Lý
Toét, Xã Xệ
Kể
từ cặp Tú Bà, Sở Khanh chưa có nhân vật nào nổi tiếng và đi sâu vào lòng người
bằng Lý Toét, Xã Xệ.
Nhất
Linh sáng tác ra Lý Toét. Bút Sơn sáng tạo Xã Xệ.
Hoàng
Tích Chu đặt tên cho Lý Toét.
Nguyễn
Gia Trí đem lại cho Lý Toét Xã Xệ chiều kích văn hóa, lịch sử.
Nhất
Linh, Giám đốc Phong Hóa, muốn phát triển khía cạnh trào phúng, hầu như chưa có
mặt trên báo chí Việt Nam lúc bấy giờ, nên ban đầu, ông vẽ nhiều hơn viết; chủ
trương này rõ nhất trong những năm 1932-1934.
Nhưng
nếu tranh trào phúng hoàn toàn thích hợp với công chúng bình dân, thì
lại bị những người được gọi là trí thức chê bai, khinh bỉ. Không kể
trường hợp giáo sư Thanh Lãng mà chúng tôi đã đề cập đến trong chương Sự
tiếp nhận Tự Lực văn đoàn; nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ tóm tắt những
ý kiến khác, có lẽ cũng tâm đồng với ông, như sau:
"Ra
khỏi năm 1940, trở về với những bận tâm học thuật dân tộc và chính trị quốc
gia, dư luận cũng đổi hướng, tỏ ra khắt khe với họ [Tự
Lực văn đoàn]. Nhóm Tri Tân phục hưng chủ nghiã ôn cổ, cũng như nhiều người
Hàn Thuyên chủ trương chiến đấu tích cực, đã lên án họ nặng nề. Hoa Bằng cho
rằng sau những năm khủng bố 1930-1931, toàn trong nước vừa trải qua một cơn hồi
hộp hoang mang, ai nấy chỉ muốn tìm những phút vui cười cho khuây khỏa, nhóm
Phong Hóa đã đầu theo tâm lý dễ dãi ấy để bầy ra một cái cười cho quên lấp, một
cái cười phá hoại tất cả nền nếp truyền thống, một cái cười nhiều khi rất vô ý
thức nữa, như hành động lố bịch hóa hạng người nhà quê Lý Toét, Xã Xệ của họ
thật là tàn ác, bất công, không kể còn gây ra sự chia rẽ giữa hai dân tỉnh và
dân quê.
Trương
Tửu cho rằng họ đã vô tình hay hữu ý mắc mưu thực dân, hưởng ứng phong trào vui
vẻ trẻ trung 1932, đề cao tình cảm lãng mạn và nghệ thuật thuần tuý, làm cho
thanh niên quên con đường tranh đấu gian nan, ngả theo khuynh hướng hưởng lạc,
đi đến ăn chơi đồi trụy"[1].
Không
hiểu những bận tâm học thuật dân tộc và chính trị quốc gia, của các trí
thức mà Phạm Thế Ngũ nói đến ở đây là gì, mà khiến cho những vị này trong nhóm
Tri Tân và Hàn Thuyên đã lên án họ nặng nề như thế.
Xem
như vậy, Tự Lực văn đoàn không những bị vùi dập vì lý do chính trị đối lập với
Đảng Cộng sản, mà cả đến những người quốc gia hay đệ tứ, có học, những
người làm văn học hay dạy học, cũng không hiểu ý nghiã
cuộc tranh đấu cách mạng của họ, nên hầu hết đều coi biểu tượng Lý Toét, Xã Xệ
là sự chế giễu khinh bỉ dân quê, và coi sự hài hước nói chung trên Phong Hóa
Ngày Nay là phá hoại, để quay mũi dùi ngược lại, kết án Tự Lực văn đoàn. Đó là
phần thưởng dành cho những người đi trước thời đại.
Trào
phúng – vai trò của các họa sĩ
Chủ
trương tờ báo trào phúng, cho nên Nhất Linh hết sức quan tâm đến biếm họa,
chính ông bắt tay vào vẽ ngay từ Phong Hóa số 14 (22-9-32). Và cũng chính ông
đã tập trung được một nhóm họa sĩ trẻ tài hoa, phần lớn xuất thân từ trường Mỹ
thuật Đông Dương, là bạn ông. Tôi còn nhớ khi họa sĩ Lê Phổ còn sống, ông luôn
luôn nhắc đến Nguyễn Tường Tam với giọng thân yêu quý mến lạ lùng, theo ông
"Tam viết văn và vẽ đẹp lắm".
Ngoài
Nhất Linh và Nguyễn Gia Trí, kể từ Phong Hóa số 16 (6-10-32), thêm sự góp mặt
của các họa sĩ: Trần Bình Lộc, Trần Quang Trân, Le Mur Nguyễn Cát Tường… chưa
kể Hoàng Đạo và Khái Hưng đều biết vẽ. Phong Hóa còn tổ chức thi biếm họa, vẽ
Lý Toét, cho nên những họa sĩ bên ngoài cũng góp tranh.
Trần
Bình Lộc (1914-1941), vẽ trên Phong Hóa từ số
16 (6-10-32) ký LỘG, ở tuổi 18 với bức tranh Những chỗ ngồi trên xe điện.
Kể từ Phong Hóa số 33 (10-2-33), ông ký những tên Bloc, Bloch, Block… Trần Bình
Lộc là một trong những họa sĩ quen thân và vẽ nhiều cho Phong Hóa ngay từ đầu,
thỉnh thoảng ông còn viết truyện ngắn. Trần Bình Lộc mất năm 1941, vì một tai
nạn, tại Lào, ở tuổi 27.
Nhất
Sách cũng vẽ khá nhiều tranh trên Phong Hóa, nhưng chúng tôi
chưa biết là ai.
Trần
Quang Trân học trường Mỹ Thuật khóa III cùng với
Lê Thị Lựu, ra trường năm 1932, xuất hiện trên Phong Hóa từ số 18 (20-10-32),
ký Mạc, Ngym, Ngạc Mai… Ông vẽ hý họa và đôi khi minh họa truyện của Khái Hưng.
Nguyễn
Cát Tường ban đầu ký tên A.S. Lemur, (Le mur
tiếng Pháp là tường) có tranh hài hước trên Phong Hóa từ số 13 (8-9-32). Đến số
27 (23-12-32) ông xuất hiện lại với hai bức hý họa Xem voi ở sở bách thú Hà
Nội và Ba năm ở xứ Bắc.
Kể
từ Phong Hóa số 85 (11-2-34) (báo Xuân năm thứ hai), Nhất Linh mở thêm mục: Vẻ
đẹp của các bà các cô và giao cho họa sĩ Le Mur Nguyễn Cát Tường phụ trách.
Đây là mục thời trang đầu tiên trên báo chí miền Bắc, và có lẽ trên cả đất nước
Việt Nam. Về y phục phụ nữ, Lê Phổ đi trước, rồi tới Nguyễn Cát Tường, là những
nhà kiểu mẫu tiên phong trong việc đổi mới áo dài, họ vẽ nhiều kiểu áo tân kỳ
cho đàn bà mặc trong những sinh hoạt khác nhau, tạo sự thanh lịch cho phụ nữ Hà
thành. Nhưng Lê Phổ làm phụ tá cho thầy Tardieu, đi ngoại quốc luôn, nên Cát
Tường trở thành số một. Có thể nói Cát Tường là "Coco Chanel" của
Việt Nam, thủa ban đầu vậy.
Tô
Ngọc Vân, cộng tác với Phong
Hóa từ số 129 (21-12-34), thay Nguyễn Gia Trí khi ông Trí vắng mặt. Tô Ngọc
Vân, thường ký tên Tô Tử, là họa sĩ chính thứ hai sau Nguyễn Gia Trí, không
những vẽ tranh hài hước mà còn vẽ những bức phụ bản tuyệt đẹp cho báo xuân,
viết phê bình hội họa và minh họa cho tiểu thuyết, truyện ngắn dưới tên Ái Mỹ.
Tô Ngọc Vân chỉ ngừng trong thời gian đi Cao Mên dạy học và khi trở về, ông lại
cộng tác liên tục với Ngày Nay từ số 139 (3-12-38) đến khi tờ báo đóng cửa, số
224 (7-9-40).
Nguyễn
Gia Trí, vẽ từ Phong Hóa số 1 (16-6-32) với
bức tranh Hai đám rước sư tử, không ký tên; nhờ những điều Khái Hưng
viết trong tiểu thuyết Những ngày vui, ta có thể đoán đó là tranh Nguyễn
Gia Trí. Tóm lại, những bức tranh in trên Phong Hóa từ số 1 đến số 13 (8-9-32)
chỉ có thể đoán là của Nguyễn Gia Trí, chưa thể xác định[2].
Ngoài
bức tranh ký tên Đông Sơn (chữ quốc ngữ) chắc là của Nhất Linh, in trên Phong
Hóa số 3 (30-6-32) và một bức ký AS Lemur trên số Phong Hóa 13 (8-9-32), phần
lớn những tranh còn lại đều ký Hbat, tạm đoán là Nguyễn Gia Trí.
Kể
từ Phong Hóa số 14 (22-9-32) Nguyễn Gia Trí ký thêm nhiều tên khác, như: Tô, Cô
Tô, Nul, Daladin, Nal, Hoth, TAG, Tú Sơn, Tú Nuy, NGT, ZTTG, Rigt… Những biệt
hiệu này phản ánh tính hài hước của Nguyễn Gia Trí: Tô (tên chó Tây), Cô Tô (cô
chó Tây), Nul (số không), Nal (biến thể của Nul), Daladin (chắc từ chữ
d’Aladin, nghiã là của Aladin), Hbat, Hoth, TAG (ba chữ cái trong GIA TRI), Tú
Sơn (Tout seul, một mình), Tú Nuy (Tout nu, trần truồng), NGT (Nguyễn Gia Trí
viết tắt); ZTTG, tên ký để tỏ sự phẫn nộ cực điểm.
Rigt
hay RIGT, là bút hiệu dùng nhiều nhất trên Ngày Nay, có nghiã là: RI GT tức gt
ri hay gia trí cười mà cũng còn nghiã là Lẽ phải.
Trong
giai đoạn đầu của Phong Hóa, có thể vì Gia Trí chưa học xong, nên không được
phép vẽ và ký tên như một họa sĩ thực thụ; nên ông thường không ký tên hoặc ký
ẩn danh, nhưng trên Phong Hóa số 66 (29-9-33) lần đầu tiên ông ký NGT.
Còn
bút hiệu Rigt hay RITG và các biến thể của chữ này, xuất hiện trong giai
đoạn sau, thường dùng để ký dưới những biếm họa tranh đấu trên báo Ngày Nay.
Tựu
trung, Nguyễn Gia Trí vẽ nhiều nhất, (trừ khi có việc phải vắng mặt), từ Phong
Hóa số 1, tháng 6 năm 1932, đến Ngày Nay kỷ nguyên mới, tháng
5-6 năm 1945.
Tranh
Nguyễn Gia Trí, trong giai đoạn tranh đấu quyết liệt, thường đi đôi với bài
viết của Hoàng Đạo, tạo một phong cách phê bình xã hội độc đáo, có sức công phá
quan trường cao độ, chống Pháp thâm thúy, mãnh liệt, khiến nhiều lần Phong Hóa
và Ngày Nay bị đe dọa đóng cửa.
Nhất
Linh vẽ nhiều hơn viết,
trong hai năm đầu. Dù chỉ học trường Mỹ thuật Đông Dương có một năm, nhưng tác
phẩm chứng tỏ ông là một họa sĩ tài ba, được nhà trường trân trọng, ông có tên
trong danh sách hội đồng chấm thi cho cuộc triển lãm 1935 (Phong Hóa số 137,
22-2-35).
Ông
vẽ cho Phong Hóa từ số nào? Nếu dựa vào tranh bìa, ký Đông Sơn bằng chữ nho,
thì Nhất Linh đã "vào" Phong Hóa từ số 2 (28-6-32). Và trên Phong Hóa
số 3 (30-6-32) ông đã có một hý họa nhỏ, ký tên Đông Sơn bằng chữ quốc ngữ.
Đến
Phong Hóa số 14 (22-9-32) xuất hiện bức tranh hoành tráng Người Annam mình
kinh doanh, ký tên Đông Sơn, vẽ cảnh người Việt chen chúc trên một chiếc xe
hàng, tác phẩm hiện thực châm biếm có tính cách toàn diện, xác định con đường
tranh đấu bằng biếm họa của Phong Hóa. Trong chương Sự thành lập Tự Lực văn
đoàn, chúng tôi đã đưa ra giả thuyết: có thể Đông Sơn lúc đầu là tên chung
của Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh.
Nhất
Linh thường ký tên Đông Sơn, thỉnh thoảng DS hay TAM. Ngoài những bức biếm họa,
ông còn minh họa các truyện dài Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Gánh hàng
hoa, Đời mưa gió, Đoạn tuyệt, Tiêu Sơn tráng sĩ. Về biếm họa, nét vẽ của
Đông Sơn tròn trĩnh, hiền lành hơn những nét nhọn, lõm, khiêu khích của Nguyễn
Gia Trí, vì vậy có thể bức Người Annam mình kinh doanh là sản phẩm chung
của hai người.
Hoàng
Đạo tuy không học vẽ nhưng xuất hiện ngay từ số 14 (22-9-32)
với hai bức biếm họa Nhà giáo quen tay và Nguyễn Khắc Hiếu với việc
đời, ký tên Tứ Ly. Ông minh họa truyện ngắn của Khái Hưng: Đi Nam Kỳ
và Cái thù ba mươi năm trên Phong Hóa số 15 (29-9-32); Cái thống đời
Tống trên Phong Hóa số 17 (13-10-32); Tình tuyệt vọng trên Phong Hóa
số 18 (20-10-32), tác phẩm này làm say mê tuổi trẻ lúc bấy giờ nhờ bài thơ Tình
tuyệt vọng Khái Hưng dịch thơ Arvers.
Đến
Phong Hóa số 19 (27-10-32), lần đầu tiên Tứ Ly xuất hiện như họa sĩ đích thực
trên trang nhất Phong Hóa với bức hý họa rất "nhà nghề" Ấy họ đá…
nhau! chế giễu cảnh bóng đá… đá nhau và trên Phong Hóa số 21 (11-11-32)
có tranh "Ông Nguyễn Khắc Hiếu dậy Văn chương" của Tứ Ly… là
hai bức hý họa lớn của Hoàng Đạo.
Khái
Hưng cũng vẽ, ký tên Bán Than và Nhị Lang. Trên số Phong Hóa số
23 (25-11-32), có bức hý họa đầu tiên tựa đề Phát minh, ký Bán Than.
Trên Phong Hóa số 26 (16-12-32) ông vẽ thêm ba bức tranh hài hài hước, ký Bán
Than. Đến Phong Hóa số 66 (29-9-33) ông vẽ hai tranh tựa đề Tùy danh chọn
nghề, đều ký Nhị Lang. Ông tiếp tục ký Nhị Lang trên các tranh: Lý luận
Phan Khôi trên Phong Hóa số 70 (27-10-33); rồi hai tranh trên Phong Hóa số
73 (17-11-33), một trên Phong Hóa số 74 (24-11-33). Và trên Phong Hóa số 85
(11-2-34) có tranh Nhị Lang bán tranh Tết. Ông còn minh họa cho truyện
vừa Số đào hoa của ông. Và trên Phong Hóa số 115 (14-9-34) có tranh Lý
Toét của Nhị Lang…
Nhưng
Khái Hưng vẽ không hay bằng Hoàng Đạo.
Sự
ra đời của Lý Toét
Lý
Toét do Nhất Linh sáng tạo ngay từ tháng 6 năm 1931, khi chưa có Phong Hóa.
Nhất Linh chính thức đưa Lý Toét lên Phong Hóa từ số 15 (29-9-32), và sẽ được
các họa sĩ chấm phá thêm, trở thành một trong những nhân vật sáng chói của Tự
Lực văn đoàn, biểu hiệu tất cả phong cách hài hước và bi đát trong hý họa của
Phong Hóa Ngày Nay.
Lý
Toét trở thành một sáng tác tập thể, một thứ lương tâm thời đại, một sự
tự trào, cười dân mình mà cũng là cười chính mình: một lũ nhà quê ra tỉnh, lóe
mắt trước đời mới tối tân, hoa lệ người Âu đem lại, bị bánh xe thực dân và cuộc
sống tân thời đè bẹp, nhưng vẫn cố gắng ngoi lên, chống lại bằng sự ngây ngô,
gàn dở, mà không thua.
Lý
Toét trở thành một nhân vật "có thật", một con người bằng xương bằng
thịt, thậm chí, trên Phong Hóa, có khung quảng cáo của Thanh Hà Dược Phòng với
tít Lý Toét mắc lậu kể chuyện Lý Toét và Ba Ếch đi chơi ngõ Sầm Công "để
thưởng thức phong lưu Hà Thành. Sau trận mây mưa một ít lâu, cả hai đều mắc
phải bệnh kín" may nhờ uống thuốc của Hà Thành Dược Phòng 55 Route de
Huế, một tuần lễ là khỏi!
Sự
ra đời của Lý Toét mãi sau này mới được Nhất Linh kể lại trên báo Xuân Ngày Nay
1940, số 198 (3-2-40) trong bài viết tựa đề Lịch sử Lý Toét, Ba Ếch và Xã
Xệ.
Nhất
Linh sáng tác ra Lý Toét như thế nào? Ông kể lại như sau:
"Đông
Sơn một hôm ngồi xem báo Phụ Nữ, nghịch vẽ một người nhà quê và thấy mặt người
ấy hay hay liền xé chỗ vẽ cất đi, chưa biết dùng làm gì. Các bạn thấy trong
hình đầu tiên ấy Lý Toét trẻ hơn bây giờ nhiều, mà ngay lúc đó, Lý Toét đã có
đủ cả ô, cả giầy, cả râu ria, búi tóc.
Không
có tờ báo Phụ Nữ Thời Đàm thì không có Lý Toét. Vậy theo đúng lịch sử ta có thể
quả quyết rằng:
Đông
Sơn và Phụ Nữ đã đẻ ra Lý Toét, đẻ vào tháng 6 năm 1931.
Được
ít lâu Phong Hóa đổi tòa soạn. Lý Toét ra mắt độc giả ngay từ số 14 trong mục
Vui Cười nhưng vẫn bơ vơ ngơ ngác vì chưa có tên. Đầu tiên là Tứ Ly đem Lý Toét
vào Phong Hóa (số 35 ngày 24-2-33) trong bài cuộc chợ phiên của Phong Hóa tổ
chức, có bức vẽ Lý Toét đi với Ba Ếch vào xem phụ nữ kén chồng.
Bức
tranh khôi hài đầu tiên có vẽ Lý Toét và có chua tên cẩn thận là bức tranh vẽ
Lý Toét ra tỉnh đứng trước cái máy nước ngẫm nghĩ: Quái! Bia ai mà lạ
vậy!" (Phong Hóa số 48 ngày 26-5-33)".
Trong
bài viết này, Nhất Linh nhớ gần đúng, chỉ sai hai chỗ:
-
Lý Toét có mặt trên mục Vui cười, từ Phong Hóa số 15 (không phải số 14).
-
Nhất Linh không nhớ bài viết đầu tiên, đặt tên cho Lý Toét trên Phong
Hóa, là bài Cụ Lý Toét đi xem hội chợ (Cát-Tót, Juillet) của HTC [Hoàng
Tích Chu] in trên Phong Hóa số 25 (9-12-32). Còn bài Cuộc chợ phiên của
Phong Hóa tổ chức của Tứ Ly, là bài thứ hai, in sau ba tháng, trên Phong
Hóa số 35 (24-2-33). Hoàng Tích Chu mới là người đầu tiên đặt tên cho Lý
Toét.
Nhất
Linh lại viết:
"Tên
Lý Toét thấy xuất hiện năm 1930 trong báo Tứ Dân mà người đẻ ra tên Lý Toét lại
là Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu." Đấy là Nhất Linh
nghĩ thế. Nhưng khách quan mà xét, thì tên Lý Toét trên báo Phong Hóa là do
Hoàng Tích Chu đưa ra trong bài Cụ Lý Toét đi xem hội chợ (Cát- Tót,
Juillet). Hoàng Tích Chu có cóp của Tú Mỡ hay không, ta không thể biết
được. Nhưng ta cũng nên đặt câu hỏi: nếu tên này Tú Mỡ đã đặt ra từ năm 1930,
thì tại sao Nhất Linh lại không dùng ngay từ đầu? Vậy nếu Tú Mỡ có nghĩ ra hai
chữ Lý Toét, từ năm 1930, thì tôi cho rằng đó chỉ là điều trùng hợp.
Sự
hiển nhiên là Lý Toét của Nhất Linh mấy tháng đầu chưa có tên, chỉ từ khi HTC
đặt tên cho nhân vật này là Lý Toét, thì lúc ấy mọi người mới gọi là Lý Toét.
Cho nên tôi nghĩ rằng "công" đặt tên cho Lý Toét phải là của Hoàng
Tích Chu.
Bản
chất Lý Toét
Trong
thời kỳ đầu, biếm họa trên Phong Hóa còn hiền lành, cốt chỉ mua vui.
Nhưng
dần dần Lý Toét sẽ chỉ đạo tư tưởng những biếm họa trên Phong Hóa Ngày Nay.
Khởi đầu bằng khuôn mặt hiền lành do Đông Sơn tạo ra trên Phong Hóa, 1932 và
kết thúc bằng nhưng nét phẫn nộ, gào thét của Nguyễn Gia Trí trên Ngày Nay
kỷ nguyên mới, 1945.
Lý
Toét là nhân vật chính và nổi tiếng nhất của Tự Lực Văn Đoàn, ra đời trước cả
cô Mai (Nửa chừng xuân), cô Tuyết (Đời mưa gió), cô Loan (Đoạn tuyệt)… Lý Toét
ở với Tự Lực văn đoàn lâu nhất, có mặt từ Phong Hóa số 15 và chỉ ra đi
khi Ngày Nay kỷ nguyên mới đình bản.
Lý
Toét "chính thức" có mặt trên Phong Hóa từ số 15, nhưng đã có mặt
trong "vô thức" từ Phong Hóa số 14 (22-9-32), trong bức tranh lớn Người
Annam mình kinh doanh của Đông Sơn, với hình một người nét mặt giống Lý
Toét, ngồi trên mui xe hàng.
Và
vẫn trong số 14 này, trang 3, còn có hai tranh: Mồm mép hàng giầy, ký
Tô, vẽ người bán giày có khuôn mặt và bộ dạng giống như Lý Toét.
Bên cạnh là bức tranh Giậy khôn ký Nul, vẽ cảnh một thằng nhỏ bị xe cán
đứt đôi, một ông nhà quê cầm dù giống Lý Toét đi qua, cúi xuống dặn: lần
sau có đi nên cẩn thận!
Hai
bức tranh này ký Tô và Nul (Nguyễn Gia Trí) nêu ra hai khía cạnh đối lập của Lý
Toét: vừa khôn ngoan lại vừa ngây ngô, thật thà. Hai đặc tính này sẽ được đào
sâu trong bài viết của Hoàng Tích Chu: Cụ Lý Toét đi xem hội
chợ (Cát-Tót, Juillet) đã nói đến ở trên và cũng sẽ được Nguyễn Gia
Trí sử dụng triệt để khi ông vẽ Lý Toét sau này, trong những bức biếm họa chống
tàn tích của xã hội cũ và chống thực dân.
Trên
Phong Hóa số 15 (29-9-32), mục Vui cười, lần đầu tiên có hình Lý
Toét, ký DS (Đông Sơn) nhưng chưa đề tên Lý Toét.
Phong
Hóa số 16 (6-10-32), trang 4, có tranh vẽ ông lý (chưa có tên Toét)
đi qua hiệu giải khát, được cô hàng mời: "Mời ông vào sơi nước chanh
nước đá". Ông lý hiểu lầm là cô hàng mời uống không tốn tiền,
nên lễ phép từ chối: Tôi không dám mời cô sơi. Tác giả (không ký tên) đã
chỉ ra sự "nhà quê" của ông lý.
Trên
Phong Hóa số 21 (11-11-32) có bức tranh Tưởng tượng… và sự thực…
của Đông Sơn: bên trái, nhân vật giống Lý Toét, tưởng tượng mình đứng bên cầu
phong cảnh đầy thơ mộng… bên cạnh là… cảnh thực.
Phong
Hóa 25 (9-12-32), số đặc biệt về Hội Chợ, lần đầu tiên xuất hiện tên Lý Toét
được xuất hiện trên tựa bài viết: Cụ Lý Toét đi xem hội chợ
(Cát-Tót, Juillet), Hoàng Tích Chu[3]
mô tả Lý Toét như sau:
"Lúc
vào cửa, cụ Lý Toét bị chen, trên đầu thì xổ cả khăn, tung cả búi tóc, dưới
chân thì họ séo tụt cả giầy, khốn đốn mới qua được cái cửa quay. (…) Bới lại
cái "búi chấy", quấn lại cái khăn lượt mầu nước dưa cho chỉnh, cụ lý
đi nghênh ngáo mọi nơi. Mỗi hàng một vẻ, lộng lẫy, rực rỡ như động tiên, cụ
chẳng biết nên xem đâu trước, đâu sau, ngơ ngẩn cả người như mán về đồng bằng
vậy. (…) Đi qua dan hàng máy hát, réo rắt dọng hát chèo, sen tiếng nhị, tiếng
trống, tiếng mõ, tiếng thanh la, nghe rõ mồm một. Cụ ngây cả người không biết
tiếng hát ở đâu mà ra".
Bài
viết của Hoàng Tích Chu, không những lần đầu tiên đặt tên cho Lý Toét,
mà còn mô tả dáng điệu và tâm lý Lý Toét, dùng lập luận nhà quê của Lý Toét để
phê bình cái văn minh mẫu quốc đem lại. Đây là bài viết đầy đủ và có ý nghiã
nhất về Lý Toét, cũng là văn bản sau cùng của Hoàng Tích Chu trên Phong Hóa,
bởi vì ông mất ngày 25-1-1933. Sau này, các họa sĩ đều dựa vào "tinh thần"
bài của HTC để vẽ chân dung Lý Toét.
Trên
Phong Hóa số 35 (24-2-33), có bài Cuộc chợ phiên của Phong Hóa tổ
chức của Tứ Ly, kể chuyện Lý Toét và Ba Ếch đi chợ phiên gặp đủ các vị chức
sắc trong làng (cổ) văn: Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn
Công Tiễu, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Văn Tố… kèm theo tranh Phụ nữ kén
chồng, vẽ Lý Toét và Ba Ếch đứng xem các bà, các cô dự cuộc thi kén chồng.
Đây là lần đầu Lý Toét xuất hiện với tên trong bài viết và với hình minh họa.
Phong
Hóa số 48 (26-5-33) có bức tranh đề tít: Lý Toét ra tỉnh, vẽ Lý Toét ô
cặp nách, cúi nhìn cái vòi nước công cộng, tưởng là bia mộ, miệng lẩm bẩm: quái
bia gì mà lạ vậy? Tranh không ký tên, nhưng lột đúng "tinh thần"
Lý Toét của Hoàng Tích Chu.
Đây
là lần đầu tiên tranh Lý Toét có tên.
Quá
trình thành lập nhân vật Lý Toét như thế là xong. Kéo dài trong 8 tháng, từ
Phong Hóa số 15 (29-9- 32) đến Phong Hóa số 48 (26-5-33).
Từ
đó các họa sĩ thi nhau vẽ Lý Toét, nhất là từ khi trên Phong Hóa có cuộc thi Lý
Toét, bất cứ ai cũng có thể gửi tranh, gửi bài đến tòa báo.
Cùng
với tranh là loạt bài cổ động, bắt đầu trên Phong Hóa số 51 (16-6-33) với vở kịch
Nửa cái thỏ bò [thủ bò, đầu bò] của Khái Hưng vai chính là Lý Toét.
Phong Hóa số 52 (23-6-33), trang nhất có tranh Lý Toét tức cảnh của Nhất
Sách, vẽ Lý Toét ra Hà Nội bị hành hung… Nhiều tranh hài hước có hình Lý
Toét, nhưng không đề tít và không ký tên người vẽ. Phong Hóa số 60 (18-8-33),
có tranh Lý Toét của Đông Sơn. Phong Hóa số 78 (22-12-33) có nhiều tranh và bài
về Lý Toét. Phong Hóa số 79 (29-12-33), có tranh Lý Toét của Ngạc Mai (Trần
Quang Trân) và trên mục Vui cười, hình Lý Toét có thay đổi, có cá tính
hơn, chắc Nguyễn Gia Trí sửa.
Lý
Toét ngự trị một mình trên Phong Hóa, cho đến khi Xã Xệ ra đời.
Ba
Ếch
Nhất
Linh không chỉ tạo Lý Toét, ông còn tạo cả Ba Ếch, nhân vật thứ hai này, theo
ông, là một người có thật, tên là Ech, sống ở Hà Nội. Nhưng Nhất Linh
không vẽ hình Ba Ếch, vì ông muốn Ba Ếch có "thiên hình vạn trạng"[4].
Tuy được cổ động trên Phong Hóa rất kỹ, cả Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, đều
viết truyện vui, kịch, truyện ngắn đề cao Ba Ếch, nhưng không thành công.
Mặc
dù gần "bằng tuổi" Lý Toét, Ba Ếch ra đời từ Phong Hóa số 19
(27-10-32), xuất hiện lần đầu trong mục Vui cười, với mẩu truyện Ba
Ếch đi xe hỏa, không ký tên, chắc của Nhất Linh. Tiếp đó, có bài Ba Ếch
đi xem hội chợ của Nhất Linh, trên Phong Hóa số 25 (9-12-32), cũng không
gây được tác dụng mong muốn. Rồi Ba Ếch ăn Tết của Tứ Ly trên Phong Hóa
số 31 (24-1-33) cũng vậy.
Phong
Hóa số 35 (24-2-33), có bài Cuộc chợ phiên của Phong Hóa tổ chức
của Tứ Ly, kể chuyện Lý Toét và Ba Ếch đi chợ phiên (đã nói ở trên). Bài này
cũng không làm cho Ba Ếch nổi tiếng, chỉ lộ tính cách hài hước của Tứ Ly.
Phong
Hóa số 39 (24-3-33), Khái Hưng đem cả tên mình vào đóng cùng với Ba Ếch trong
vở kịch vui tự trào Tôi là Khái Hưng, cũng chẳng ăn thua gì. Phong Hóa
số 41 (7-4-33) Khái Hưng lại viết thêm truyện vui: Ba Ếch Vô Huế.
Phong Hóa số 73 (17-11-33), Tứ Ly viết bài: Vợ chồng Ba Ếch đi ăn tạp-pí lù…
Tóm lại những cố gắng triệt để "lăng- xê" Ba Ếch đều vô hiệu. Bởi vì
Ba Ếch không tạo được cảm hứng cho họa sĩ vẽ tranh, nên không để lại dấu vết gì
trong lòng người đọc.
Xã
Xệ và Lý Toét
Nhân
vật nổi tiếng thứ nhì sau Lý Toét là Xã Xệ, do Bút Sơn sáng tạo.
Lần
đầu tiên là trên Phong Hóa số 57 (28-7-33), có bức tranh gửi dự thi vẽ một
người trọc đầu chỉ có một sợi tóc quăn trên đỉnh, đi hớt tóc, và người thợ
cạo hỏi:
Bẩm ngài, ngài rẽ bên hay rẽ giữa ạ?
Nhân
vật (là Xã Xệ) trên bức tranh này mới chỉ có độc một sợi tóc xoăn mà thôi, chưa
có tên, mà hình dạng tầm thường, chưa có cá tính.
Chín
tháng sau, Bút Sơn sáng tạo lại hoàn toàn Xã Xệ (và Lý Toét), trên hai bức
tranh vẽ Lý Toét và Xã Xệ. Lần này ông đặt tên Xã Xệ đàng hoàng. Tác phẩm in
trên trang nhất Phong Hóa số 89 (16-3-34), đập vào mắt người xem. Cặp Lý
Toét-Xã Xệ của Bút Sơn được chấp nhận ngay, từ đó, trở thành cặp bài trùng như
Laurel-Hardy Việt Nam vậy.
Không
ai biết rõ Bút Sơn tên thật là gì. Nhất Linh, trong bài Mấy lời nói đầu[5]
viết về Bút Sơn với lời nhắn như sau: "Bút Sơn ở Sài Gòn (người đã
đẻ ra Xã Xệ) (tên thật chưa biết). Xin ông Bút Sơn (nếu ông còn sống) hoặc các
bạn ông cho biết tên thật."
Khi
Lý Toét-Xã Xệ của Bút Sơn được in trên Phong Hóa số 89 (16-3-34), thì bốn tuần
sau, có tranh Xã Xệ của Tú Nuy (Nguyễn Gia Trí), phụ họa trên Phong Hóa số 93
(13-4-34). Bức tranh đầu tiên, xác định chân dung Xã Xệ dưới cái nhìn của
Nguyễn Gia Trí.
Nguyễn
Gia Trí đã sửa lại Xã Xệ của Bút Sơn cho đẹp hơn, dễ yêu hơn, bớt mập phì,
profil rõ ràng, giống con chim non, nhất là sợi tóc xoăn đặc biệt, tuyệt vời.
Khuôn
mặt nghiêng của Xã Xệ với sợi tóc xoăn, do Nguyễn Gia Trí tái tạo, gây dấu ấn
mạnh trong trí nhớ tuổi thơ của Trần Khánh Triệu. Hơn sáu mươi năm sau ông ghi
lại trong bài Papa tòa báo câu này: "hình Xã Xệ [chú Trí]
chỉ đưa vài nét là xong, bao giờ cái tóc xoắn như lò xo của ông Xã cũng được vẽ
sau chót"[6].
Chính cái tóc xoắn này phân biệt Xã Xệ của Nguyễn Gia Trí với Xã Xệ người
khác vẽ.
Kể
từ Phong Hóa số 94 (20-4-34) trở đi có nhiều tranh Lý Toét-Xã Xệ. Phong Hóa số
100 (1-6-34) có tranh Lý Toét – Xã Xệ, do BeKy vẽ, khá đẹp.
Trên
Phong Hóa số 102 (15-6-34), mục Vui cười thêm hình Xã Xệ, logo mới mang
dấu ấn Nguyễn Gia Trí.
Phong
Hóa số 105 (6-7-34) có tranh Lý Toét Tập Kiều:
Đội
trời đạp đất ở đời,
Nguyễn
Văn Lý Toét vốn người Việt Nam,
của
ZTTG (Gia Trí).
Bức
Tập Kiều là bức tranh đầu tiên sáng tạo cho Lý Toét một ý nghiã chính
trị. Tác phẩm gây ấn tượng mạnh nhờ hai câu thơ Nguyễn Du: Nguyễn Gia Trí đã
tạo cho Lý Toét một cá tính sắc sảo qua nét mặt kiêu hãnh và cương quyết và cho
người Việt Nam một sự tự hào thầm kín: Lý Toét vươn lên thành Từ Hải.
Đến
tác phẩm Lý Toét ký tên ZTTG dưới đây là bức tranh dữ dội nhất trong sưu tập Lý
Toét của Tự Lực văn đoàn: Nguyễn Gia Trí đem tất cả sự phẫn nộ của mình hòa
trong tác phẩm. Lý Toét ở đây, biểu hiệu sự quật khởi, bất phục tòng của người
dân mất nước. Chưa bao giờ một bức tranh hài hước có thể đi xa đến thế.
Tóm
lại, Lý Toét ban đầu chỉ là một ông lý nhà quê ra tỉnh, nét mặt ngây ngô hiền
hậu, người vẽ cho Lý Toét biến chuyển theo cách vẽ và cá tính của mình, nhưng
phải công nhận rằng các họa sĩ chuyên nghiệp như Ngạc Mai (Trần Quang Trân),
Nhất Sách, Trần Bình Lộc, Cát Tường… đều vẽ Lý Toét-Xã Xệ không hay mấy, nhiều
khi không bằng các họa sĩ nghiệp dư gửi tranh dự thi. Cả Tô Ngọc Vân cũng vậy.
Nguyễn
Gia Trí và Lý Toét-Xã Xệ
Nguyễn
Gia Trí tạo ra một Lý Toét muôn mặt, cho Lý Toét một cá tính mạnh mẽ, với bức Tập
Kiều, xác định ADN của Lý Toét qua lời Nguyễn Du:
Đội
trời đạp đất ở đời. Nguyễn Văn Lý Toét vốn người Việt Nam.
Nhưng
Nguyễn Gia Trí không dừng lại ở đây mà còn vẽ cả bề trái của nhân vật Lý Toét
và xã hội Việt Nam nữa, nhất là khi ông họp cặp bài trùng Lý Toét Xã Xệ trong
cùng một bức tranh. Lý Toét Xã Xệ, dưới ngọn bút Nguyễn Gia Trí, không chỉ là
nạn nhân mà họ – cũng như tất cả người Việt Nam khác – còn là thủ phạm sự suy
đồi trong đời sống dân tộc.
Lý
Toét gầy yếu như cây liễu nhưng khi cần thì vững như cây tùng. Xã Xệ mập ú, đầy
thịt nhưng mềm như cây sậy. Cặp Lý Toét Xã Xệ luôn luôn phức tạp, không chỉ để
cười mà cũng không chỉ để khóc, giống như Charlot của Charlie Chaplin, làm ta
vừa khóc, vừa cười.
Trong
bức tranh Cải Cách, (Ngày Nay số 55, trang 231) phụ bản bài Phá đình
của Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí vẽ bữa cỗ ở đình làng, mọi người đang chè chén,
tất cả đều có khuôn mặt điển hình Lý Toét Xã Xệ. Búc tranh biểu dương chính
chúng ta đang ngụp lặn trong làng xã xôi thịt, cực kỳ tha hóa, và đó là
xã hội Việt Nam do ta tạo dựng!
Đầu
óc bảo thủ và xôi thịt của Lý Toét Xã Xệ – tức là đầu óc của dân làng – đã thủ
tiêu bao nhiêu tiến bộ, đã dẫm nát bao nhiêu mầm non, đã đưa dân tộc trở lại
những thế kỷ trước, chỉ vì có óc thủ cựu, bám chặt lấy cái búi tó trên đầu. Mà
đây không phải là chuyện búi tó, nữa, nó đã mở rộng ra đến chuyện tứ đức tam
tòng, đến chuyện tiết hạnh khả phong dã man tàn ác, mà Nhất Linh tố
cáo, nhưng đã bị chống lại một cách triệt để. Sự chống không phải chỉ có trong
đầu óc các cụ cổ đâu, mà cả trong đầu các nhà tư tưởng tân kỳ như Trương Tửu
mới lạ kỳ, họ cũng miệt thị cô Nhung trong Lạnh lùng và gián tiếp coi Tự
Lực văn đoàn đã tàn phá cái hay của xã hội xưa! Bức tranh dưới đây của Gia Trí,
gửi tới những luồng tư tưởng cổ điển ấy.
Bức
tranh dưới đây, minh họa cho bài Nỗi lo sợ hàng năm của Hoàng Đạo, in
trên Ngày Nay số 58) Lý Toét biểu hiệu cho bọn kỳ hào ở thôn quê, thâu thuế của
dân bỏ túi, tiêu pha, rượu chè, tự nhiên như "lợi tức" của mình vậy:
Khi
sự ngây ngô đi đôi với mê tín dị đoan kèm óc tưởng tượng phong phú, sẽ cho tuyệt
tác dưới đây:
Lý
Toét đứng trước đội binh vàng mã sắp đốt, nói với Xã Xệ:
-
Bác Xã ạ, ở âm phủ thì nước ta mạnh nhất, không nước nào bằng.
Mà
đúng như vậy, cho nên tục đốt vàng mã, dù được Tự Lực văn đoàn chiến đấu bằng
đủ mọi cách mà nó vẫn còn sống đến bây giờ. Đã gần một thề kỷ qua!
Như
thế, không phải Nguyễn Gia Trí bôi nhọ dân tộc, như nhiều người kết án, mà ông
chỉ ra cái "ngu muội" của dân tộc để tự sửa, mà thôi! Chỉ những nghệ
sĩ lớn mới có đủ can đảm để để viết và vẽ về cái xấu của dân tộc mình. Còn việc
ca tụng con rồng cháu tiên thì ai làm cũng được.
Kinh
hãi hơn nữa là thế hệ Lý Toét Xã Xệ, bố, lại sinh ra thế hệ Lý Toét Xã Xệ, con.
Và nếu ta không chịu thay đổi thì đời đời, thanh niên Việt (lúc bấy giờ, và cả
ngày nay nữa, dưới một hình thức khác) sẽ không thể nào thoát ra được cảnh ham
chè chén, xôi thịt, bạc tiền.
Nhưng
Lý Toét Xã Xệ, không phải lúc nào cũng có bộ mặt tiêu cực, trong bức tranh dưới
đây, họ đã "nắm vững" tình hình, không còn "ngu" nữa, đứng
trước màn hài kịch "dân biểu", Lý Toét bảo Xã Xệ:
-
Vẫn trò mọi năm? Nhạt lắm rồi!
Dân
đã hiểu, không còn ngu muội nữa, cái trò nghị gật chỉ biết Uẩy Uẩy theo
lời chính phủ thực dân, đã bị lộ tẩy:
Dưới
đây là bức tranh hài hước thâm thúy sâu xa: Ngày Tết, Lý Toét đem quà đến biếu
quan Tây, và nói:
-
Nghe nói biểu hiệu của mẫu quốc là con gà sống, nên chúng tôi đem đến tết cụ
lớn con gà mái cho có đôi.
Ở
đây Nguyễn Gia Trí chơi chữ… Tây:
Le
coq gaulois (Con gà sống ở xứ Gaule) là một trong
những biểu hiệu thiêng liêng của dân tộc Pháp.
Lý
Toét bèn đem tết quan lớn Tây con gà mái cho có đôi.
Hiềm
vì, gà mái (poule), đối với người Pháp ngụ ý xấu: đàn bà điếm, đàn
ông nhát như cáy (poule mouillée).
Lý
Toét ngụ ý: Mẫu quốc chỉ là con gà Tây, gà tồ, xứng với trai hèn, gái điếm.
Vẽ
xong bức tranh ấy, in trên bìa báo số 144 rồi. Tuần sau, Lý Toét, Xã Xệ, hơi
lo. Trời xanh ảm đạm. Đứng nói chuyện với nhau bên cạnh tờ báo, Xã Xệ tập Kiều:
Rằng
hay thì thực là hay
Nhưng
rồi ngậm đắng nuốt cay không chừng!
Nhưng
bức tranh cực kỳ cay đắng là bức dưới đây, in trên bìa Ngày Nay số 150
(25-2-39). Nhân dịp chính phủ Đông Dương bỏ ra 2 triệu bạc và phái ông De
Beaumont đem tiền đi dự đấu xảo San Francisco. Lý Toét lấy ô kéo chân ông Tây
lại, Xã Xệ đứng sau kéo áo Lý Toét:
-Thôi!
Ông đẹp giai và sang trọng thế, thì ông đi đấu xảo một mình cũng đủ chán rồi.
Còn túi tiền ông để lại cho chúng tôi ăn gạo, chúng tôi đói lắm!
Bố
cục và nét vẽ Lý Toét Xã Xệ, trong bức tranh này thật tuyệt hảo, diễn tả toàn
bộ cuộc tranh đấu bất bình đẳng giữa hai đối tượng: một bên là bọn cướp nước,
giầu mạnh, có khí giới tối tân tầu bay tầu bò. Một bên là người dân nhược tiểu,
yếu nghèo, bị cướp nước mà không có khí giới để chống cự, để bảo vệ, đề giành
lại lãnh thổ. Bằng cái ô, Lý Toét đã can trường, xông xáo, Xã Xệ, theo sau, bám
vào Lý Toét như con sò, con ốc, thân hình co lại trong một vòng tròn tuyệt
vọng.
Lịch
sử Lý Toét, Ba Ếch và Xã Xệ là bài viết cuối cùng
của Nhất Linh, in trên Ngày Nay, sau đó ông chỉ vẽ thêm vài tranh trào phúng,
rồi đến Ngày Nay số 204 (23-3-40) ông ngừng hẳn. Mùa thu năm 1940 Nhất Linh
trốn sang Tầu. Trong thời gian này Nguyễn Gia Trí cũng đã đi trốn, Tô Ngọc Vân
sẽ vẽ thay Gia Trí với biệt hiệu Ái Mỹ.
Hoàng
Đạo, Nguyễn Gia Trí và Khái Hưng, dù đã sống lẩn tránh, vẫn lần lượt bị bắt
trong tháng 9-1941. Chỉ còn lại một mình Thạch Lam.
Lúc
ấy, Thạch Lam, đã nhuốm lao, ông mất ngày 28-6-1942, ở tuổi 32, trong lúc Khái
Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí, đang bị tù ở Vụ Bản và Nhất Linh lưu lạc bên
Tàu.
Trong
tất cả những bất hạnh này, Lý Toét đều dính líu xa gần.
Suốt
thời gian vẽ hý họa tranh đấu, từ 1936 trở đi, Nguyễn Gia Trí đã dùng Lý Toét
như một phương tiện lợi hại chống Pháp. Cho nên có thể nói: Lý Toét đã góp phần
vào việc Phong Hóa bị mất giấy phép, Nguyễn Gia Trí và Hoàng Đạo bị tra tấn khi
bị bắt.
Lý
Toét cũng là bài viết cuối cùng của Hoàng Tích Chu trên Phong Hóa và của Nhất
Linh trên Ngày Nay.
Lịch
sử Lý Toét gắn liền với cuộc cách mạng chữ, cách mạng tranh, và cách mạng súng,
của Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Đạo, và cái chết quá sớm của
Thạch Lam.
(Còn
tiếp)
Thụy
Khuê
thuykhue.free.fr
[1]
Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, quyển 3, Đại Nam
chụp in lại tại Hoa Kỳ, trang 446.
[2]
Xem chương 5: Sự thành lập Tự Lực văn đoàn.
[3]
Xem chương 6- Đổi mới ngôn ngữ và tư tưởng.
[4]
Nhất Linh trong bài Lịch sử Lý Toét, Ba Ếch và Xã Xệ, Ngày Nay số 198
(3-2-40).
[5]
Xem chương: Tự Lực văn đoàn có những ai?
[6]
Papa tòa báo của Trần Khánh Triệu, in trong Nhất Linh, người nghệ sĩ,
người chiến sĩ, trang 162-163.
Nguồn: Văn Việt