Suốt hai
tháng nay, cả Sài Gòn cũng như toàn quốc đang thực hiện cách ly trong chiến
dịch phòng chống dịch Covina đang hoành hành khắp thế giới. Mọi sinh hoạt hằng
ngày trong gia đình tôi đều thay đổi.
Trước đó
trong bữa cơm chiều, Hà đứa con gái đầu tôi nhắc lại: Theo lời tiên tri của ai
đó mà cả Sài Gòn đều lo sợ, chuẩn bị lương thực cho những ngày thành phố sẽ
chìm trong cơn đại hồng thủy sẽ tiêu diệt nhân loại. Các con đều hối thúc vợ
tôi mua cho nhiều nhu yếu phẩm. Riêng tôi vẫn ung dung bên tách cà phê, nhìn
khói thuốc đang lảng vảng trước mặt, hình ảnh thị xã nhỏ nơi gia đình tôi đã
sinh sống, lúc bấy giờ trước tháng 4 năm 1975, chiến sự làm dân chúng hoang
mang, mọi gia đình lo tàng trữ lương thực. Riêng tôi không nghĩ tới. Lê Văn
Ngăn người bạn văn chương đã trú ngụ ở nhà tôi cả tháng trường lại mang về một
bao khoai mì lát khô như góp phần lánh nạn.
Gần 50 năm
qua rồi thời chiến tranh. Giới nghiêm. Còi hụ báo động. Súng nổ rền tai. Bây
giờ. Thời bình. Giới nghiêm thành cách ly. Không có tiếng súng nhưng người chết
như rạ. Không trừ một biên giới quốc gia. Mọi sinh hoạt đều ngưng trệ.
Sài Gòn vừa
được bãi bỏ lệnh cách ly. Tôi mừng như trứng nước, liền gọi cho vô chồng An –
Lệ và Hữu hẹn đến uống cà phê tại quán Cái Chùa trong xóm nhà tôi. Hơn hai
tháng vắng mặt nhau giờ tôi ngồi trầm ngâm nghe những người bạn thao thao kể
chuyện. Không như mọi lần bàn tính về Tập san Quán Văn số tới hoặc những chuyến
cả đoàn chuẩn bị đi xa. Lần này cả ba người kể cho tôi nghe vô vàn chuyện lạ
đời về những nhân vật kỳ bí vừa xuất hiện từ những hang cùng ngõ hẹp trên đất
nước này. Hầu hết những nhân vật ấy xuất thân là những người có một đời sống
trước kia khó khăn, hay một số mắc bệnh ngặt nghèo, có kẻ bị tật nguyền từ thuở
nhỏ hoặc bị tai nạn làm mất đi một phần thân thể. Có người lại mắc bệnh tâm
thần nhẹ. Tất cả họ cùng nhau dù mỗi việc làm giúp người, cách biệt khác nhau.
Có người bỏ cả sự nghiệp kinh doanh giàu có lên núi vào rừng tìm cây thuốc nam
về lập nhà thương để cứu người nghèo khổ mà không nhận thù lao. Có người mà
hàng xóm gắn biệt danh Ba Khùng vì ông ta đôi lúc không bình thường lại tìm
những kẻ bị tâm thần quay quần vui đùa ca hát. Cùng nắm tay nhau cất giọng ca
khàn ngọng nghịu Từ bắc vô nam nối lại…
Gương măt
người kể chuyện thay đổi theo từng biến chuyển từ những sự kiện mà những nhân
vật này xử thế. Khi vui thì nở nụ cười. Chuyện buồn đôi mắt ứa lệ. Chuyện bí
hiểm thì lắc đầu. Tôi như kẻ bị thôi miên. Ngồi nghe Hữu kể mà tôi như một con
mồi bị mắc màng nhện. Cứng đơ. Lệ như nhận ra tôi đang lạc vào một cõi nào đó
nên vỗ vào vai tôi. Hình như tôi đang tìm kiếm một khuôn mặt nào đó một trong
những nhân vật mà Hữu đang kể.
Chuyện xảy
ra ở bên kia quả địa cầu. Nước Mỹ. Chẳng xa lạ gì với tôi. Đó là gia đình chỉ
có hai mẹ con sống trong một ngôi nhà khang trang bề thế. Người mẹ xưa kia, với
tôi, một mối tình đầu đã vỡ tan. Sau hơn ba mươi năm qua chúng tôi gặp lại nhau
tại Sài Gòn. Tiếp đó tôi qua Mỹ đến thăm nàng. Bấy giờ chúng tôi đã thành những
người không còn trẻ, vết nhăn đã hiện trên khóe mắt nhưng lòng vẫn xúc động khi
ngồi bên nhau, trên bàn món ăn là những món cơm chay. Tôi không lạ gì, nàng từ
thuở thanh xuân ở quê nhà đã từng ở trọ trong một ngôi chùa nhỏ, không phải là
ni cô nhưng lại ăn chay trường. Người tôi chú tâm là chàng thanh niên sống với
mẹ, ăn chay trường nhưng không phải là người tu hành.
Lần đầu gặp
tôi tại Sài Gòn trong một lần dẫn nhau dạo phố, nàng kể cho tôi về đứa con trai
đầu tên Huy. Tôi có cảm tình ngay, xem như con trai của mình. Huy và mấy em
tiếp theo, mồ côi cha từ năm 1976. Cha Huy chết trong trại cải tạo bởi cơn sốt
rét rừng. Trước kia ông là một sĩ quan võ bị đã từng xông pha nơi chiến trường.
Như mọi gia đình cùng cảnh ngộ mẹ con Huy sống lao đao vất vưởng, người đàn bà
trẻ tuổi thành kẻ góa bụa thay chồng nuôi cả bày con thơ dại. Những năm 1980
Huy được mẹ vơ vét bao nhiêu tiền của để đưa cậu bé vượt biên sang Mỹ.
Thời đó vượt
biển được quy vào tội phản quốc. Và những gia đình có thân nhân dính vào quân
đội hoặc công chức của chế độ miền Nam cộng hòa đều mang mặc cảm của người thua
cuộc. Họ còn bị phân biệt lý lịch, ngay cả con cái họ gặp khó khăn trong việc
học hành. Mẹ Huy hy sinh đời mình để Huy có một tương lai sáng sủa hơn. Bà
không muốn con mình sống trong cảnh hận thù.
Ngày Huy rời
gia đình để đến một nơi vùng biển với một gia đình tổ chức vượt biển, người mẹ
chỉ ôm con vào lòng. Những ngày sau đó người mẹ chỉ biết cầu nguyện Trời phù hộ
cho con mình được bình an, vượt qua sóng gió bão táp của đại dương bao la. Đến
được một vùng đất tự do. Người mẹ cứ đợi tin vui từng ngày. Mỏi mòn. Thời đó
thuyền nhân người Việt lén lút bỏ nước ra đi, tin buồn nhiều hơn tin vui. Bỏ
xác dưới đại dương làm mồi cho cá mập. Hằng đêm Mẹ Huy đọc kinh cầu nguyện vì
cả năm rồi vẫn bặt tin con. Người mẹ mở nở một nụ cười khi nhận được thư người
bảo trợ cho con mình sống trên đất Mỹ.
Hai mẹ con
Huy sống cách nhau nửa vòng trái đất. Tưởng rằng suốt đời họ sẽ xa nhau. Cuối
cùng mẹ Huy cùng các em cũng được qua Mỹ dù đã mười hai năm sau hai mẹ con mới
gặp lại. Bấy giờ Huy đã trưởng thành. Huy được đào tạo trong môi trường giáo
dục nhân bản. Sau này Huy trở thành một bác sĩ. Huy lập gia đình với một người
con gái phương Tây. Người mẹ về sống cùng một mái nhà vơi vợ chồng Huy.
Những lần
tôi qua Mỹ đến thăm chỉ thấy hai mẹ con hỏi ra mới biết Huy đã ly vợ rồi, cô
nàng đã về nước Pháp. Khi Huy biết mẹ mình và tôi đã từng có một thời gian yêu
nhau thắm thiết nhưng duyên không thành, rồi mỗi người đều có gia đình khác,
một hạnh phúc khác. Phần tôi đã yên bề gia thất. Còn mẹ Huy từ ngày chồng chết
vẫn chưa tái giá dù nàng có nhiều người đàn ông khác theo đuổi. Chúng tôi gặp
lại nhau đã hai mươi năm rồi tình cảm đối với nhau vẫn trong sáng như thời mới
yêu nhau. Hạnh phúc riêng của người này là niềm vui của người kia. Giữa vợ tôi
và mẹ Huy xem nhau như hai người bạn thân tình. Các con tôi rất thương mến mẹ
Huy. Ngược lại tôi xem Huy như con trai mình. Tôi yên tâm cuối đời vẫn thấy
được người xưa an cư nơi xứ lạ quê người. Tôi thường theo dõi đời sống nàng.
Từ San José
Phan gọi điện báo cho tôi biết Huy đã bán ngôi nhà, lấy tiền về Việt Nam. Tôi
đâm hoảng không biết lý do và lo lắng vô cùng những ngày sắp tới mẹ Huy sống ra
sao. Tôi giận Huy vô cùng. Tôi hình dung trong trí tưởng đôi mắt nàng ngấn lệ
nuốt nỗi sầu đau đớn trước sự việc quá bất ngờ này.
Tuần lễ sau,
Lữ gọi điện mời tôi đến dự buổi cơm chay đãi mẹ con Huy mới về Việt Nam. Tôi từ
chối. Tôi không đủ can đảm để chứng kiến sự việc kỳ lạ này. Nỗi đau của người
yêu xưa hay sự thất vọng về lối hành xử của đứa con trai mà bà đã hết lòng
thương yêu đã làm tôi thất vọng.
Tôi cho Lữ
biết tâm sự này khi Lữ trách tôi là vô tâm. Từ lâu Lữ hiểu tình cảm tôi đối với
nàng tha thiết đến mức độ nào, Lữ tưởng khi báo tin nàng về tôi sẽ đến gặp
ngay. Khi Lữ cho tôi biết anh cũng ngạc nhiên vô cùng trước cuộc chia tay giữa
hai mẹ con này trên mảnh đất Việt Nam. Người Mẹ luôn nở nụ cười rạng rỡ như
đang hãnh diện về sự trở về quê cha đất tổ của con mình. Còn Huy ung dung,
thảnh thơi như đang đi trên con đường hạnh phúc.
Chính sự
ngược lại điều tôi tưởng đã làm tôi hồi tâm. Tôi tự trách mình hồ đồ. Tôi tìm
đến thì Mẹ Huy đã về Mỹ. Còn Huy, cả Lữ và tôi đều bặt tăm.
*
Có những sự
việc xảy ra trong đời mình, cứ tưởng nó sẽ qua đi và mất hút trong trí nhớ.
Bỗng nhiên từ một sự kiện khác làm bùng dậy, nối kết nhau xáo trộn thời gian
thành một chuỗi hình ảnh liên tiếp như một cuộn phim. Nụ cười như mãn nguyện
của nàng đã làm tôi nhớ lại, từ những năm trước khi hai chúng tôi ngồi bên
nhau, tâm sự với nhau về những người thân yêu của gia đình mình. Nàng kể cho
tôi nghe về sự kỳ diệu lạ lùng đã cứu sống Huy trong chuyến vượt biển.
Biển cả mênh
mông. Tưởng rằng mình sẽ được đi trên con tàu lớn như người tổ chức hứa hẹn
tương xứng với lệ phí mỗi người cả mười cây vàng. Ai ngờ chỉ là tàu đánh cá cũ kỹ
nhưng tiến thoái lưỡng nan. Thôi đành theo mệnh trời. Sinh mệnh của mấy mươi
người nằm la liệt vì say sóng, nhưng rồi cũng gắng gượng được trở lại bình
thường sau khi uống vài viên thuốc mà người lái tàu dự phòng mang theo.
Tưởng rằng
chỉ khoảng vài tiếng đồng hồ thuyền ra khơi sẽ đưa những mọi người lên chiếc
tàu lớn đang đợi ở một địa điểm đã định. Nhưng kế hoạch đã vỡ, con tàu biệt
tăm. Chiếc thuyền lại mất phương hướng. Người tài công trước kia là một sĩ quan
hải quân chỉ phụ tá cho một thuyền trưởng của một hạm đỉnh. Vợ con anh đã di
tản qua Mỹ trên chiến hạm của đơn vị anh trước ngày 30 tháng tư. Bây giờ, bằng
mọi thách thức anh phải đưa con tàu nhỏ bé này vượt biển đến bất kỳ một đất
nước nào,
Ngoài dự
tính, con tàu đã hết nhiên liệu. Thức ăn mọi người mang theo thường là lương
khô và nước ngọt cũng đã cạn kiệt. Sức khỏe nhất là đối với lũ trẻ cũng bắt đầu
suy yếu, chúng không chịu nổi gió biển gào thét và những cơn mưa bất chợt rét
lạnh.
Tai ương ập
đến. Ban đầu là cái chết của một cô bé gái lên mười tuổi mang cơn bệnh tim bẩm
sinh. Người thiếu phụ ôm xác con vào lòng. Tóc rối bù. Đôi mắt thất thần. Miệng
lẩm bẩm hát ru, những lời rối bù. Huy không quên được hình ảnh đau thương ấy
mỗi lần Huy kể lại cho mẹ nghe. Hình ảnh kinh hoàng nhất là cảnh vất xác con bé
xuống biển như vất một hòn đá vô tri. Hai người đàn ông nắm lấy hai cánh tay và
hai bàn chân bé nhỏ, đua đưa miệng hô to một hai ba, xác con bé tung lên
và quăng xa rồi rớt xuống biển, một tiếng
động vang lên, một bọt nước trắng xóa văng lên. Hình ảnh này cứ ám ảnh mãi tâm
hồn Huy Đứa bé gái đó là cô bạn thân cùng hàng xóm, chúng thường chơi trò quăng
những hòn đá nhỏ xíu lên mặt nước của một con suối. Tiếng trẻ thơ cùng reo lên
một hai ba để khởi động cuộc chơi. Ở xứ người, mỗi lần nghe bọn trẻ con trong
trường học hô to một hai ba bằng tiếng Anh cũng làm tim Huy đập mạnh như muốn
vỡ tan. Có phải vì cô bé đó không chịu nổi phong sương bảo táp bởi cơn bệnh
tim, trước khi lìa đời Huy đã ôm chặt lấy cô bé mà sau này lớn lên Huy quyết tâm
vào học ngành y.
Con tàu nhỏ
này lênh đênh trên lòng biển cả bao la, mất cả phương hướng. Nhiên liệu tiêu
sạch. Lương thực và nước ngọt mang theo cũng hết. Sức lực thuyền nhân đã cạn
kiệt chỉ chờ cái chết đến như đứa bé gái trước đó, bỗng có tiếng của người lái
tàu báo hiệu phía xa một chiếc tàu đang tiến gần, mọi người bừng dậy, nhưng chỉ
một phút chốc họ đâm hoảng sợ nhất là đám phụ nữ khi con tàu mang cái cờ màu
đen có cái sọ người vừa sáp vào mạn thuyền. Bọn hải tặc, mặt mày đen đúa, mình
trần trụi, giơ bộ ngực xâm hình con hổ, tay lăm le khẩu súng ngắn. Một tên đầu
đảng cầm súng đưa lên trời bắn giương oai. Người đàn bà vừa mất con cũng là cô
ruột của Huy còn chưa qua cơn đau khổ sợ hãi ôm chặt lấy Huy khi tên đó tiến
đến với vẻ mặt hung tợn. Hắn nhe hàm răng trắng có viền vàng. Hai bàn tay thô
bạo nắm lấy đôi vai mảnh khảnh đang run rẩy ra khỏi người Huy. Thằng bé sợ hãi,
nhưng vừa nhớ đến lời mẹ dạy. Huy đưa bàn tay bé bỏng nắm chặt tượng Phật Bà
Quan Âm. Huy nguyện cầu. Như lời Mẹ dặn.
Ngày đó, trước
khi giao con cho người bảo hộ, Hiền chỉ bỏ vào túi áo con một tượng Phật Bà
Quan Âm bằng sứ nhỏ xíu được gói trong một trang giấy học trò. Nàng ôm con vào
lòng mà nói nhỏ dặn con khi nào gặp nạn con hãy nắm thật chặt bức tượng nhỏ
trong lòng bàn tay. Tượng Phật Bà làm bằng cẩm thạch nhỏ nhắn xỏ vào một sợi
dây chuyền bằng bạc là quà tặng của mẹ Hiền cho đứa con gái, như một bùa hộ
mệnh. Trong những ngày di tản khỏi thị xã nơi gia đình Hiền sinh sống thoát
cảnh chiến trường đẫm máu, cũng như mọi người dân khác bỏ nhà bỏ của kéo nhau
tìm đến một tỉnh lỵ khác còn im tiếng súng. Suốt cả ngày đêm Hiền lẽo đẽo theo
sau dòng người như đàn kiến vượt qua mọi cản trở. Thân gái dặm trường lại dắt
thêm đứa con trai mới 5 tuổi. Cảnh hoảng loạn mọi người xô đẩy nhau khi có một
tràng súng nổ từ phía trước. Đứa con trai buông tay mẹ chìm trong dòng người
kéo đi. Hiền với đôi chân rướm máu nhưng cố lết rồi ngồi dưới một gốc cây bên
vệ đường. Hiền đưa tay lên ngực nắm lấy pho tượng theo như lời dặn của mẹ nàng
mà niệm Phật cầu nguyện phù hộ cho nàng tìm được con. Suốt cả một đêm trong khu
rừng Hiền khi chợt mắt, miệng lâm râm cầu Phật, Gần sáng Hiền thiếp đi một
chập, mở mắt thấy trước mặt thằng con trai đang cười mừng rỡ. Người đàn ông tả
tơi trong bộ đồ trận giao lại đứa bé cho Hiền, dặn dò đôi ba câu, chỉ hướng cho
mẹ con nàng ra khỏi khu rừng mất an ninh này. Hình ảnh người lính này làm Hiền
lo lắng đến số phận của chồng mình đang chiến đấu ở mặt trận Xuân Lộc. Hiền
tiếp tục niệm Phật cầu mong cho chồng giữ toàn mạng sống. Chồng Hiền nhiếu lần
thoát chết ngoài chiến địa. Đại dương bao la và đầy nguy hiểm, Hiên giao tượng
Phật nhỏ này lại cho đứa con như một bùa hộ mệnh.
Chỉ trong tích tắc. Không hiểu sao Huy hét lên
một tiếng kêu ghê rợn. Bọn hải tặc lao nhao nhảy qua tàu chuồn mất. Chính
khoảnh khắc đó người đàn bà từ đâu đến
nhập vào hồn Huy. Chính bà ấy đưa tiếng hét thất thanh của Huy bay xa làm cho
một chiếc tàu lớn đang di chuyển ngoài khơi tìm đến cứu nạn.
Ngày mẹ con
Hiền gặp nhau trên đất Mỹ, Hiền mới nghe con trai mình kể lại chuyến vượt biên
đầy bí hiểm. Nó vượt qua mọi lý trí suy luận. Bấy giờ Huy đã thành một chàng
thanh niên dáng người cao ráo có đôi mắt màu xanh vầng trán rộng đang theo học
ngành y tại trường đại học California. Những lần ngồi bên mẹ Huy thường hỏi mẹ
về Phật Bà Quan Âm, Hiền nói như một ni cô đang thuyết pháp. Thuở còn cắp sách
đến trường Hiền đã từng trú ngụ ở một ngôi chùa nữ trong thị xã, hằng đêm Hiền
nghe kinh cùng tiếng gõ mõ đều đều của những ni cô trước bàn thờ to lớn bệ vệ
bức tượng thếp vàng Phật Bà Quan Âm. Khi hai mẹ con sống cùng chung một mái nhà
việc đầu tiên là Hiền lập một bàn thờ Phật Bà Quan Âm, tìm chưa có tượng Phật
chỉ có một bức tranh vẽ Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa sen, vẻ mặt hiền từ thánh
thiện, trên đầu có vầng hào quang. Khi Huy cho mẹ biết về người đàn bà xuất
hiện trong tâm tưởng của Huy trong lần cứu nạn chiếc tàu qua cơn nguy biến khác
hẳn với hình ảnh Phật Bà Quan Âm. Huy cố gắng diễn tả khuôn mặt dáng người đó
với mẹ mình với giọng nói đầy xúc động. Người đàn bà đó, khoác trên mình một
chiếc áo màu vàng nhũ có đóng dấu hoa văn như trống đồng. Đôi mắt có đuôi. Lông
mày cong và mảnh. Bàn tay năm ngón thon. Toát lên một cảm giác ấm áp khi bà ôm
chặt lấy Huy. Bà vỗ về Huy. Trước khi bà biến mất, bên tai Huy vẫn văng vẳng
tiếng nói trách móc đến một ai đó: Sao ông để con cháu mình bị đày đọa thảm
khốc như thế này, Giận chồng nhưng ta phải cứu con cháu mình.
Giật mình
Hiền lẩm bẩm: Chẳng lẽ là bà Âu Cơ, Huy thắc mắc và nhờ mẹ giải thích. Hiền kể
lại Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ mà thuở bé nàng đã thuộc lòng từ một
cuốn sách sử thời tiểu học.
Tưởng rằng
Huy bị ám ảnh về nỗi kinh hoàng của một chuyến vượt biển thời thơ ấu cùng việc
thoát nạn và được cứu sống đưa Huy qua một đất nước khác một cách bí hiểm mà bao
nhiêu năm Huy không giải thích được. Đã 40 qua bây giờ Huy là đàn ông 50 tuổi,
một bác sĩ về tim mạch nổi tiếng trong một đất nước giàu mạnh nhất thế giới,
bỗng dưng Huy bán hết gia tài, nhà cửa để trở về quê cha đất tổ, Hiền thắc mắc.
Huy hỏi lại: - Mẹ ơi, mình nợ cái gì, của ai thì mình không trả được không.
Người mẹ nói dứt khoát: - Nợ thì phải trả. Bất cứ lúc nào
Huy cầm tay
mẹ: Bây giờ con trả nợ đây.
- Nợ ai
- Nợ bà Âu
Cơ
- Lúc nào
- Bốn mươi năm trước. trong chuyến vượt biển. Con có một lời nguyện.
Người Mẹ,
một người đàn bà đã trên 70 tuổi đưa bàn tay lên vuốt tóc con mình nói nhỏ:
Hạnh phúc cho ai đã làm thực hiện được ước nguyện của mình. Cả hai mẹ con đều
nở một nụ cười thỏa mãn rạng rỡ.
Những ngày
đầu Xuân, trời Sài Gòn lạnh hơn mọi khi, lời chúc mừng đầu tiên cùng lời cám ơn
đến với mọi người, tôi đặc biệt dành cho mẹ con Hiền nhất là Huy.
Chính sự trở
về quê cha đất tổ của Huy đã làm tôi thay đổi lối nhìn về một truyền thuyết mà
từ thuở ấu thơ đến tuổi xế chiều vẫn làm tôi ray rứt. Cái chia tay mỗi người
mỗi ngả, dắt thêm đàn con 50 người. Lạc Long Quân xuống biển. Âu Cơ lên rừng.
Vợ chồng chia lìa. Anh em 100 người chia đôi, quên bẵng mình cùng một bọc trăm
trứng sinh ra. Những cuộc nội chiến xuyên suốt bao nhiêu thời kỳ lịch sử. Những
con sông làm ranh giới chia đôi đất nước. Sông Gianh thời Trịnh – Nguyễn phân
tranh. Sông Bến Hải ngăn cách hai chế độ. Lịch sử cứ lập đi lập lại. Nỗi đau
mất mát triền miên.
Bấy giờ tôi
giật mình mới khám phá ra hình như người viết sử ngày xưa đã bỏ mất đoạn kết về
truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ.
Chỉ sau một
thời gian cả hai người đều dắt đàn con về trên thảo nguyên. Trăm đứa con ôm
nhau sau bao năm xa cách. Chiến tranh không bao giờ trở lại.
Xóa tan hận thù.
NGUYÊN MINH
Ngày đầu năm 2021