter và quan tâm nhiều
hơn tới Môi sinh / Ecology. Do theo học thất thường, ông rời Stanford 6 năm sau
(1925) và không có một học vị nào. Steinbeck quyết định sang New York lập nghiệp,
ông làm đủ loại công việc lao động tay chân để kiếm sống và tập sự làm báo, viết
văn nhưng không thành công, không nhà xuất bản nào nhận in cuốn sách đầu tay của
ông.
Trở về California 3 năm sau (1928), Steinbeck
cũng làm đủ mọi nghề, kể cả hướng dẫn du lịch ở Lake Tahoe, nhưng vẫn túng quẫn.
Ông dọn về sống trong căn nhà nhỏ của cha ở vùng bán đảo Monterey; không phải
trả tiền nhà lại được người anh giúp đỡ, không bận bịu mưu sinh, ông tập trung viết văn. Nhưng cuộc sống lại chật vật khi cả
nước Mỹ bước vào thời kỳ Đại Suy Thoái.
Steinbeck mua được một chiếc tàu nhỏ, thử sống bằng nghề đánh cá ven biển, cá
cua lưới bắt được cũng là nguồn thực phẩm cho gia đình, còn rau tươi thì hái lượm
ngay trong vườn nhà; vẫn không đủ sống, vợ chồng ông phải sống bằng tiền trợ cấp
xã hội / welfare.
Tuy vẫn viết nhưng Steinbeck chưa gây được
tiếng vang nào. Phải mãi tới 7 năm sau (1935), với cuốn Tortilla Flat tên tuổi ông mới được biết tới. Lấy bối cảnh là vùng Monterey,
California nơi ông sinh sống, thời gian sau Thế chiến I, mô tả đời sống của đám
dân quê / paisanos nghèo khổ, sống bầy đàn, chỉ biết hưởng thụ với rượu, ham muốn
xác thịt / lust, và trộm cắp vặt / petty theft. Họ là nạn nhân của hoàn cảnh lịch
sử. Tortilla Flat bắt đầu được giới
phê bình đón nhận và cả thành công về tài chánh.
Tiếp theo 2 năm sau, là cuốn Của
Chuột và Người (Of Mice and Men,1937), “là một bi kịch của hai nông dân tha phương cầu thực với giấc mơ có được
một mái nhà, một mảnh vườn nhưng rồi vẫn phải sống một cuộc đời làm công lang
thang khổ cực. George Milton nhỏ con nhưng khôn lanh và gã kia là Lennie Small,
tuy có tên “Small” nhưng lại to xác rất mạnh và đần độn, tính khí dữ dằn bất thường
khiến hắn phải lệ thuộc vào George trong sinh hoạt khó khăn hàng ngày – tác phẩm
chỉ với hơn 100 trang sách mà sau này được Hội đồng giải Nobel văn chương 1962
gọi đó là một “tiểu tuyệt phẩm / a little masterpiece”.
Rồi tới Chùm Nho Uất Hận (The
Grapes of Wrath, 1939), kể chuyện về một gia đình nông dân Joad từ vùng
Oklahoma, do một thảm nạn môi sinh Dust Bowl mất hết trang trại đất đai phải rời
bỏ quê nhà di cư sang California, vùng đất của “sữa và mật ngọt” để mưu tìm cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng rồi họ đã
phải đối đầu với vô vàn khó khăn, không có công ăn việc làm, tiền công thì quá
thấp và rơi vào cảnh nghèo khó hơn. Cuốn sách được Steinbeck viết bằng một ngôn
ngữ trần trụi / plain spoken language giàu hình ảnh, tố cáo lòng tham của đám chủ
trại giàu có, đưa tới những bất công xã hội. Thái độ phê phán đó khiến
Steinbeck trở thành khuôn mặt khó ưa ngay nơi quê nhà. Nhóm nghiên cứu Đại học
Stanford, mới đây đã đánh giá Steinbeck
như một nhà văn của môi sinh.[9]
Năm 1940, Steinbeck được giải thưởng National Book Award với cuốn Chùm Nho Uất Hận. Tác phẩm này cũng nhận
được thêm một giải Pulitzer danh giá
khác. Cuốn sách liên tục được tái bản.
Cả hai cuốn Của Chuột và Người và Chùm
Nho Uất Hận được viết trong bối cảnh thời kỳ Suy Thoái của thập niên
1930s, là 2 tác phẩm đỉnh cao trong văn học Mỹ được coi là tuyệt tác của John
Steinbeck. Cả hai đều được chuyển thể thành phim. Henry Fonda đóng vai Tom Joad
trong Chùm Nho Uất Hận đã được đề cử
là tài tử xuất sắc nhất cho giải Academy Award.
Tuy thành công nhưng Chùm Nho Uất Hận cũng gây ra nhiều dư luận bất lợi cho Steinbeck, do
khuynh hướng xã hội triệt để – Steinbeck bị gán cho là thiên cộng / suspected communist leanings, do mạnh mẽ bênh vực tầng
lớp lao động cơ cực bị bóc lột bởi một giới tư bản giàu có, đầy quyền lực sở hữu phần lớn đất đai và các trang trại,
cùng liên kết với nhóm tài phiệt chủ các ngân hàng. Chùm Nho Uất Hận xuất bản lần đầu tháng 04/1939 và trở thành cuốn
sách bán chạy nhất nước Mỹ nhưng ngay nơi quê nhà, cuốn sách bị lên án là “tục tĩu / obscene, trình bày sai sự thực /
misrepresented” với những mô tả tiêu cực về đời sống di dân tới California.
Cuốn sách hai lần bị đốt công khai ở
Salinas. W.B. “Camp” viên chủ nhân giàu có với các trang trại trồng bông và
khoai tây, khi tới chủ toạ buổi đốt sách ở thị trấn Bakersfield đã tuyên bố: “Chúng ta giận dữ không phải vì bị ai đó tấn
công, nhưng chúng ta đã bị tấn công bởi một cuốn sách tục tĩu theo cái ý nghĩa
tệ hại nhất của từ ngữ này – a book obscene in the extreme sense of the word.” Nhưng
lúc đó cũng có người can đảm như Gretchen Knief, trông coi thư viện Kern County,
cô không sợ bị đuổi việc vẫn lên tiếng cảnh báo: “Nếu cuốn sách ấy bị cấm hôm nay, liệu sẽ có thêm cuốn sách nào bị cấm
ngày mai?”
Chùm Nho Uất Hận bị Kern County Board cấm
trong các trường học và thư viện (1939), và chỉ được giải toả hai năm sau đó (1941).
Trong Thế chiến Thứ II, Steinbeck có thời
gian làm phóng viên chiến tranh cho tờ New
York Herald Tribune (1943), đi sát theo các đơn vị xung kích đổ bộ tấn công
quân Đức ở Ý, trên các hải đảo Địa Trung Hải. Steinbeck bị thương trở về với cả
chấn thương tâm lý; ông tự vượt qua bằng miệt mài trong viết lách.
Năm 1947, Steinbeck là một trong số những
người Mỹ hiếm hoi đầu tiên được đi thăm Liên bang Xô Viết sau Cách mạng Nga,
cùng đi với ông có phóng viên nhiếp ảnh
Robert Capa. Cuốn sách Nhật Ký Nga / A
Russian Journal được xuất bản một năm sau (1948) với phần hình ảnh của
Capa. Chính quyền Cộng sản Xô Viết lúc đó đánh giá Steinbeck như một “nhà văn Mỹ tiến bộ - American progressive
writer” với cái nghĩa tả khuynh theo chủ nghĩa xã hội.
Trong cùng năm, Steinbeck được bầu vào Viện
Hàn Lâm Nghệ Thuật và Văn Học Hoa Kỳ / American
Academy of Arts and Letters.
Năm 1952, tiểu thuyết trường thiên Phía Đông Vườn Địa Đàng / East of Eden được xuất bản, Steinbeck
coi đó là tác phẩm lớn nhất của ông (magnum
opus), sau này lên phim (1955) với James Dean, một tên tuổi điện ảnh trẻ
tài năng trong vai Cal Trask.
Năm 1961, Steinbeck cho xuất bản Mùa Đông Bất Bình / The Winter of Our Discontent, viết về sự suy đồi đạo lý của nước Mỹ,
và không được giới phê bình đánh giá là một thành công.
Năm 1962, trong sự ngạc nhiên của chính Steinbeck,
ông được trao giải Nobel văn chương cho toàn sự nghiệp văn học, “do những trang sách viết trộn lẫn hiện thực
và tưởng tượng, kết hợp sự u mặc tinh tế và ý thức xã hội sắc bén – for his
realistic and imaginative writings, combining as they do sympathetic humour and
keen social perception”. Các nhân vật của ông đều là nạn nhân của lịch sử,
của thời kỳ suy thoái. Giải Nobel trao cho Steinbeck lúc đó đã bị báo chí Thuỵ
Điển chỉ trích nặng nề, ngay cả tại Mỹ. Nhưng sau này, Steinbeck được mệnh danh là “gã khổng lồ của văn giới
Mỹ – a giant of American letters”, với một số tác phẩm được xem như văn học
cổ điển Tây phương”.
Cũng thật trớ trêu, tuy đã là khôi nguyên
của giải văn chương Nobel, nhưng theo Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ / American
Library Association, thì Steinbeck là một trong số 10 tác giả từng bị cấm đoán và
chỉ trong khoảng thời gian từ 1990 tới 2004, riêng cuốn Of Mice and Men xếp hàng thứ 6 trong số 100 cuốn bị cấm ở Mỹ.
Năm 1964, Steinbeck được Huân chương Tự do
của Tổng Thống / Presidential Medal of
Freedom, từ TT Johnson là bạn ông và Steinbeck cũng đã từng viết diễn văn
cho TT Johnson.
CỦA
CHA VÀ CON STEINBECK GIỮA CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
John Steinbeck có 2 con trai với bà vợ thứ
hai Gwyndolyn Conger. Thomas Myles Steinbeck, là con cả sinh năm 1944 và John Ernst
Steinbeck IV là con thứ sinh năm 1946. Tới giai đoạn Mỹ tham chiến ở Việt Nam,
cả hai con trai Steinbeck đều tới tuổi quân dịch và bị động viên.
Khi John IV, đứa con thứ 2, vừa xong
lớp tập huấn quân sự và sắp lên đường sang Việt Nam, Steinbeck hãnh diện dẫn
con tới thăm và bắt tay TT Lyndon B. Johnson tại Oval Office, White House. John
IV, tới Việt Nam trong vai trò phóng viên chiến tranh, làm cho đài phát thanh
và truyền hình quân đội Mỹ trấn đóng ở Pleiku. Rồi tới đứa con trai cả Thomas Myles
Steinbeck cũng nhập ngũ trấn đóng ở Fort Ord, California và có thể cũng sẽ phải
sang Việt Nam.
Khi Mỹ quyết định ồ ạt đưa quân qua tham
chiến ở Việt Nam (1965), Steinbeck tuy không còn trẻ nữa ở tuổi 64, giữa cao điểm
cuộc chiến tranh đang leo thang, ông có ý định sang thăm Đông Nam Á trong vòng
5 tháng. Steinbeck không xa lạ gì với chiến tranh, từng là phóng viên chiến
tranh trong Thế chiến II. Lần này Steinbeck đến Việt Nam, vẫn như một phóng
viên chiến tranh, cho tờ báo Newsday, Long Island, New York. John Steinbeck đã
đi khắp miền Nam Việt Nam, trong vòng 6 tuần lễ, [ từ tháng 12.1966 tới đầu năm
1967 ].
Hình 2: trái,John E. Steinbeck và con trai John IV 19 tuổi tới thăm và bắt tay Tổng
thống Lyndon B. Johnson tại Oval Office, White House ngày thứ Hai 16/ 05/ 1966
trước khi lên đường sang Việt Nam. Steinbeck là bạn của Tổng thống Johnson từ 1963. Cuộc gặp gỡ 4 phút theo yêu cầu của
Steinbeck. [nguồn: tài liệu LBJ Library and Museum];
phải: John IV ở Việt Nam 1966. Cả ba nhân vật nay đã là “người của trăm năm
cũ”.
Từ
lâu, Steinbeck đã có thái độ khinh mạn các nhóm phản chiến, xem họ như thành phần
bạc nhược khi so sánh với những người lính Mỹ đang chiến đấu ở Việt Nam. Ông
không chỉ lên án họ, Steinbeck còn có ý tưởng kỳ lạ là phải đem bọn phản chiến
này thả vào đường mòn Hồ Chí Minh để
xem bọn chúng sống ra sao.
Do danh tiếng của Steinbeck với giải
Nobel và cả mối liên hệ quen biết với TT Johnson, Steinbeck được đối xử rất đặc
biệt, di chuyển với máy bay riêng thường cùng đi với cấp chỉ huy quân sự cao cấp
Mỹ, kể cả với tướng William Westmoreland, và Steinbeck cũng thường xuyên được “briefing – tường trình” về tình hình
chiến sự với bức tranh màu hồng về tương lai thắng lợi của Mỹ ở Việt Nam.
Thường là ban ngày có mặt nơi chiến trường,
nếu không quá xa Sài Gòn và không phải ở lại qua đêm, buổi tối Steinbeck trở về
khách sạn Caravelle, dùng bữa tối trong một nhà hàng sang trọng trên lầu 9, từ
nơi đây vẫn có thể thấy ánh hoả châu và cả tiếng trọng pháo từ xa vọng về. Những
Lá Thư gửi Alicia / Letters to Alicia được viết ở đây.
[Alicia Patterson – là tên người vợ của Harry Guggenheim, đồng sáng lập tờ
Newsday, Alicia là nhà báo tên tuổi, được giải thưởng báo chí Pulitzer, nhưng
Alicia đã chết trước đó 3 năm].
Đặt chân tới Việt Nam, ngay từ đầu, Steinbeck
bị mê hoặc với những vũ khí tối tân của quân đội Mỹ, điều mà ông chưa từng được
thấy trong Thế chiến thứ II. Như khi ông chứng kiến những chiếc máy bay DC3 “Hoả Long –Puff the Magic Dragon” trang bị những cỗ đại liên với hoả lực khủng
khiếp, chỉ trong vòng vài giây có thể nhả đạn 50-ly bao trùm khắp một sân banh
rộng lớn khi lâm trận như một con rồng phun lửa. Steinbeck rất chủ quan cho rằng,
“với trang bị vũ khí tối tân như vậy làm
sao mà Mỹ có thể thua cuộc chiến tranh trước đám địch quân quê mùa ấy.”
Steinbeck cũng từng đeo súng M-16 ra bãi
tập bắn. Có điều mà Steinbeck không được cho biết là, khác với khẩu AK của VC,
súng M-16 trang bị cho lính Mỹ lúc đó thường bị hóc đạn ngoài trận địa; scandals chết người đó đã không bao giờ
được Steinbeck ghi lại trong những lá thư viết từ Việt Nam cho tờ Newsday.
Chỉ 6 tuần lễ sống trong vùng chiến, được
bảo vệ an toàn, làm sao John Steinbeck hiểu được rằng: quân cộng sản Bắc Việt
lúc ấy cũng đã được trang bị với những vũ khí tối tân nhất của Liên Xô và Trung
Quốc, và ngay ở lãnh thổ miền Bắc lúc đó đã có hàng sư đoàn quân chí nguyện
Trung Quốc giả dạng quân Bắc Việt với những dàn hoả tiễn phòng không tối tân sẵn
sàng nghênh chiến với hàng đoàn phản lực cơ Thần Sấm từ Hạm đội 7 bay vào oanh
tạc miền Bắc.[6]
Sự kiện lớn lao và quan trọng như vậy mà
trong bộ chính sử mới nhất của Hà Nội cho đến nay vẫn còn giấu giếm, đó là trong cuộc chiến tranh để đối phó với Mỹ và miền Nam,
giữa giai đoạn 1965 và 1970, thể theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông đã đưa sang miền Bắc VN 320.000 Hồng quân Trung Cộng. Tới 1968,
Mao đưa thêm sang Lào 110.000 quân nữa (tổng cộng: 430.000 quân). Những sư đoàn “chí nguyện quân” ấy đã ẩn náu ở rất nhiều nơi trong các hang động như ở
Lạng Sơn, Hà Nam, hay sống trong các khu rừng biệt lập, sinh hoạt kín đáo và không được phép tiếp xúc với dân chúng. [6B]
Hình 3: trái, Rồng Ẩn Trong Rừng: Quân đội
Trung Quốc (hay còn gọi là Chí nguyện quân Trung Quốc) trong chiến tranh Việt
Nam. Xiaobing Li / Lý Tiểu Bình; Oxford University Press 2020 [6A]; giữa: bản đồ ghi những
vị trí Hồng Quân Trung Quốc trấn đóng ở Bắc Việt Nam và Lào trong chiến tranh
Việt Nam giai đoạn 1965-1970. [6B]
phải, bìa Lịch Sử Việt Nam Tập
13 xuất bản năm 2017 của Viện Sử Học, Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam
giai đoạn từ 1965 tới 1975, suốt 2 trang từ 125 -126 đã hoàn toàn “giấu giếm” sự kiện lịch sử trọng đại
này. Một bộ sử Việt Nam trung thực sẽ phải là một công trình với hùng tâm của
Thế hệ Việt Nam thứ II. [tư liệu Từ Mai Trần Huy Bích]
Nhiều chi tiết về “đạo quân ma” ấy cũng được viết ra trong cuốn “The Dragon in the
Jungle, The Chinese Army in the Vietnam War” của Lý Tiểu Bình / Xiaobing Li do Oxford
University Press xuất bản 2020. [4]
Đến nay (2021) vẫn còn tìm thấy những khu hang động trong núi
rừng miền Bắc đã bỏ hoang ấy với các khẩu hiệu chữ Hán lưu dấu trên vách đá như: Trung Việt hữu nghị
vạn tuế, Hồ chủ tịch vạn tuế, Đả đảo Mỹ đế. [8]…
Steinbeck được xem như phe “diều hâu /
hawk” công khai ủng hộ sự tham chiến của
quân đội Mỹ ở Việt Nam mà ông coi đó một cuộc dấn thân anh hùng / heroic
venture, thái độ hiếu chiến của Steinbeck đã gây nhiều phản cảm trong công
luận Mỹ và ngay chính trong gia đình ông
lúc bấy giờ. Ở Mỹ, Steinbeck lúc đó không chỉ bị căm ghét bởi giới trí thức
cánh hữu, ngay cả phe tả có người không ngần ngại gọi ông là “phản bội /
betrayal”. [2]
Hình 4: trái, “Diều hâu
Steinbeck” với súng nón sắt và áo giáp trong hầm cá nhân / foxhole trên một trận địa miền Nam Việt Nam.
Qua những bức thư viết từ tiền tuyến trên tờ Newsday, Steinbeck công khai ủng hộ
sự tham chiến của quân đội Mỹ ở Việt Nam. [nguồn: Associated Press
]; phải, John IV con trai Steinbeck (dưới cùng trong hình), ngược với cha,
là tiếng nói phản chiến mạnh mẽ, John IV sau này trở thành đệ tử của Ông Đạo Dừa
nơi Cồn Phụng trên sông Mekong, Đồng Bằng Sông Cửu Long. [ nguồn: Gale
Literature Resource Center ]
John Ernst Steinbeck IV
[06/12/1946 – 02/07/1991], hết thời gian quân dịch, được giải ngũ ngày
07/12/1967. Chỉ một thời gian ngắn về Mỹ,
năm 1968 John IV trở lại Việt Nam như một nhà báo với khuynh hướng phản chiến –
hoàn toàn đối nghịch với quan điểm của
cha mình. John IV đã hợp tác với Sean Flynn [con của tài tử Errol Flynn] cùng làm tại Dispatch News Service, cung cấp cho truyền
thông Mỹ những thông tin một chiều hết sức bất lợi cho Washington như vụ Thảm
sát Mỹ Lai, câu chuyện Chuồng Cọp của trại giam Côn Sơn…
Trong khi John Steinbeck Cha vẫn còn sống,
ngày 05/03/1968, sau Tết Mậu Thân, John IV đã ra điều trần trước một Uỷ ban Thượng
viện Mỹ, nói ra những điều mà không một chính giới Hoa Kỳ nào muốn nghe, rằng:
có tới 60% lính Mỹ tuổi từ 19 tới 27 nghiện cần sa / Marijuana, và chính cơ
quan MACV cũng khuyến khích tình trạng nghiện ngập này bằng cách cung cấp thuốc
gây nghiện như Amphetamines / hay còn được gọi là pep pills cho lính Mỹ. Như một
scandal trên báo chí lúc bấy giờ, và đã có một đụng độ công khai giữa Pentagon
và John IV.
Hình 5: Chính con trai Steinbeck, từng phục vụ tại Việt Nam cũng chống lại cha,
John IV ra điều trần trước một tiểu ban Thượng viện cho rằng “cuộc chiến Việt
Nam là một sai lầm, lính Mỹ thì nghiện ngập, báo cáo số thương vong thì sai sự
thật, đó là một tình trạng hỗn mang / a mess, và chúng ta cần thoát ra.” Importance of being Stoned in Vietnam,
Steinbeck’s Son, Pentagon Clash Over Soldiers’ Pot Use. Trang A4 báo
Independent AM Press-Telegram PM [ Long Beach, California Thursday 28.12.1967
]. [2]
Sự phân hoá “Của Cha và Con – Of Father and
Son” trong gia đình Steinbeck, cũng là hình ảnh bi kịch phân hoá của nước
Mỹ trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.
“Steinbeck in
Vietnam: Dispatches from the
War” [1] (University of Virginia Press, 2012), có thể xem là những
trang sách cuối đời gây chấn động của Steinbeck khi ông đã bước vào tuổi 64.
John Steinbeck được chẩn đoán có bệnh nghẽn
mạch tim nhưng từ chối một cuộc mổ tim [ heart bypass surgery ]. Ông mất tại
New York ngày 20/12/1968, giữa một trận
đại dịch cúm (1968 flu pandemic) nhưng do suy tim, và ông cũng là người nghiện
thuốc lá trong nhiều năm.
STEINBECK VÀ MỘT THOÁNG VIỆT NAM
An Khê, Việt Nam 22/12/1966
An Khê là thị xã của tỉnh Gia Lai trên
Cao nguyên Trung phần Việt Nam, nằm bên Quốc lộ 19 giữa Pleiku và Qui Nhơn. An
Khê có giá trị chiến lược quan trọng trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ tháng
8/1965 Mỹ đã xây dựng trại Radcliff, là căn cứ chính của Sư đoàn Kỵ Binh Số 1 /
US 1st Cavalry Division. Radcliff chỉ được trao lại cho Việt Nam vào cuối năm
1970 khi có chính sách Việt Nam hoá cuộc chiến tranh, chuẩn bị cho Mỹ rút khỏi
Việt Nam.
Trước Giáng Sinh 3 ngày [22/12/1966],
Steinbeck đã tới thăm căn cứ An Khê. Với hào quang của giải Nobel văn học,
Steinbeck trông phong trần ở tuổi 64, trong bộ áo lính GI’s, buổi tối ngồi trên
một chiếc thùng gỗ vây quanh là đám lính trẻ quân dịch / enlisted men, lứa tuổi
con ông, nao nức tới gặp và nghe ông nói. Bằng ngôn ngữ bộc bạch, Steinbeck tâm
sự: “Sáu tháng trước, tôi rất buồn vì 2 đứa
con trai tôi bị động viên. Nhưng rồi 6 tháng sau, bởi Chúa / by God! Tôi hãnh
diện vì chúng đã nên người. Đàn ông trai tráng thực sự là những giá trị hôm nay
/ valuable things today.” Con trai
ông John IV thì đang đóng ở Pleiku; một đứa khác cũng trong quân ngũ đóng ở
Fort Ord, Monterey California.
Có lần được phóng viên một tờ báo hỏi: Có
phải Mỹ đang bị kẹt / locked in trong
một cuộc chiến vô vọng không? Steinbeck
nói: “Đó là một câu hỏi hài hước nhất,” ông tiếp: “Mọi cuộc chiến tranh đều vô vọng
nhưng là cần thiết, và cuộc chiến tranh này cũng là cần thiết.”
Steinbeck cho biết ông tới đây để viết về
cuộc chiến tranh, chủ yếu là những cảm tưởng của ông về cuộc chiến này.
Trong cuộc gặp gỡ, John Steinbeck trả lời mọi câu
hỏi của đám GI’s về cuộc đời trải qua của ông nếu như không quá riêng tư. Rằng
ông cũng đã từng làm phu bến tàu / longshoreman, sống với nông dân, lao động
làm thuê hái bông / picked cotton. Có cả
những chi tiết thú vị như toàn bộ tác phẩm của ông đều được viết tay / written in longhand chứ ông
không đánh máy.
Hình 6: John Steinbeck vẻ già nua mỏi
mệt ngồi trong doanh trại Radcliff, An Khê nói chuyện với đám binh lính quân
dịch Mỹ lứa tuổi con trai ông, vào buổi tối 3 ngày trước Giáng Sinh, 22/12/1966. [nguồn: Ray Belford / Stars
and Stripes]
“Có những câu
hỏi của các bạn mà tôi chưa từng trả lời cho ai, nhưng tôi ngưỡng mộ những gì
các bạn đang làm ở đây và đáng cho tôi kính trọng”. Ngồi nói chuyện suốt hai
tiếng đồng hồ, với 2 ly cà phê, cũng đã thấm mệt, Steinbeck phải xin lỗi đám
lính trẻ đang say sưa nghe ông nói, để đi ngủ. Cảm tưởng của một tân binh có
mặt trong suốt buổi nói chuyện của
Steinbeck, có thể tóm gọn trong một câu: “He just seems to radiate greatness / Ông ấy thực lớn lao toả sáng.” [3]
Pleiku, Việt Nam 07/01/1967
Ngày 7/01/1967, trong chuyến thăm Pleiku, John Steinbeck từ trên một chiếc trực thăng UH-1B
Huey quan sát cuộc chiến Việt Nam. Ông đã không tiếc lời ca
ngợi toán phi công trực thăng: “Họ lái
những con tàu giống như các kỵ sĩ điều khiển con ngựa đua của họ. Họ uốn lượn
dọc theo những con suối, bay bổng trên đỉnh cây như những cánh chim én, quay
vòng và nhào xuống nhanh như cắt trong buổi chiều. Tôi quan sát đôi bàn tay họ
nơi phòng lái, rất nhịp nhàng và phối hợp như đôi bàn tay của nhạc sĩ Pablo Casals
trên chiếc đàn trung hồ cầm / cello. Chắc bạn còn nhớ giấc mơ hồi trẻ nhỏ là
được tự do bay bổng và cảm giác tuyệt vời như thế nào. Cảnh tượng bây giờ giống
như vậy, nhưng đôi bàn tay tôi thì đã già và lú lẫn để theo lệnh, bảo phải bay
vút lên / updrafts và cắt ngang / side winds, né tránh hoả lực từ dưới đất /
ground fire báo hiệu bằng một nháng lửa / tiny puff or flash, hay một va chạm /
a hit và tất cả phải tức thời và tự động. Và tôi chỉ biết ngưỡng mộ và có niềm
vui được ngắm nhìn họ.” [1]
Hình 7: Ngày 7/01/1967, nhà văn John
Steinbeck trên chuyến bay quan
sát cuộc chiến Việt Nam từ một chiếc trực thăng UH-1B “Huey”, thuộc Trung Đoàn
Không Kỵ 10 đồn trú tại Pleiku, bên cạnh ông là viên xạ thủ khẩu đại liên M60 7.62 mm. Mấy ngày sau sau Tết Mậu Thân, Thomas Myles
Steinbeck con trai cả của Steinbeck cũng bị đưa sang Việt Nam và từng là một xạ
thủ đại liên trực thăng. [nguồn:
Associated Press]
STEINBECK VÀ 2 CUỘC GẶP GỠ CHƯA GHI LẠI
Cần Thơ, Việt Nam, Ngày… Tháng 12 Năm 1966
BS
Hoàng Ngọc Khôi, YKSG 1960:
“Khi
John Steinbeck được giải Nobel văn chương 1962, tôi – Hoàng Ngọc Khôi và anh DS Nguyễn
Phúc Bửu Tập đang làm tại Trường Quân Y và cùng phụ trách tờ Tập San
Quân Y (TSQY). Anh Bửu Tập mua được cuốn Of
Mice and Men (OMAM), đọc xong đưa cho tôi đọc. Khi trả lại, Bửu Tập
bảo: Hay là chúng mình dịch rồi đăng vào Tập San. Chúng tôi bắt đầu
dịch và cho đăng vào TSQY khoảng giữa năm 1963, dựa theo cuốn tiếng Anh OMAM nhưng vẫn có thêm cuốn tiếng Pháp Des souris et des hommes để tham khảo. Nhà văn Trần
Phong Giao, lúc đó là Thư
ký Tạp chí Văn, tình cờ đọc được vội tìm hai chúng tôi
đặt cọc là khi viết xong giao cho Tạp chí Văn xuất bản. Tôi không biết
Nxb Văn có liên lạc với John Steinbeck hay không, nhưng hình như hồi đó chưa có
thoả hiệp về tác quyền giữa hai nước.
Khi Steinbeck sang Việt Nam thì tôi đang làm Y sĩ
trưởng Quân y viện Trương Bá Hân tại Sóc Trăng. Lúc đó, có một Đại úy cố vấn Mỹ thuộc Cục IV Tiếp Vận phụ trách tiếp vận cho Quân y viện TBH cứ khoảng hai tháng lại tới kiểm tra xem QYV có nhu cầu gì không và không hiểu sao ông ta lại biết tôi có dịch cuốn OMAM.
Bỗng một hôm, cuối năm 66 hay đầu năm 67 gì đó, cũng
viên Đại uý cố vấn ấy (mà nay tôi
quên mất tên) bay trực thăng ghé thăm QYV bảo
tôi là John Steinbeck đang ở Cần Thơ và có hẹn gặp ông ta ngày mai đi uống
cà phê trưa từ 2 tới 3 giờ chiều và hỏi tôi có muốn gặp Steinbeck
không? Ông bảo tôi có thể lên ngay trực thăng đi
cùng nhưng khi về phải tự lo. Tôi mừng quá nhưng trả lời sáng mai tôi sẽ lấy xe Jeep
đi và về cho tiện vì từ Sóc Trăng sang Cần Thơ chỉ khoảng hơn một giờ lái xe.
Hôm sau đúng giờ, viên đại uý Mỹ đã đợi
tôi tại QYV Phan Thanh Giản, Cần Thơ và rồi ông chở tôi tới
một câu lạc bộ sĩ quan Mỹ. Tới nơi thì Steinbeck cũng vừa tới, ông ta mặc đồ như một
quân nhân tác chiến, có khoác cả áo giáp, có bộ râu lẫn ria cắt tỉa
gọn ghẽ. Khi gặp Steinbeck tôi còn là Y sĩ
Đại uý, ông ta gọi tôi là Doctor và hỏi tôi có
sang Mỹ bao giờ chưa và sao lại chọn dịch cuốn sách OMAM của ông? Tôi
nói tôi đã sang Mỹ hai lần rồi và lần nào tôi cũng muốn mau trở về
vì nhớ quê nhà và bằng hữu. Ông cười bảo vậy đúng là điều ông muốn
nói trong cuốn truyện rồi, ước vọng sao có một mảnh đất, một khu vườn
và ngày ngày gặp bạn bè tán gẫu với nhau. Tôi mang theo hai cuốn
truyện dịch, một cuốn OMAM và một cuốn Des souris et des hommes
để ông ký cho tôi và Bửu Tập, còn tôi cũng tặng ông một cuốn
truyện dịch Của Chuột và Người. Tôi chỉ được
viên Đại uý cố vấn nhường cho nửa giờ nên tôi chỉ hỏi ông một câu duy nhất là
ông có dự tính gặp một nhà văn Việt Nam nào không? Ông trả lời chuyến đi này
của ông không có liên quan gì tới văn chương cả, mà là quan sát tại chỗ về tình
hình miền Nam xem có cơ thắng trận hay không. Hôm đó viên Đại uý cố vấn có chụp
cho tôi với John Steinbeck một tấm hình polaroid lấy liền. Nửa giờ quá ngắn ngủi và Steinbeck chỉ ở VN có sáu tuần
mà phải đi khắp 4 vùng chiến thuật và viết bài hàng ngày cho tờ báo
Newsday mà ông là đặc phái viên. Steinbeck ủng hộ Mỹ đem quân tới VN để chống sự bành trướng
của CS và rất ghét nhóm phản chiến. Ngược lại con ông, đang phục vụ
tại VN trong đoàn Truyền thông quân sự Hoa Kỳ thì lại chống chiến
tranh VN. Những bài báo của ông viết từ VN sau được in lại thành
một cuốn sách: John Steinbeck in Vietnam:
Dispatches from the war. Và anh cũng đã biết rồi.
Hình 8: trái, Of Mice and Men, của John Steinbeck
bản tiếng Anh; giữa: Des souris et des hommes bản tiếng Pháp; phải: Của Chuột
và Người, bản dịch của Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập, Nxb Văn Sài Gòn
1967. Từ sau 1975, bản tiếng Việt này đã được tái bản nhiều lần ở Việt Nam.
Đêm 29/04/1975 do tôi di tản nhờ tàu Hải quân rất bất ngờ nên đã không
mang theo được gì. Sau 1975 có người nhà bên Việt Nam gửi cho tôi
cuốn Của Chuột và Người do Hội
Nhà Văn in lại và đây là lần xuất bản thứ hai, đề năm 1997. Cuối sách có
lời viết như sau: “Chúng tôi đã nhiều lần liên lạc với các ông Hoàng
Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập. Rất tiếc cho đến nay chúng tôi vẫn
không nhận được tin tức cụ thể từ hai dịch giả”. Sau đó bên nhà lại gửi cho cuốn Của Chuột và
Người nhưng lần này do nhà Xuất bản Văn Học ấn hành năm 2001. Và tôi nghe nói cuốn truyện được tái
bản nhiều lần vì được dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường
Đại học về môn Anh ngữ. Người bạn cùng dịch sách OMAM với tôi, DS Nguyễn
Phúc Bửu Tập, thì nay cũng đã mất
[1930-2020]. BS Hoàng Ngọc Khôi, Toronto, Email ngày 21.03.2021
Tây Ninh, Việt Nam, Ngày…
Tháng 01 Năm 1967
BS Trần Văn Khánh, YKSG 1965
BS Khánh nguyên cựu nội trú các bệnh viện, anh là bạn đồng khoá YKSG 1965 và rất thân với Nghiêm Sỹ Tuấn, trong Ban Quan Điểm báo SVYK Tình Thương. Ra trường bị động viên với cấp bậc Y sĩ Trung uý, là bác sĩ chuyên khoa giải phẫu thần kinh / neurosurgeon hiếm hoi, anh được bổ nhiệm về làm trưởng khoa Giải Phẫu QYV Tây Ninh. Anh Khánh kể: Giai đoạn ấy, do đụng độ hai bên thương vong nhiều, ngày đêm tôi làm việc trong Quân y viện và cả sang giúp bên Dân y viện! Tôi mổ đủ thứ; có thể tưởng tượng là tôi đã làm cả giải phẫu thần kinh Stellectomie, với những dụng cụ dã chiến!
“Tôi có diễm phúc gặp văn hào John Steinbeck tại Tây Ninh năm 1967, không nhớ rõ ngày tháng trong một dịp bất ngờ khó tin! Như một “duyên khởi” vào một
buổi sáng sau vòng thăm các bệnh nhân sau mổ, rất tình cờ tôi gặp nhóm người Mỹ
trên một xe Jeep chạy vào Quân y viện, hai người đàn ông và một phụ nữ. Họ cần
có nước rửa tay và khu vệ sinh. Trong đám người ấy, tôi nhận ra ngay nhà văn
Steinbeck qua chùm râu và ria mép trên khuôn mặt nông dân của ông ấy. Steinbeck
trông phong trần trong bộ quân phục GI’s với cả áo giáp và nón sắt.
Qua vài câu trao đổi, Steinbeck quá đỗi
ngạc nhiên khi có một người bản xứ xa lạ nói tiếng Anh lưu loát và nhận ra
mình; hơn thế nữa anh ta còn là độc giả từ bao năm của ông. Khánh nhắc tới cuốn
sách The Grapes of Wrath, nhắc tới cảnh tượng một người mẹ vừa
sẩy thai đã cố gắng cứu sống một người đàn ông sắp chết đói và cho ông ta bú
bầu sữa từ chính nơi ngực mình. Khánh nói với Steinbeck, trang sách cuối ấy
không chỉ vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng và cả tuyệt đẹp, đã đọc rồi không sao có thể
quên.
Chỉ bấy nhiêu thôi, Steinbeck đã hoàn
toàn bị chinh phục. Steinbeck thân thiết mời Khánh – mà ông gọi là “young
man” lên chuyến xe Jeep cùng ông trong chuyến thăm đi một trại Lực Lượng
Đặc Biệt không xa chân núi Bà Đen mà lính Mỹ gọi đó là Black Virgin Mountain,
cũng là nơi mà Steinbeck tưởng như đó là điểm cuối của con đường mòn Hồ Chí
Minh.
Ấn tượng sâu đậm nhất nơi Khánh:
Steinbeck nói nhiều như là một war advocate / bênh vực chiến tranh, ông
tin rằng với vũ khí tối tân như hiện nay Mỹ sẽ thắng đám lính VC hỗn tạp và cả
quê mùa. Trong khi đó thì cô Mỹ tóc bạch kim ngồi phía sau – không biết có phải
là vợ mới cưới của ông hay không, đi theo làm stenodactylo / tốc ký ghi
xuống những điều Steinbeck đang nói.
Không phải là không nhớ, nhưng Khánh
không muốn nói nhiều về chuyến field trip ngày hôm ấy với Steinbeck,
Khánh coi đó như một chút riêng tư mà Khánh muốn giữ cho riêng Anh. Khánh viết:
“Tôi xin được phép không làm nhân chứng lịch sử của một giai đoạn chiến
tranh tương tàn mà rốt cuộc miền Nam bị miền Bắc cưỡng chiếm”. Sau này sang
Mỹ, Khánh đã có dịp tới thăm The National Steinbeck Center ở Salinas,
tới thành phố Carmen, cả ôm pho tượng Steinbeck. Trần Văn Khánh, Oklahoma, Email: ngày 7
tháng 3, 2021
MỘT
CUỐN SÁCH GÂY TRANH CÃI
“Những bức thư gửi
Alicia” trên tờ Newsday được tập hợp trong một cuốn sách có tên là Steinbeck in Vietnam: Dispatches from the War, nhưng rồi đã không được in ra vào thập niên 1960s, do những e ngại danh tiếng
của Steinbeck bị thêm tổn thương và mãi tới 44 năm sau khi Steinbeck mất
(1968), cuốn sách mới được University of Virginia Press xuất bản (2012), với
Thomas Barden giáo sư Đại học Toledo, Ohio từng là cựu chiến binh ở Việt Nam và
là một học giả chuyên về Steinbeck viết lời Dẫn
Nhập và Kết Từ cho tác phẩm cuối
đời của Steinbeck.
Theo Barden, chính TT Johnson cũng muốn Steinbeck tới
Việt Nam tường trình tại chỗ những gì đang diễn ra lúc đó. Steinbeck muốn có một
chuyến đi độc lập, nhưng qua nội dung các bức thư viết từ chiến trường, rõ ràng
Steinbeck có quan điểm ủng hộ cuộc chiến tranh, phản ánh chính sách của TT
Johnson lúc đó với chủ thuyết Domino, và
tính tất thắng / winnability của Mỹ trong cuộc chiến này. Giữa Cha và Con Steinbeck đã có đụng độ với cách nhìn khác
nhau về cuộc chiến tranh Việt Nam. John IV con trai Steinbeck cho rằng đây là một
cuộc chiến sai lầm, “đa số lính Mỹ thì
nghiện ngập, con số thương vong thì không chính xác, và rằng chúng ta – người Mỹ
phải rút chân ra khỏi cuộc chiến tranh này.”
Sau thời gian ở Việt Nam
trở về Mỹ và trong những trao đổi riêng
tư, Steinbeck đã tỏ ra bất bình về những
tin tức sai lạc về cuộc chiến tranh hàng ngày cung cấp cho dân chúng Mỹ. Chính
Elaine vợ ông cũng khuyên Steinbeck cần thay đổi cách nhìn về cuộc Chiến tranh
Việt Nam, nhưng Steinbeck đã không còn sống lâu hơn để viết thêm gì khác về cuộc
chiến tranh ấy.
Đồng ý với John Steinbeck hay không, thì sự nghiệp
của ông đã hoàn tất. Tất cả những trang viết của ông trước sau, thì nay vẫn hiện
diện trên các kệ sách trong các thư viện và trường học. Sẽ vẫn là một bài học
cho các thế hệ tương lai.
Hình 9: Hình bìa cuốn sách“Steinbeck in
Vietnam: Dispatches from the
War” đã không ra mắt vào thập niên 1960s, mà mãi tới 44 năm sau khi Steinbeck mất.
University of Virginia Press (2012).
IN RETROSPECT –
NHÌN LẠI
Năm 1972, thời gian tôi đi tu nghiệp ở San
Francisco về chuyên ngành Y Khoa Phục Hồi, John Steinbeck đã mất trước đó 4 năm
(1968). Tiếp sau Lyndon B. Johnson, Richard Nixon là Tổng thống Mỹ, đang theo
đuổi chính sách Việt Nam hoá cuộc chiến tranh – mà báo chí Mỹ gọi đó là kế hoạch
đổi màu da trên xác chết, chuẩn bị cho Mỹ hoàn toàn rút chân ra khỏi Nam
Việt Nam.
Và
cũng chưa bao giờ phong trào phản chiến với teach-in, sit-in lên cao và
lan rộng ra khắp các đại học trên toàn nước Mỹ như vậy. Nơi sân trường Đại học
Berkeley, đám sinh viên “con ông cháu cha” từ miền Nam Việt Nam sang du học Mỹ
cũng hoà nhập vào đám phản chiến ấy, chúng mặc bộ áo bà ba đen tổ chức các nhạc
hội hát “Quảng Bình Quê Ta ơi” quyên tiền ủng hộ Hà Nội và Mặt trận Giải
Phóng. Và ở đâu đó, hai con trai của John Steinbeck cũng đang hoà nhập vào dòng
người đó.
Cũng
trong năm 1972 và cả sau này, tôi đã hơn một lần tới thăm Monterey, Salinas quê
hương của Steinbeck. Steinbeck mất ở New York, tro cốt của ông được đưa về California
và chôn cất lặng lẽ trong khu nghĩa trang của gia đình. Ba mươi năm sau khi ông
mất, một National Steinbeck
Center được khai trương (27/06/1998)
nơi thị trấn Salinas, nơi quê hương ông sinh ra.
Hình 10: trên,
Trung tâm Quốc gia Steinbeck, [địa chỉ 1 Main Street, Salinas, CA 93901] nơi thị
trấn Salinas quê hương của Steinbeck. Trung Tâm Steinbeck được xây dựng và khai
trương (1998) 30 năm sau khi ông mất (1968); dưới, câu trích dẫn của John
Steinbeck được phóng lớn và trưng nơi sảnh đường của National Steinbeck Center
Salinas, California.
Trong
một lần đã tới thăm, điều vẫn còn lưu lại trong trí nhớ là câu trích dẫn của John
Steinbeck được phóng lớn và trưng bày nơi sảnh đường của National Steinbeck Center Salinas, California.
“Nhà văn phải tin tưởng rằng điều hắn đang
làm là quan trọng nhất trên thế giới. Và hắn phải giữ ảo tưởng ấy cho dù khi biết
được điều đó là không thực.”
Dĩ nhiên đây không phải
là câu văn hay nhất của Steinbeck nhưng có lẽ phản ánh đúng nhất về cuộc đời 66
năm đầy thăng trầm và cả nghịch lý của Steinbeck mà ông đã bướng bỉnh lựa chọn
để đi tới vinh quang và cả đôi khi chống lại chính mình.
Hình 11: Bức tượng đồng
John Steinbeck, nơi thành phố Monterey,
California, quê hương ông.
NGÔ THẾ VINH
California 28/03/2021
THAM KHẢO:
1/ Steinbeck in
Vietnam: Dispatches from the War, March 29,
2012 by John
Steinbeck (Author), Thomas
E. Barden (Editor)
2/ Steinbeck In Vietnam: A Great Writer's Last Reports, April 21, 2012, 6:25 AM https://www.npr.org/2012/04/21/150012711/steinbeck-in-vietnam-a-great-writers-last-reports
3/ War
hopeless but necessary, Steinbeck says. Ray Belford, The Stars and Stripes Archives,
December 22, 1966
https://www.stripes.com/news/war-hopeless-but-necessary-steinbeck-says-1.84079
4/ John Steinbeck, despised and dismissed by the right and the
left, was a real American radical. America’s
Best Hated Author
Aug 5, 2004
https://www.montereycountyweekly.com/news/local_news/john-steinbeck-despised-and-dismissed-by-the-right-and-the-left-was-a-real-american/article_4bd65e88-6803-59da-9ec2-0a62c5c8adbb.html
5/ John Steinbeck IV and the Coconut Monk. Alison Teal,
Contributor 04/09/2014, HuffPost
https://www.huffpost.com/entry/john-steinbeck-and-the-co_b_5089375
6/ (A) The Dragon in the
Jungle: The Chinese Army in the Vietnam War. Xiaobing Li. Oxford University
Press, Jan 30, 2020. (B) A History of the Modern Chinese Army. Xiaobing Li. The
University Press of Kentucky, 2007
7/ Của Chuột và
Người. John Steinbeck. Bản dịch của Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập. Nxb
Văn, Sài Gòn,1967
8/ Khám Phá Việt Nam
Hầm bí mật dưới lòng đất của Lạng Sơn có nhiều ghi chú bằng cả chữ Hán và
https://youtu.be/mpuudi8AMIU
9/ Great Writers of the West: Steinbeck and the Environment. The Bill Lane Center for the American West. Stanford University Wednesday, May 10, 2017 https://west.stanford.edu/events/great-writers-west-steinbeck-and-environment