Thursday, March 4, 2021

1948. THỤY KHUÊ Tự Lực Văn Đoàn - Văn Học Và Cách Mạng (16)


Số 80 Quan Thánh

Phần I

Quan Thánh hay Quán Thánh?

Trước khi vào bài, chúng tôi muốn trả lời câu hỏi: Quán Thánh hay Quan Thánh?

Tây Hồ, xưa là Lãng Bạc. Lý Thánh Tông (1023-1072) dựng hành cung ở đây, gọi tên là Dâm Đàm, nhà Lê đổi thành Tây Hồ[1].

Trong bài Tụng Tây Hồ phú của Nguyễn Huy Lượng (1750-1808), cựu thần nhà Lê, sau theo Tây Sơn, làm khoảng năm 1800, vịnh cảnh Tây Hồ đồng thời ca tụng công đức nhà Tây Sơn[2], có hai câu, nói đến quán Trấn Vũ và bia [ở chùa] Trấn Quốc, sau đây:

"Đền Mục-lang hương hỏa chẳng rời, tay lưới phép còn ghi công bắt hổ; quán Trấn-vũ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam rùa.

(…)

Toà kim-liên sóng nổi mùi hương, bia Trấn-quốc tưởng in vùng tĩnh phạm; hàng cổ thụ gió rung bóng lộc, tràng Phụng-thiên nhận sẵn thú Nghi Vu.

Dấu Bố-cái rêu in nền miếu, cảnh Bà-Đanh hoa khép cửa chùa".

Phạm Thái (1777-1813) – con Thạch Trung Hầu Phạm Đạt, cựu thần nhà Lê, hai cha con đều cầm quân chống lại nhà Tây Sơn, nhưng thất bại – sáng tác bài Chiến Tụng Tây Hồ phú, nói lên cảnh điêu tàn của Hà thành thời Tây Sơn, đồng thời mắng Nguyễn Huy Lượng là người phản bội, thờ hai chúa. Phạm Thái viết lời dẫn như sau:

"Năm canh thân [1800] mùa hạ, ta đến chơi với bạn ở Tràng An [Hà Nội], nghe bạn ngâm bài "Tụng cảnh Tây-hồ". Hỏi ai làm bài ấy mà hay thế? Bạn rằng: Chương lĩnh hầu Hữu-Hộ-Lượng [Nguyễn Huy Lượng] làm ra. Ta rằng: Chao ôi! Hữu-Hộ-Lượng a! Xưa hắn làm tôi triều Lê, nay ra làm ngụy, lại còn tụng Tây-hồ mà chẳng thẹn mặt, ghét đứa nịnh làm sao! Nhớ xưa có bài thơ "chiến cổ" nay nhân bỉ kẻ làm bài tụng, ta cũng làm bài "chiến tụng" để góp một chút trò cười với đời".

Chiến Tụng Tây Hồ phú của Phạm Thái, có hai câu liên hệ tới đền Trấn-võ (tức Trấn-vũ) và đường Quán Thánh (sau gọi là Quan Thánh, gần đây đổi lại thành Quán Thánh):

"Lưới Mục-lang au nát mất cả giường, gian chẳng bắt nữa hoài công bắt hổ; gươm Trấn-võ chỉ còn trơ những sống, giặc không giam mà có sức giam rùa.

(…)

Ông Đá dãi dầu hình tượng miếu; Bà Đanh vắng ngắt tiếng chuông chùa.

Nhà tranh đua đều khấn bụt cầu ma, đường Quán Thánh khéo lăng nhăng lít nhít; chợ xao xác những buôn hùm bán quỷ, mái Trường-lương nghe lếu láo ỷ o"[3]

Bài phú của Nguyễn Huy Lượng ca tụng cảnh Hà thành nhờ ơn Tây Sơn càng thêm hoa mỹ. Bài phú của Phạm Thái, ngược lại, tả Hà thành điên đảo tàn tạ dưới thời Tây Sơn. Cả hai đều là áng văn chương trác tuyệt, nhưng lời Phạm Thái cay đắng, mỉa mai, thâm trầm hơn lời Nguyễn Huy Lượng.

Ngày nay, vì ý niệm độc tôn vua Quang Trung, trở thành độc tôn Tây Sơn, mặc dù Quang Toản không có công nghiệp gì, người ta ca tụng bài phú của Nguyễn Huy Lượng và chê bai bài phú của Phạm Thái.

Phạm Thái, cũng là nhân vật chính của Khái Hưng trong Tiêu Sơn tráng sĩ.

Theo lời phú của Nguyễn Huy Lượng thì đền Trấn Vũ (hay Trấn Võ) ngày trước là quán Trấn Vũ. Theo lời phú của Phạm Thái, con đường chạy ngang qua quán Trấn Vũ được gọi là đường Quán Thánh.

Và Đại Nam Nhất Thống Chí, ghi rõ quán Trấn Vũ dựng thời nào, thờ ai:

"Quán Chân Vũ: ở phường Thụy Chương, huyện Vĩnh Thuận, thờ Trấn Thiên Chân Vũ Đại Đế dựng đời Lê Vĩnh Trị [Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị, 1678-1680], lại đúc tượng đồng cao 8 thước 2 tấc, chu vi 8 thước 7 tấc, nặng 6.600 cân, rất linh ứng. Nguyên tên là quán Trấn Vũ, bản triều năm Minh Mệnh thứ 2 [1821], vua Bắc tuần, cho 50 lạng bạc, năm thứ 21 [1840] đổi tên hiện nay."[4]

Chân Vũ Đại Đế là vị thần trong huyền thoại Trung Quốc, trấn giữ sao Bắc Cực, còn gọi là Bắc cực tinh quân. Với Việt Nam, Chân Vũ giúp An Dương Vương diệt tinh (quái vật) ở Tây Hồ.

Sau hòa ước Giáp Thân (1884), nước ta chịu sự bảo hộ của nước Pháp, Hà Nội là đất nhượng điạ, nên họ thay đổi tên đương phố thành tên Pháp, bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, và có lẽ trong thời kỳ này, họ đã đổi tên đường Quán Thánh thành Le Grand Bouddha.

Báo Phong Hóa số 123 (9-11-34) quảng cáo: Kể từ 1-11 tòa báo Phong Hóa dọn lại số 80 đường Quan Thánh (80, Avenue du Grand Bouddha). Như vậy, hai tên Pháp-Việt được dùng song song cho tới năm 1934 chăng? Những số báo Phong Hóa kế tiếp vẫn còn đề tên Le Grand Bouddha, phải đến Phong Hóa số 127 (7-12-34), mới chuyển hẳn sang tên Việt: 80 đường Quan Thánh.

Từ đó về sau, trên Phong Hóa Ngày Nay, địa chỉ tờ báo luôn luôn đề: 80 Quan Thánh. Và đối với người Hà Nội, tên đường Quan Thánh vẫn còn giữ đến năm 1954.

Vì thế chúng tôi giữ nguyên cách viết này trên Phong Hoá Ngày Nay.

Sự khó khăn khi tìm tài liệu về Khái Hưng

Thư Trung trong bài Khái Hưng, thân thế và tác phẩm, soạn cho báo Văn số 22 (15-11-64) tưởng niệm Khái Hưng, đã viết: "Tìm hiểu thân thế Khái Hưng là một việc khó. Khó vì tài liệu rất hiếm, sơ sài hoặc khó tin. Khó vì những người sống gần gũi với Khái Hưng hiện nay không có được mấy người, trong số lại có những người, vì lý do này hay nguyên cớ khác, không muốn viết về người đã khuất"[5].

Nhà văn Nguyễn Thạch Kiên (1926-2008) đến Hoa Kỳ cuối năm 1992, theo diện HO, mất ngày 13-12-2008 ở California, là đồng chí và đàn em Khái Hưng, cũng là người sưu tầm và giữ được nhiều tài liệu về Khái Hưng, đã giúp Trần Đình Phong, thực hiện báo Văn số 22, tưởng niệm Khái Hưng. Nguyễn Thạch Kiên cho biết: "Ngay từ năm 1945-1946, và sau ngày toàn quốc khói lửa, tôi vẫn còn được "quản lý "một số tài liệu quý, có cả những bài Khái Hưng viết. Tôi còn được biết thêm là ngay từ hồi đó, Khái Hưng đã dịch xong toàn bộ cuốn "Liêu trai chí dị" của Bồ Tùng Linh và đã cho một thân hữu mượn. Người bạn đó là ai, hiện [1966] còn giữ nguyên bộ "Liêu trai chí dị" của Khái Hưng như lúc văn sĩ cho mượn nữa hay không, tôi xin miễn kể. Câu chuyện đã trở thành riêng tây và đã đi vào quá khứ "im lặng như một nấm mồ" rồi[6]."

Sang Hoa Kỳ 1992. Năm 1997-1998, Nguyễn Thạch Kiên in bộ sách Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, 2 cuốn, Nxb Phượng Hoàng, California[7].

Bộ sách này tập hợp tiểu thuyết đầu tiên Hồn bướm mơ tiên cùng với những truyện ngắn và kịch bản cuối cùng của Khái Hưng đã in trên hai tờ Việt Nam và Chính Nghiã trong hai năm 1945 và 1946, giúp ta biết rõ hoàn cảnh chính trị và nhất là tư tưởng của Khái Hưng trong hai năm cuối đời.

Ngoài ra, Nguyễn Thạch Kiên còn cổ động các đồng chí trong Quốc Dân Đảng, ai còn giữ được kỷ niệm gì về Khái Hưng thì viết ra, vì vậy, bộ sách này hữu ích cho những ai muốn nghiên cứu về con người Khái Hưng, tìm hiểu toàn diện nhà văn, nhà trí thức, nhà cách mạng.

Khi sang California nói chuyện về Tự Lực văn đoàn, năm 2002, chúng tôi được ông trao tặng bộ sách quý này, đến nay đã mười chín năm. Vì hoàn cảnh thiếu thốn tư liệu ở hải ngoại, chúng tôi đã không thể làm gì được, trước khi sưu tập Phong Hóa Ngày Nay được đưa lên thư viện điện tử năm 2012, bốn năm sau khi Nguyễn Thạch Kiên qua đời.

Viết chương sách này chúng tôi không khỏi ngậm ngùi tri ân ông, nhờ sự sưu tầm của ông mà chúng ta có thêm một số tài liệu mới, so với năm 1964, khi báo Văn số 22 ra đời, đặt mốc đầu tiên cho việc nghiên cứu Khái Hưng.

Một câu của Nguyễn Thạch Kiên làm tôi chú ý khi mở đầu tập sách:

"Địa điểm 80 phố Quan Thánh, Hà Nội là một ngôi biệt thự lịch sử không những của nền văn học Việt Nam cận đại (1930-1946) mà còn là trụ sở của các lực lượng cách mạng "vì quốc gia dân tộc Việt Nam" suốt từ đầu thập niên 30 đến cuối năm 1946 nữa[8]."

Câu này bắt buộc người nghiên cứu không chỉ bằng lòng với sự đọc tác phẩm Tự Lực văn đoàn, mà còn phải tìm hiểu cơ sở hoạt động của họ, thì mới có thể hiểu rõ tư tưởng của họ. Và 80 Quan Thánh là cơ sở chính.

Trước khi tìm về 80 Quan Thánh, chúng ta nên trở lại cơ sở đầu tiên của Tự Lực văn đoàn.

Đâu là những cơ sở đầu tiên của Tự Lực văn đoàn? Đó là vấn đề chưa thể biết tường tận. Ở thời điểm này, tôi chỉ xin đưa ra một số giả thuyết.

1 Avenue Carnot (Phố Phan Đình Phùng, tháng 12.2017)
Ảnh Nguyễn Huy Thiệp

Điạ chỉ số 1 Avenue Carnot

Số 1 Boulevard Carnot là địa chỉ chính thức đầu tiên của tòa soạn Phong Hóa trong hơn hai năm từ tháng 6-32 đến tháng 10-34[9].

Số 1 Boulevard Carnot còn là địa chỉ các nhà xuất bản:

Annam xuất bản cục, nhà xuất bản đầu tiên của Tự Lực văn đoàn, ra đời năm 1933, được quảng cáo trên Phong Hóa số 45 (5-5-33)[10].

Một năm rưỡi sau, nhà xuất bản Đời Nay sẽ thay thế cho Annam xuất bản cục, được quảng cáo trên Phong Hóa số 114 (7-9-34)[11].

Vậy số 1 Boulevard Carnot là địa chỉ chính thức của Phong Hóa, của Annam xuất bản cục và nhà xuất bản Đời Nay, trong hơn hai năm, từ 16-6-32 đến 19-10-34.

Địa chỉ số 1 Boulevard Carnot sẽ bị bỏ hẳn, khi tòa soạn và trị sự dời về số 80 Avenue du Grand Bouddha (Quan Thánh), kể từ Phong Hóa số 124 (16-11-34).

Số 1 Boulevard Carnot, thực ra, chỉ là địa chỉ gửi thư và ngân phiếu; bởi vì trên Phong Hóa, kể từ số 1, đều ghi: ngân phiếu và thư tín gửi M. Phạm Hữu Ninh, quản lý Phong Hóa Tuần báo, số 1 đường Carnot, Hà Nội.

Tóm lại, số 1 đường Carnot, không phải là nơi làm việc của ban biên tập, vì không thấy ai nói đến nơi này như một tòa soạn thực thụ, mà có thể chỉ là nhà ông Phạm Hữu Ninh.


Vậy ban biên tập làm việc ở đâu?

Điạ chỉ đường Quần Ngựa

Trong tiểu thuyết Những ngày vui, Khái Hưng cho biết hạt nhân đầu của nhóm Tự Động (Tự Lực) gồm có ba người: Nguyễn Văn Duy (Nguyễn Gia Trí), Trần Đình Điển (có thể là nhân vật hư cấu, vì không tìm thấy dấu vết trên báo Phong Hóa) và Đỗ Như Phương (Khái Hưng).

Vẫn theo Những ngày vui, khi Phương (Khái Hưng) lên Hà Nội, thì Duy (Nguyễn Gia Trí) đã thuê sẵn cho Phương một căn nhà có 5 phòng, thuê 40 đồng một tháng. Căn nhà này có thể là hư cấu, và cũng có thể nó tượng trưng căn nhà số 1 Boulevard Carnot.

Tuy nhiên, phải có một nơi đầu tiên Khái Hưng ở, khi bỏ Ninh Giang lên Hà Nội, cuối năm 1930 (trong truyện ngắn Tây xông nhà, in trên báo Việt Nam, số Tết Bính Tuất, 1946, Khái Hưng cho biết ông lên Hà Nội cuối năm 1930). Căn nhà này có thể là căn nhà ở đường Quần Ngựa, Khái Hưng ở trước khi dọn đến 80 Quan Thánh, như lời Trần Khánh Triệu viết: "Còn nhớ trong cuốn sách hồng Bông cúc huyền, viết hồi ba tôi ở Quần Ngựa Hà Nội"[12]. Như vậy trước khi dọn đến 80 Quan Thánh, Khái Hưng đã từng ở đường Quần Ngựa (nay là phố Đốc Ngữ (?)).

Đường Quần Ngựa cũng là nơi, khi Nguyễn Gia Trí được tha từ Vụ Bản trở về năm 1943 đã mở xưởng vẽ. Trần Khánh Triệu viết: "Chú Trí vẫn mải mê với tranh sơn mài trên đường Quần Ngựa"[13].

Nhưng như trên vừa nói: Khái Hưng năm 1930 đã ở đường Quần Ngựa, và Nguyễn Gia Trí năm 1943, cũng ở đường Quần Ngựa, có lẽ chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi.

Địa chỉ gia đình Nhất Linh rất rõ ràng: Cả nhà ở số 9 phố Hàng Bè, nơi bà Nhất Linh có tiệm bán cau (thừa hưởng cửa hàng buôn tạp hoá của mẹ) đến cuối năm 1946. Sau khi tản cư trốn sự truy lùng của Việt Minh; năm 1947, gia đình hồi cư về Hà Nội, ở số 15, Hàng Bè[14].

Tú Mỡ đưa ra địa chỉ ở Ấp Thái Hà, ông viết: "Anh Tam nộp đơn xin Chính phủ cho phép ra tở bào "Tiếng cười" và chuẩn bị bài vở cho số báo ra mắt. Anh thuê một căn nhà nhỏ trong Ấp Thái Hà, lấy nơi tĩnh mịch để làm việc"[15].

Lời Tú Mỡ, như chúng tôi đã nói, có nhiều chỗ sai, riêng câu: "Anh thuê một căn nhà nhỏ trong Ấp Thái Hà, lấy nơi tĩnh mịch để làm việc", không biết thế nào. Bởi vì, Nhất Linh có thói quen thích ở riêng, ông hay thuê nhà hoặc phòng, để làm việc cho yên tĩnh, sau này ở trong Nam cũng vậy. Nhưng căn nhà ở Thái Hà Ấp, nếu có thuê, chắc Nhất Linh chỉ dùng trong thời gian đầu, lúc dự định ra báo Tiếng Cười. Còn khi tòa soạn dọn về Quan Thánh, Trần Khánh Triệu cho biết: Nhất Linh và Hoàng Đạo viết trong phòng khách của tòa báo ở đường Quan Thánh[16].

Địa chỉ số 25, Boulevard Henri d’Orléans (nay là Phùng Hưng)

25 Bd Henri d'Orléans (nay là Phùng Hưng),
tháng 12.2017, ảnh Nguyễn Huy Thiệp

Trên đầu Phong Hóa số 14 (22-9-32) ghi rõ: Toà soạn: 25 Boulevard Henri d’Orléans, Trị sự: 1 Boulevard Carnot.

Địa chỉ 25 Boulevard Henri d’Orléans (nay là Phùng Hưng) ở ngay đầu ngã tư Phùng Hưng-Đường Thành bây giờ. Vậy 25 Boulevard Henri d’Orléanscăn nhà ở phố Đường Thành mà Khái Hưng hay nhắc đến, chắc là một. Và chính là nơi làm việc của ban biên tập Phong Hóa từ số 14, cũng có thể ngay từ số 1. Vì có những dấu hiệu sau đây:

- Trong Những ngày vui, Khái Hưng viết: "Trong khi ấy thì ở phố Đường Thành hẻo lánh, các nhân viên tòa soạn báo Tự Động làm việc để xuất bản số đầu kịp vào ngày đã định" (trang 105).

- Trong truyện ngắn Tôi không ngờ ký tên Bán Than, in trên PH số 7 (28-7-32), Khái Hưng lại viết: "Hồi ấy tôi thuê một cái buồng nhỏ ở phố Henri d’Orléans".

- Thế Lữ cũng ghi: "Lần đầu tiên tôi gặp anh [Tú Mỡ] là ngày tòa soạn còn ở đường Henri d’Orléans, một cái nhà không có vẻ tòa báo một chút nào hết"[17].

- Phố Đường Thành còn được Khái Hưng nhắc đến nhiều lần, trong truyện dài Xiềng Xích sau này, là nơi ông có những người bạn tốt đã cưu mang ông, khi ông trốn mật thám Pháp, năm 1941.

Nhưng địa chỉ 25 Henri d’Orléans chỉ được in trên mặt báo trong 5 tháng.

Đến Phong Hóa số 32 (3-2-33), tòa soạn lại trở về địa chỉ số 1 đường Carnot, và giữ địa chỉ này trong gần hai năm nữa, đến Phong Hóa số 123 (9-11-34).

Kể từ số 124 (16-11-34), mới ghi: Tòa soạn 80 Avenue Grand Bouddha (đường Quan Thánh).

Và đó cũng là địa chỉ cuối cùng của Khái Hưng ở Hà Nội.

Số 80 Quan Thánh, tháng 12.2017, ảnh Nguyễn Huy Thiệp

80 Quan Thánh, qua các giai đoạn đấu tranh

Chúng tôi tạm sơ lược tình hình chính trị rất rắc rối lúc bấy giờ để bạn đọc dễ hiểu hơn:

Nguyễn Tường Tam lập đảng Hưng Việt năm 1938 sau đổi thành Đại Việt Dân Chính. Mật thám Pháp bắt được bản chương trình hành động của đảng này do Nguyễn Tường Tam soạn, họ bắt đầu truy lùng từ năm 1940. Mùa thu 1940, Nhất Linh chia tay với Khái Hưng một đêm bên hồ Tây, trên căn gác nhà Thạch Lam, dưới nhà có Huyền Kiêu, Đinh Hùng. Huyền Kiêu làm bài thơ Tương biệt dạ, tặng hai anh. Khái Hưng vẽ bức tranh Trăng xưa minh họa cho thơ[18]. Từ đó Nhất Linh sống lẩn trốn, rồi chạy thoát sang Trung Hoa.

Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí, bị bắt ngày 16/9/41.

Khái Hưng bị bắt ngày 31/10/1941[19] ở 80 Quan Thánh. Cả ba bị giam ở Vụ Bản tới 1943. Thạch Lam qua đời năm 1942. Năm 1943, được tha về nhưng vẫn bị quản thúc, Khái Hưng tiếp tục điều hành nhà in và nhà xuất bản tại 80 Quan Thánh.

Biệt thự 80 Quan Thánh là nhà của Khái Hưng thuê từ cuối năm 1934 để ở và làm trụ sở Phong Hóa Ngày Nay, nhà xuất bản Đời Nay và nhà in Ngày Nay. Kể từ tháng 4-1945, 80 Quan Thánh trở thành trụ sở của báo Việt Nam, báo Chính Nghĩa và của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Cuộc phân liệt giữa Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Đảng xẩy ra năm 1946, tới nay đã 75 năm, chúng ta đã có đủ khoảng cách thời gian để khảo sát vấn đề một cách khách quan, không hận thù, bè phái.

Nói một cách đầy đủ hơn, số 80 Quan Thánh từng là tòa soạn của 5 tờ báo: tuần báo Phong Hóa từ số 124 (16-11-34), tới số 190 (5-6-36), tuần báo Ngày Nay từ số 1 (30-1-35) số 224 (7-9-40), tuần báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới từ số 1 (5-5-45) đến số 16 (18-8-45), nhật báo Việt Nam, từ số 1 (15-11-45) đến tháng 11-1946, và tuần báo Chính Nghĩa từ số 1 (20-5-46) đến số 28 (16-12- 46). Đồng thời còn là địa chỉ của nhà xuất bản Đời Nay, nhà in Ngày Nay, nhà in Việt Nam, sau cùng là nhà in và nhà xuất bản Quan Thánh.

Khái Hưng là người trách nhiệm Phong Hóa từ số 1 và cũng là người cuối cùng trách nhiệm tờ Chính Nghĩa, sau khi các bạn đồng hành đã xa biệt. Trên tờ Chính Nghĩa, hầu như chỉ một mình Khái Hưng viết, cũng như Phong Hóa lúc đầu. Chính Nghiã là giai đoạn văn học tranh đấu cuối cùng của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

80 Quan Thánh, báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trả lại chính quyền cho Việt Nam, vua Bảo Đại lập chính phủ Trần Trọng Kim.

Ngày 20-3-45, báo Bình Minh, cơ quan của Đại Việt Tân Thanh Niên ra đời, do Nguyễn Giang (con Nguyễn Văn Vĩnh) làm chủ nhiệm, Khái Hưng, chủ bút, đăng những thông tin của báo Domei (Nhật)[20].

Ngày 5-5-1945, báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới, số 1 ra đời ở 80 Quan Thánh, với Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Đạo; Nguyễn Tường Bách làm giám đốc và Nguyễn Trọng Trạc, thuộc đảng Xã Hội [chủ trương ôn hòa] coi việc trị sự.

Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới cực lực ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, chào đón nền độc lập mới, kể tội thực dân, không chống Việt Minh. Tờ báo có thêm cộng tác viên mới không ở trong Tự Lực văn đoàn như Vũ Đình Liên, Vũ Ngọc Phan và Tú Mỡ cũng trở lại.

Cuối tháng 7-1945, Hoàng Đạo bị bệnh thương hàn phải nằm bệnh viện, nên chỉ còn Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách phụ trách tờ báo.

Trong những ngày tháng tiếp theo, nhiều sự kiện lịch sử quan trọng dồn dập xẩy ra:

Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng.

Ngày 16-8-1945, Nội các Trần Trọng Kim từ chức.

Ngày 18-8-1945, Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới ra số 16, rồi tự đình bản sau ngày Việt Minh lên nắm chính quyền.

Ngày 19-8-1945, Việt Minh lên nắm chính quyền.

Ngày 25-8-1945, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị.

Ngày 2-9-1945, Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời.

Nguyễn Tường Bách viết:

"15-8-1945. Với trang sử mới đã lật, thời kỳ làm báo, làm văn từ 20 năm nay [thực ra là 13 năm] đã coi như kết thúc, với sự đình bản tự nguyện trước thời thế của tờ Ngày Nay vào hôm sau"[21].

80 Quan Thánh, nhật báo Việt Nam

Nguyễn Tường Bách viết:

"Bị dồn vào thế thụ động, các đảng phái quốc gia phải tạm rút lui vào bí mật trừ tại một số địa phương. Tuy vậy, để duy trì tiếng nói của mình trước dân chúng, chúng tôi xuất bản một tờ báo hàng ngày, Việt Nam thời báo. Vẫn do tôi và Khái Hưng chủ trách, trong lúc anh Hoàng Đạo đương phải điều trị bệnh thương hàn"[22].

Ngày 15-11-1945, nhật báo Việt Nam ra đời, do Khái Hưng và Nguyễn Tường Bách phụ trách bài vở, Nguyễn Trọng Trạc làm Giám đốc. Việt Nam số 1 có vẻ ôn hòa. Kể từ số 3 (17-11-45) bắt đầu đả kích Việt Minh. Nguyễn Tường Bách giải thích:

"Chúng tôi liền thực hành ngay một hành động rất cách mạng là tiếp thu ngay tờ báo Việt Nam mà không cho Nguyễn Trọng Trạc [ở trong đảng Xã Hội, ôn hòa hơn] biết, đổi làm cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đó là tờ báo công khai đầu tiên của phe quốc gia (…) Chủ trương chính của tờ báo cũng là độc lập tự do, chống đế quốc, nhưng lại phê bình chính sách của chính phủ. Tất nhiên trên mặt báo có nhiều bài đấu khẩu với những tờ Cờ Giải phóng và Độc Lập hồi ấy, không kém phần kịch liệt."[23]

Hồng Giang, một thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng viết: "Nhà văn cách mạng Khái Hưng cùng gia đình ở ngay tại tòa báo làm việc không kể ngày đêm. Có những ngày ông gần như một mình bao dàn cả tờ báo 4 trang, không lấy quảng cáo, một đêm chỉ ngủ vài tiếng đồng hồ (…) Hầu hết các bài xã luận trên báo Việt Nam đều do Khái Hưng viết nhưng không ký tên."[24]

Nguyễn Tường Tam về nước tháng 11-1945, cùng với các lãnh đạo đảng phái quốc gia lưu vong bên Tầu như Nguyễn Hải Thần, theo quân đội Tưởng Giới Thạch (quân Đồng minh) về Việt Nam giải giới quân Nhật đã đầu hàng.

Báo Việt Nam chính thức công bố việc Nguyễn Tường Tam về nước trên số 53 (16-1-1946).

Hồ Chí Minh chủ trương liên hiệp các đảng phái.

Nguyễn Tường Tam tham dự chính phủ Liên Hiệp ngày 2-3-1946, cầm đầu phái đoàn Việt Nam dự hội nghị Đà Lạt (18-4-1946 đến 11-5-1946). Hội nghị Đà Lạt thất bại, ông trở lại Vân Nam tháng 6-1946.

Đầu tháng 5-1946, quân đội Trung Hoa bắt đầu rút lui. Từ tháng 6-1946, tình hình giữa Việt Minh và các đảng phái quốc gia căng thẳng. Sau khi quân Tưởng Giới Thạch rút hết, nội chiến đã xảy ra.

Ngày 20-5-1946, Khái Hưng cho ra tuần báo Chính Nghĩa (song song với nhật báo Việt Nam). Chính Nghĩa ra được 28 số, nội dung pha trộn chính luận và văn chương, có những bài viết về các chủ nghiã chính trị, đả kích chủ nghiã cộng sản, có những bài viết về lịch sử Việt Nam Quốc Dân Đảng, về những anh hùng trong VNQDĐ, về vụ Pháp nem bom Cổ Am… cùng với truyện ngắn và kịch, đó là những sáng tác cuối cùng của Khái Hưng.

Việt Minh bao vây tòa báo Việt Nam, Phan Khôi bị bắt ở 80 Quan Thánh

Theo Nguyễn Công Hoan, tháng 6-1946, trong một buổi mít-tinh ở Quảng Nam, Phan Khôi lên diễn đàn đả kích hiệp định sơ bộ 6-3-1946. Ông được bầu làm chủ chiệm chi bộ Quốc Dân Đảng ở Quảng Ngãi. Theo Hoàng Văn Chí, Phan Khôi cực lực phản đối việc cán bộ địa phương định phá nhà thờ Hoàng Diệu, và định bắt ông. Phan Khôi viết thư cho Huỳnh Thúc Kháng, lúc đó đang làm Bộ trưởng Nội vụ trong chính phủ, đòi can thiệp. Hồ Chí Minh giải quyết khéo léo, viết thư mời Phan Khôi ra Hà Nội và giao cho Phan Bôi (em họ Phan Khôi, lúc đó đang làm Thứ trưởng Nội vụ) quản lý. Nhưng Phan Khôi không chịu ở nhà Phan Bôi mà đến ở nhà Khái Hưng, 80 Quan Thánh.

Đêm 12-7-1946, công an bao vây 80 Quan Thánh, Phan Khôi bị bắt và bị đưa lên Việt Bắc[25].

Việc công an bao vây tòa soạn báo Việt Nam, Trần Khánh Triệu chỉ viết vắn tắt, có lẽ vì tối hôm đó ông ở nhà mẹ đẻ:

"Hội nghị Đà Lạt tan vỡ, "Cậu Hàng Bè" [Nhất Linh] từ chức bộ trưởng rồi sang Tàu lần nữa. Các trụ sở Việt Quốc lần lượt bị tảo thanh. Công an xung phong đột nhập tòa báo lục soát, bắt bớ. Các đảng viên cao cấp như bác Hể, bác Đoá, Trí, Dị… bị đem đi biệt tích. Tờ Việt Nam đình bản… Toà báo ngoài Papa, chỉ còn lèo tèo vài đồng chí lai vãng: anh Bảng, Kính, anh Cống, bác Thắng…"[26]

Nhưng nhà văn Huy Quang Vũ Đức Vinh[27], trong bài "Từ vụ tấn công báo Việt Nam 1946, Nhớ về nhà văn Khái Hưng[28] đã mô tả chi tiết sự việc này. Lúc ấy Vũ Đức Vinh và Trần Đại Việt (sau này trở thành nhà thơ Thanh Nam), mới 15 tuổi, đang học lớp Quốc Gia Thanh Niên Đoàn của Quốc Dân Đảng do cụ Hể [Phạm Văn Hể, Giám đốc trường Cán bộ Quốc Dân Đảng] dạy ở 80 Quan Thánh. Huy Quang Vũ Đức Vinh kể lại chuyện từ đầu đến cuối. Trong bài viết của ông, không có chuyện "hai bên nổ súng bắn nhau" như những chỗ khác thuật lại, kể cả Hoàng Văn Đào. Những lời của Huy Quang Vũ Đức Vinh có lẽ thành thật, đúng đắn hơn cả. Bài viết dài, tôi chỉ xin trích dẫn vài đoạn:

"Chiều hôm đó, sau lớp học thường lệ của cụ Hệ [Hể]. Việt [Thanh Nam] và tôi rủ nhau xuống nhà chữ [nhà in] xem mọi người làm việc. Chúng tôi thích thú theo dõi mấy người thợ xếp chữ lành nghề thoăn thoắt nhặt từng chữ đúc chì trong hộp chữ đưa lên chiếc khuôn gỗ hình chữ nhật cầm trên tay (…) Khi chúng tôi tính ra về thì trời đã xẩm tối. Ngay lúc đó chợt có nhiều tiếng chân người dầm dập từ phiá cổng lớn bên đường Hàng Bún chạy vào, rồi cả từ phía cổng nhỏ đường Quan Thánh nữa. Tiếp theo là tiếng chân chạy lên phía cầu thang, và liền sau đó thì tôi thấy các công an xung phong tiến vào nhà chữ, người nào cũng cầm súng trên tay chiã về phía trước. Có tiếng ra lệnh cho người trong nhà chữ đứng yên tại chỗ và giơ tay lên khỏi đầu. Việt và tôi đứng gần bên nhau. Chúng tôi làm theo lệnh đó như mọi người khác. Khoảng một tiểu đội công an xung phong xâm nhập nhà chữ. Họ bố trí đứng chặn ở cửa chính và các cửa sổ. Các nhân viên trong nhà chữ lúc đó khoảng hơn mười người đều ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì xẩy ra. Một lúc sau thì toán công an khác áp giải những người của tòa báo từ trên gác xuống, trong số đó có mấy nhân viên tòa soạn và cả vợ chồng ông Khái Hưng. Tất cả đều phải giơ tay cao và đi trước mũi súng của công an. Trong số những người từ trên gác đi xuống tôi còn thấy một người khách lạ, mặc âu phục trắng, đeo cà-vạt đen. Người này khoảng gần 60 tuổi, vóc dáng cao gầy vẻ mặt quắc thước và để râu dài chấm ngực. Vị khách lạ đi vào rồi dừng lại bên dàn hộp chữ cao ở phiá bên trái, còn ông bà Khái Hưng đứng sang phía bên phải gần chỗ đặt bàn dao cắt giấy. Tổng số người bị dồn vào nhà chữ lên khoảng gần 20 người. Tất cả đều im lặng. (…) Chợt vị khách lạ lên tiếng nói với nhóm công an là cụ giơ tay đã lâu thấy mỏi và muốn biết cụ có thể bỏ tay xuống được không? Không ai trả lời, nhưng một nhân viên công an đứng gần cụ bỏ ra ngoài, rồi mấy phút sau viên chỉ huy toán công an bước vào. Hắn là một thanh nhiên tuổi trạc 30, thân hình rắn chắc khoẻ mạnh, nét mặt sáng sủa thuộc thành phần có học. Hắn nói với vị khách lạ:

- Thưa thày Phan Khôi. Con là học trò của thày. Xin thày bỏ tay xuống. Nhưng sao thày lại ở trong tòa báo này.

Tôi ngạc nhiên một cách thích thú khi biết vị khách lạ là cụ Phan Khôi, tác giả bài thơ "Tình già" mà tôi mới được đọc cách đó ít lâu. Cụ Phan Khôi từ từ buông tay xuống rồi đáp:

- Tôi mới ở Trung Bộ ra Hà Nội và hôm nay đến thăm ông Khái Hưng, bạn của tôi. Chẳng may tôi bị đau bụng diarrhée, nên ông bạn tôi mời ở lại. Ở đây có nhà xí tốt.

Câu đáp khiến người nghe có thể cười, nhưng lúc đó trước mũi súng chẳng ai cười, ngoại trừ ông Khái Hưng. Ông mỉm cười nhẹ nhàng, gật đầu xác nhận lời nói của cụ Phan Khôi, rồi yêu cầu viên chỉ huy công an cho mọi người bỏ tay xuống với lý do không ai có vũ khí. Nhưng viên chỉ huy này chỉ đồng ý để thêm bà Khái Hưng được buông tay mà thôi. Ông Khái Hưng nhìn sang bà vợ ra hiệu chấp nhận điều đó và bà Khái Hưng bỏ tay xuống. Bà giữ một nét mặt bình thản, đĩnh đạc nhìn thẳng phía trước. Bà vấn tóc trần và mặc chiếc áo dài mầu mỡ gà như thường ngày tôi vẫn gặp. Hình như chỗ ở luôn luôn có nhiều người qua lại nên lúc nào bà cũng mặc áo dài. Bà vóc người mảnh mai, vẻ thanh tú khuê các, chắc cũng xấp xỉ tuổi 50 nhưng khuôn mặt còn phảng phất những nét đài trang của một thời xuân sắc (…)

Tất cả nhân viên tòa báo Việt Nam bị bắt giữ ngày hôm đó được đưa lên hai chiếc xe loại vận tải kín bưng chờ sẵn ở phiá cổng sau tòa báo (…) Xe chạy từ tòa báo về ty công an trên đường Trần Hưng Đạo (tức phố Gambetta cũ). Tại đây xe chạy qua hai chiếc cổng sắt lớn vào khu nhà giam rộng lớn phía sau. Một số nhân viên công an đã chờ sẵn và đưa giải chúng tôi từng người vào nhà giam. Riêng bà Khái Hưng được tách ra đưa về một khu khác mà sau này tôi được biết là khu dành cho phụ nữ. Tôi nhìn theo cụ Phan Khôi và ông Khái Hưng, thấy hai người được đưa vào hai phòng giam khác nhau".

Ngày hôm sau, tất cả phải trả lời thẩm vấn, rồi trở về phòng giam thêm một đêm nữa trừ cụ Phan Khôi và những người làm trong nhà chữ, đã được về. Khoảng 2, 3 giờ chiều hôm sau thì tất cả được lên xe chở về tòa soạn:

"Ông Khái Hưng đẩy cánh cổng mở rộng và tất cả chúng tôi đi thẳng vào nhà chữ. Một cảnh tượng đồ đạc bề bộn ngổn ngang phơi bầy trước mắt chúng tôi. Các hộp chữ bị kéo đổ tung toé. Giấy báo bị rỡ tung. Các ngăn kéo đều bị rút ra khỏi bàn. Nhiều chiếc ghế bị đạp đổ hoặc xô nghiêng. Có những bộ phận máy in bị gỡ xuống sàn nhà (…)

Lên đến trên gác, chúng tôi chia làm ba nhóm. Bà Khái Hưng đi thẳng vào căn phòng [của ông bà] phía cuối. Ông Khái Hưng cùng mấy vị thuộc tòa soạn đi vào căn giữa, không phải để quan sát cảnh hoang tàn bề bộn mà để họp. Việt và tôi đi vào căn phòng phía ngoài [nơi làm lớp học]. Căn phòng này ít đồ đạc nên ít bị lục lọi… Việt và tôi rủ nhau định ra về thì bà Khái Hưng từ phiá cửa phòng cuối vẫy chúng tôi qua. Bà nói giọng nhỏ nhẹ, từ tốn và xưng hô với chúng tôi theo liên hệ tuổi tác, bác và cháu. Đặc biệt bà nhờ chúng tôi cố tìm một chiếc bút máy mầu đen. Chúng tôi tìm khá lâu mà không thấy nên có ý bỏ cuộc. Không phải chỉ có giấy tờ, mà còn nhiều cuốn sách, rồi quần áo, chăn gối và đủ mọi thứ đồ đạc lặt vặt khác ngổn ngang trong phòng. Bà Khái Hưng tiếp tục tìm kiếm và nói cho chúng tôi biết sở dĩ bà muốn tìm kiếm chiếc bút vì đó là tặng vật ngày cưới của ông bà. Khi biết điều này, không bảo nhau Việt và tôi lại cặm cụi tìm kiếm. Một lúc sau ông Khái Hưng từ phòng bên bước qua cũng tham gia cuộc tìm kiếm.

Nhưng liền đó, Việt đã tìm thấy chiếc bút nằm nép sau một chồng sách. Việt vừa giơ chiếc bút lên là bà Khái Hưng nhận ngay ra… bảo vật. Mừng rỡ hiện rõ trên nét mặt, bà nhận chiếc bút trên tay Việt với lời cám ơn vồn vã. Rồi cầm chiếc bút trong lòng bàn tay một cách nâng niu trìu mến bà đưa qua cho ông Khái Hưng. Hai vợ chồng nhìn nhau rõ vẻ âu yếm, và tôi thấy ông Khái Hưng đã nắm bàn tay trong đó có chiếc bút"[29].

Ở đoạn sau, tác giả ghi thêm những nhận xét về Khái Hưng, vẫn giọng nhẹ nhàng, tế nhị:

"Tôi nhớ nhất cái dáng dấp mảnh khảnh nhưng nhanh nhẹn và nét mặt linh hoạt của ông Khái Hưng mỗi khi ông lên xuống cầu thang, đi từ tòa soạn xuống nhà chữ trong căn nhà hai tầng này. Tôi cũng nhớ tiếng cười khanh khách đầy hào sảng của ông. Sau này tôi đã có dịp đọc thêm và đọc lại những tác phẩm của ông, và tôi càng nhận thấy văn phong của ông phản ảnh thật rõ rệt con người của ông, con người với một tâm hồn vui tươi dí dỏm, hóm hỉnh nhưng khúc triết và sâu sắc. Tôi thấy hình ảnh con người đó hiện lên qua nhiều đoạn văn, nhiều mẩu đối thoại, nhiều tình tiết trong các tác phẩm của ông. Tôi còn nhớ cả cái phong cách tự tin điềm đạm của ông, khi bị công an Việt Minh bắt đứng giơ tay trong nhà chữ và lời yêu cầu của ông cho mọi người được buông tay xuống. Tôi thấy ở đó cái bản lĩnh của người lãnh đạo… Tôi cũng không quên được hình ảnh bà Khái Hưng (…). Tôi thích cái hình ảnh bà Khái Hưng tìm kiếm chiếc bút máy kỷ vật ngày cưới trong khung cảnh căn phòng đầy chứng tích của đổ vỡ hoàng tàn, tưởng như đó là báu vật mà không còn gì khác có thể thay thế (…) Tôi tin chắc trong hành trang của ông bà mang theo trên đường tản cư, thế nào cũng có chiếc bút kỷ vật ngày cưới. Hẳn bà đã giữ kỷ vật đó mãi, trong suốt phần đời còn lại"[30].

Sau vụ lục soát và bắt bớ này, theo Hoàng Văn Đào tờ Việt Nam vẫn ra lại như thường, còn Nguyễn Tường Bách và Trần Khánh Triệu cho rằng báo Việt Nam ngừng hẳn. Chúng tôi chỉ có vài số báo Việt Nam (bản điện tử), nên không thể kiểm chứng được. Duy có điều chắc chắn là báo Chính Nghĩa vẫn tiếp tục quảng cáo: Nên đọc báo Việt Nam, cơ quan của Việt Nam Quốc Dân Đảng tới số 27 (9-12-1946) mới ngừng. Và tới số 28 (16-12-1946) là số cuối cùng, Chính Nghiã, bắt đầu quảng cáo cho báo Thời Phong. Báo Thời Phong là con đường mới của Khái Hưng cùng với Phan Khôi, Hồ Hữu Tường, Tô Ngọc Vân, chủ trương bỏ hẳn chính trị để trở lại với văn nghệ thuần túy, kể từ đầu năm 1947, nhưng chưa kịp thi hành.

Quốc Dân Đảng thua trận

Đầu tháng 7-1946, cuộc chiến bắt đầu giữa Việt Minh và Quốc Dân Đảng ở mặt trận Vĩnh Yên, Việt Trì[31]. Chính phủ Liên hiệp cử đoàn đại biểu hỗn hợp hai bên (Nguyễn Tường Long đại diện Quốc Dân Đảng và Tướng Hoàng Văn Thái đại diện Việt Minh) lên giảng hòa. Việc không thành. Quốc Dân Đảng thua trận. Nguyễn Tường Bách -theo Vũ Hồng Khanh chỉ huy quân Quốc Dân Đảng rút lên Yên Bái- kể lại:

"Mấy ngày sau, bỗng có điện từ Hà Nội lên cho biết lực lượng Chính phủ đã bắt đầu khủng bố các vị trí QDĐ ở Hà Nội, Vĩnh Yên. Yên Bái lại bị tấn công riết. Tình thế nguy hiểm mà tất cả các nhóm Việt Cách đã rút đi hết. Rồi có tin anh Tam đã đáp máy bay đi Côn Minh. Bảo Đại cũng đã làm như thế. Thời cục đã xoay đến chỗ phá liệt gay go. Xem ra lực lượng căn cứ mong manh quá khó mà giữ nổi.

Để gia cường việc ngoại giao với Trung Hoa và đồng minh, chúng tôi đồng ý phái anh Long lên ngay Côn Minh, hợp tác với anh Tam để hành động. Với một số anh em hộ vệ anh Long sang Hà Khẩu, đi đường bộ lên Mông Tự vì quãng đường sắt Hà Khẩu-Mông Tự đã bị phá huỷ chưa sửa chữa được, rồi đáp xe hoả đi Côn Minh"[32].

Tình hình càng ngày càng khẩn cấp. Quốc Dân Đảng ở bước đường cùng.

Cuối tháng 7-1946, Nguyễn Tường Bách cùng bẩy bạn đồng hành được lệnh vượt cầu sắt Lào Cai-Hà Khẩu, sang Vân Nam tìm cách cầu viện.

Khái Hưng, một mình, ở lại. Trần Khánh Triệu viết:

"Hè năm 46, Việt Minh mở chiến dịch càn quét các trụ sở Việt Quốc, thì tờ Việt Nam phải hạ bảng, các đảng viên cao cấp lánh sang Trung Hoa, riêng ba tôi [Khái Hưng] thuộc thành phần những người ở lại bí mật phụ trách bộ tuyên huấn của đảng với bí danh Trần Lâm"[33].

Khái Hưng ở lại trong tình thế hết sức nguy hiểm, nhưng ông vẫn tiếp tục làm báo Chính Nghĩa. Tờ báo còn hiện diện đến ngày 16-12-1946, là dấu ấn sau cùng của Khái Hưng, đặc biệt vở kịch Khúc Tiêu Ái Oán, tác phẩm cuối cùng, kết thúc trong số báo chót, như một khúc nhạc tiễn đưa.

Địa chỉ 80 Quan Thánh còn tồn tại tới ngày 19-12-1946, ngày Khái Hưng cùng và gia đình rời Hà Nội tản cư về làng Dịch Diệp, huyện Trực Ninh, quê vợ.

Mấy ngày sau ông bị Việt Minh bắt. Tết Đinh Tỵ (1947) ông được trở về thăm gia đình và sau đó bị đưa đi mất tích"[34].

(Còn tiếp)

Thụy Khuê

thuykhue.free.fr


[1] Đại Nam Nhất Thống Chí, tập III, nxb Thuận Hoá, Huế, 1992, trang 190.

[2] Có chỗ chép bài phú này làm năm 1801 để dâng vua Cảnh Thịnh khi ông chạy ra Bắc, là lầm, bởi Cảnh Thịnh đến tháng 2 năm 1802 mới chạy ra Bắc, mà bài Chiến Tụng Tây Hồ phú của Phạm Thái, "họa" lại bản này làm năm Canh Thân (1800), như lời Phạm Thái ghi.

[3] Chép theo bản Đào Minh Phấn sao lục in trên Nam Phong số 113, Janvier 1927, trang 50-56.

[4] Đại Nam Nhất Thống Chí, tập III, nxb Thuận Hoá, Huế, 1992, trang 219.

[5] Thư Trung, Khái Hưng, thân thế và tác phẩm, Văn số 22 (15-11-1964), Sài Gòn, trang 3.

[6] Nguyễn Thạch Kiên, Lời nói đầu, tập truyện Bóng giai nhân của Khái Hưng in năm 1966 tại Sài Gòn, in lại trong tập Khái Hưng, Kỷ Vật đầu tay và cuối cùng, cuốn hai, Phượng Hoàng, Cali, 1998, trang 552-553.

[7] Cuốn 1: Hồn bướm mơ tiên, có hai phần: phần 1, truyện Hồn Bướm mơ tiên và phần 2, tập hợp bài của nhiều tác giả viết về Khái Hưng. Cuốn 2: Bóng giai nhân, cũng có hai phần: phần 1, là tập truyện ngắn Bóng giai nhân, (đã được Nguyễn Thạch Kiên in lần đầu, giữa năm 1966 tại Sài Gòn dưới tên Lời nguyền) gồm các truyện ngắn: Bóng giai nhân, Lời nguyền, Hổ, Tây xông nhà, Quan công sứ, Nhung, Khói hương, Người anh hùng, Tiếng người xa; và ba vở kịch: Câu chuyện văn chương, Dưới ánh trăng, Khúc tiêu ái oán. Phần 2, gồm bài của nhiều tác giả viết về Khái Hưng. Trong tập Bóng giai nhân do Nguyễn Thạch Kiên in còn thiếu vở kịch Đoàn kết, sau được Viên Linh in trên Khởi Hành số 225-226 (tháng 10 và 11, năm 2015).

[8] Nguyễn Thạch Kiên, Đốt lò hương ấy… in trong Khái Hưng, Kỷ Vật đầu tay và cuối cùng, tập một, Phượng Hoàng, Cali, 1997, trang 10.

[9] Số 1 Boulevard Carnot là địa chỉ tòa soạn và trị sự, được ghi trên báo Phong Hóa từ số 1 (16-6-1932) đến số 13 (8-9-1932). Kể từ số 14 (22-9-1932) đến số 31 (24-1-1933), số Xuân, dưới tên tờ báo, ghi hai địa chỉ: Toà soạn: 25 Boulevard Henri d’Orléans (nay là Phùng Hưng) và Trị sự: 1 Boulevard Carnot (nay là Phan Đình Phùng). Từ số 32 (3-2-1933) đến số 120 (19-10-1934), trở lại địa chỉ duy nhất: Toà soạn: số 1 Boulevard Carnot.

[10] Nguyên văn quảng cáo: "Kể từ ngày 15-4-1933 quyền xuất bản Phong Hóa thuộc về Société annamite d’Edition et de Publicité (Annam xuất bản cục)". Địa chỉ số 1 Avenue Carnot.

[11] Nguyên văn quảng cáo: "Ngày 15-9-1934 bắt đầu bán Đẹp của Nguyễn Cát Tường, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Trần Quang Trân". Đẹp có lẽ là một cuốn sách tranh và cũng là ấn bản đầu tiên của Đời Nay. Đến PH số 118 (5-10-1934) mới ghi địa chỉ nhà xuất bản này ở số 1 Boulevard Carnot.

[12] Ba tôi của Trần Khánh Triệu, Văn số 22 (15-11-1964), số tưởng niệm Khái Hưng.

[13]Papa tòa báo của Trần Khánh Triệu, Thế Kỷ 21, số tưởng niệm Khái Hưng (tháng 12-1997), in lại trong Nhất Linh người nghệ sĩ-người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004.

[14] Theo lời nhà văn Nguyễn Tường Thiết nói với tôi qua điện thoại.

[15] Trong bếp núc Tự Lực văn đoàn, hồi ký của Tú Mỡ, tạp chí Văn Học số 5, 6-1988 và số 1-1989, in lại trong Nhất Linh cây bút cột trụ của Tự Lực Văn Đoàn do Mai Hương tuyển chọn, nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2000. Và trích in trong Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004, trang 109-119.

[16] Papa tòa báo, Trần Khánh Triệu, Thế Kỷ 21, số tưởng niệm Khái Hưng (tháng 12-1997), in lại trong Nhất Linh người nghệ sĩ-người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California 2004, trang 164.

[17] Phóng bút của Lê Ta (Thế Lữ), in trên Phong Hóa số 154 (20-2-1935).

[18] Thơ và tranh được in trong giai phẩm Đời Nay Xuân 1941, in lại trong Văn Hóa Ngày Nay, tập 5, trang 85, và trong Văn số 22 (15-11-1964) tưởng niệm Khái Hưng cùng với bài viết của Đinh Hùng kể lại kỷ niệm này.

[19] Theo François Guillemot, Đại Việt, indépendance et révolution au Việt Nam (Đại Việt, độc lập và cách mạng Việt Nam), Les Indes Savantes, Paris, 2012, trang 87.

[20] Tài liệu của Aki Tanaka gửi cho tôi ngày 3-9-2020.

[21] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, cuốn một, Thạch Ngữ, California, 1998, tái bản lần thứ nhất, 2002, trang 163.

[22] Nguyễn Tường Bách, Tưởng nhớ Khái Hưng (in trong Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, do Nguyễn Thạch Kiên (1926-2008) thực hiện, Quyển 1, Nxb Phượng Hoàng, California, 1997, trang 166.

[23] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, Nhóm nghiên cứu sử địa, Montréal, 1981, trang 78.

[24] Hồng Giang, Nhớ về văn hào Khái Hưng, in trong Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, do Nguyễn Thạch Kiên (1926-2008) thực hiện, Quyển 1, Nxb Phượng Hoàng, California, 1997, trang 469, 470.

[25] Theo Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động của Phan Khôi cho đến thời kỳ toàn quốc kháng chiến, Văn Nghệ số đặc biệt thứ 2 chống Nhân Văn Giai Phẩm, số 12 (5-1958).

[26] Trần Khánh Triệu, Papa nhà báo, in trong Nhất Linh người nghệ sĩ-người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004, trang 170.

[27] Huy Quang Vũ Đức Vinh là người cùng với Nguyễn Văn Giang, chủ trương tờ Đất Mới từ tháng 7-1975, một trong những tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở Mỹ. Tháng 4-1976, có thêm Thanh Nam và Túy Hồng cộng tác.

[28] Từ vụ tấn công báo Việt Nam 1946, Nhớ về nhà văn Khái Hưng của Huy Quang Vũ Đức Vinh, in trong Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, tập 1, do Nguyễn Thạch Kiên sưu tầm và biên soạn, Nxb Phượng Hoàng, California, 1998, trang 315-341.

[29] Huy Quang Vũ Đức Vinh, Từ vụ tấn công báo Việt Nam 1946, Nhớ về nhà văn Khái Hưng, in trong Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, tập 1, do Nguyễn Thạch Kiên sưu tầm và biên soạn, nxb Phượng Hoàng, Cali, 1998, trang 325-336.

[30] Huy Quang Vũ Đức Vinh, sđd, trang 338-341.

[31] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, Nhóm nghiên cứu sử địa, Montréal, 1981, trang 93-94.

[32] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, Nhóm nghiên cứu sử địa, Montréal, 1981, trang 94-99.

[33] Trần Khánh Triệu, Ba tôi, Văn số 22, trang 18.

[34] Theo Trần Khánh Triệu, Papa nhà báo, in trong Nhất Linh người nghệ sĩ-người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004, trang 170.

Ngồn: Văn Việt