Tổng Thống Joe
Biden đã dự định dùng xe lửa Amtrak từ quê nhà Wilmington, tiểu bang Delaware,
lên thủ đô Washington dự lễ nhậm chức bữa 20 tháng 1 năm 2021 vừa qua. Nhưng cuối
cùng, vì lý do an ninh, nên ông phải đổi qua dùng máy bay. Máy bay vù một cái
là đến trong khi xe lửa ì ạch tới 90 phút mới nuốt hết đoạn đường từ nhà ông tới
tòa Bạch Ốc. Vậy thì tại sao ông lại chọn cưỡi…rùa để tới thủ đô đón nhận vinh
quang? Vì đó là phương tiện ông đã dùng trong suốt 36 năm làm thượng nghị sĩ tại
Quốc hội Mỹ. Ngay sau khi vừa đắc cử thượng nghị sĩ, ông đã mang hai cái tang hết
sức đau buồn: vợ và con gái ông đã chết trong một tai nạn xe hơi. Hai đứa con
trai còn nhỏ của ông cũng có mặt trên xe nhưng chỉ bị thương. Ông trở thành gà
trống nuôi con. Ngày ngày, ông hai lần leo lên xe lửa đi và về, mất đứt ba tiếng
đồng hồ di chuyển chỉ vì phải săn sóc hai cậu con nhỏ. Chín năm sau, ông cất bước
đi bước nữa với bà Jill. Có người chăm sóc con rồi nhưng ông vẫn ngày hai buổi
đi đi về về. Chắc quen thói rồi. Nhờ là khách hàng mẫn cán của xe lửa nên ông
quen rất nhiều nhân viên và khách trên xe lửa.
Chuyện đi xe lửa…kỷ
niệm của ông Biden, tuy không thành, nhưng cũng làm tôi nhớ tới chuyện xe lửa của
đời tôi. Cũng là kỷ niệm nhưng kỷ niệm của tôi sớm sủa hơn. Tuổi thơ của tôi
dính liền với xe lửa. Nhà tôi nằm cách khu Khâm Thiên không bao xa, nằm giữa ga
Hàng Cỏ của Hà Nội và trạm Văn Điển. Tôi nhớ mang máng như vậy, không biết có
chính xác không. Chẳng thể đòi hỏi hơn nơi trí nhớ của một đứa trẻ 6 tuổi. Từ
nhà tôi tới Bờ Hồ để ăn kem Mụ Béo xa bao nhiêu, bước chân tuổi thơ chẳng đếm
được. Những lần được cha chở trên xe đạp vào Hà Nội, lòng mừng khấp khởi, tâm
trí đâu mà đo đạc. Ngay trước cửa nhà tôi là đường rầy xe lửa. Đó là thú vui thời
đó của tôi. Nhìn đám hành khách trong những chuyến xe xuôi ngược, chen nhau để
chỉ chỏ dàn hoa ớt xum xuê bám đầy cổng và hàng rào nhà tôi là một thú vui chen
chút hãnh diện. Nhà có hoa ớt hồi đó hình như là một dấu mốc của hành khách đi
xe lửa. Nơi báo hiệu gần tới Hà Nội hoặc vừa rời xa Hà Nội tùy theo hướng xe chạy.
Nhìn những chuyến xe nhiều toa nêm chật hành khách là một cái thú nhưng thú hơn
là nhìn chiếc xe nho nhỏ như cái ghế bành, không mui, trống hoắc trồng huơ, trên
đó chỉ có một hoặc hai nhân viên hỏa xa đi quan sát và kiểm tra đường rầy, vẫy
tay tươi cười với lũ nhỏ đứng bên đường, còn thú vị hơn. Nhưng thú vị nhất là
chuyện để những nút bia trên đường rầy cho xe cán qua phẳng phiu thành những đồng
xèng chơi đánh đáo. Đoàn tầu vụt qua xong là chúng tôi xô ra lượm. Những đồng
xèng đâu có ở nguyên vị trí mà tung tóe khắp nơi. Đồng nào của đứa nào là chuyện
cãi vã mỗi lần tầu qua.
Kỷ niệm thời nhỏ
với xe lửa chỉ là chuyện bên ngoài xe như vậy. Và chỉ kéo dài tới cuối năm 1945
khi gia đình tôi phải vội vã tản cư ra khỏi Hà Nội vào một đêm giá rét. Khi trở
về thì chúng tôi không còn được ở căn nhà cũ vì lý do an ninh. Gia đình tôi lên
ở trên khu Chợ Hôm trong lòng Hà Nội. Xe lửa không còn ở trong đầu tôi.
Lần tôi được thực
sự ngồi trên một chiếc ghế gỗ trong xe lửa là lần tôi được bà nội cho đi Hải
Phòng thăm ông trẻ, em bà tôi. Tôi nhớ cái cảm giác lâng lâng sung sướng khi thấy
nhà cửa, cây cối vùn vụt chạy ngược chiều xe. Khi về, tôi kể chuyện đi xe lửa
cho lũ bạn với bộ mặt nghênh lên hết cỡ. Chắc lúc đó nhiều đứa muốn đấm tôi
quá! Rồi di cư, xe lửa Sài Gòn cách xa nhà tôi nên xe lửa mất dấu trong tôi. Ga
xe lửa gần chợ Bến Thành vẫn còn hoạt động nhưng sự chậm chạp của thứ xe dài
ngoằng cổ lỗ sĩ khiến xe lửa mất khí thế nặng. Ga xe lửa cuối cùng trở thành ga
chuyển tiếp của Hàng Không Việt Nam.
Đi xe lửa là thứ
di chuyển nhẩn nha trong khi cuộc sống mới đòi hỏi tốc độ. Có mai một dần cũng
chẳng trách ai được. Tôi không còn dịp ngồi trên xe lửa cho tới khi qua Đại
Hàn. Trong một lần đi công tác vào năm 1973, tôi được mấy ông Đại Hàn cho đi xe
lửa từ Hán Thành tới Cheong Ju, dài khoảng 400 cây số, tôi mới lại tìm được cái
thú đi xe lửa. Trong một du ký viết về chuyện này hồi đó, tôi tả tình tả cảnh
như sau: “Xe lửa Đại
Hàn cũng từa tựa như xe lửa Việt Nam trước đây. Ghế ngồi có thêm miếng gỗ nhỏ
bên cạnh để đồ uống và cái để chân bọc nhung xanh ở phía trước. Qua từng ga
những người dân quê trong bộ quốc phục Đại Hàn tất tưởi lên xuống. Những anh
chị bán hàng rong đi đi lại lại trong toa, bán bánh kẹo, báo, thuốc lá, nước
ngọt… Đặc biệt là khi gần tới giờ cơm họ bán những chiếc hộp bao giấy hoa rất
đẹp thắt nơ xanh nơ đỏ như một món quà tặng quí giá. Thoạt đầu tôi cứ tưởng đó là
những hộp kẹo bánh đặc biệt của vùng xe lửa đi ngang qua để khách mua về làm
quà cho bà con. Nhưng khi thấy hầu như mỗi người đều mua một hộp tôi đã cố tình
để ý. Khi tôi từ toa hàng ăn trở về sau bữa cơm no nê trước khung cảnh thay đổi
liền liền trước mắt, tôi thấy khách đi tàu lần lượt bóc những chiếc hộp đẹp đẽ
đó ra. Sau lần giấy hoa là một chiếc hộp gỗ mộc mạc. Phía trong, nằm giữa lần
giấy trắng tinh khiết sạch sẽ là những nắm cơm xếp đều đặn và mỹ thuật. Mỗi nắm
cơm được bao quanh bằng một lớp rong biển khô màu xanh. Hai đầu nắm cơm được
rắc một thứ trông giống như ruốc chà bông của Việt Nam”.
Qua định cư
tại Canada, tôi có lần thử đi xe lửa từ Montreal tới Edmonton. Xe lửa Canada dĩ
nhiên đẹp đẽ và tiện nghi hơn xe lửa Đại Hàn. Có toa được thiết kế nhô lên cao,
chung quanh toàn bằng kính trong vắt, để ngồi ngắm cảnh, uống cà phê. Nhưng
chậm ơi là chậm. Xe lửa thì phải chậm, nhanh sao được, đó là…luật! Nghĩ vậy
nhưng không phải vậy. Tôi đã bé cái lầm.
Du lịch qua
Nhật Bổn vào năm 2016, tôi sống chết với xe lửa. Trong hai tuần lễ, tôi dùng
toàn xe lửa siêu tốc shinkansen đi từ
thành phố này qua thành phố khác với tốc độ kinh hồn 320 cây số/giờ. Ngày nào
cũng cưỡi con quái vật có cái đầu như đầu cá mập. Ngày đó, tôi đã ghi lại kinh
nghiệm ngồi xe lửa shinkansen: “Lòng tầu như
trong một chiếc máy bay với những hàng ghế sang trọng và tiện nghi y như ghế
máy bay. Phải nói hơn ghế máy bay mới đúng vì dưới chân ghế, phía ngoài, có một
bàn đạp nhỏ, dùng chân đạp nhẹ bàn đạp, người ta có thể xoay cả hàng ghế ba chỗ
ngồi từ trước ra sau. Nếu sáu người trên hai hàng ghế sát nhau là bạn bè thân hữu
thì hai hàng ghế xoay mặt vào nhau tha hồ chuyện trò rôm rả hoặc đánh bài hay
ăn uống với nhau. Các tiếp viên trên tầu cũng ăn diện đẹp đẽ như các tiếp viên
hàng không. Có nhiều nàng rất bảnh gái. Tôi có gặp một cô nàng đẩy xe đi bán đồ
ăn xinh như…robot. Tôi nghĩ các nhà sáng chế ra búp bê robot đã dựa vào nhan sắc
này để tạo thành khuôn mặt thơ ngây, ngơ ngác như thiên thần. Tất cả các tiếp
viên, dù nam hay nữ, mỗi khi vào hoặc rời toa tầu để làm phận sự đều cúi đầu
chào các hành khách. Tôi thích phong cách điều hành tầu, chẳng phải vì cô tiếp
viên búp bê tôi gặp, mà vì một câu nhạc mở đầu trước khi có thông báo chạy trên
màn ảnh của tầu. Đó là một câu nhạc cổ điển tây phương nghe rất phấn khởi. Hàng
chữ thông báo ga tới hoặc thông báo hành trình của tầu bằng tiếng Nhật và tiếng
Anh rất tiện lợi cho du khách mù tiếng Nhật. Tầu tốc hành shinkansen có tốc độ
đáng nể 320 cây số/giờ. Nghe thấy mà chóng mặt. Nhưng khi ngồi trên con tầu lướt
nhanh, người ta không cảm thấy chóng mặt. Phong cảnh hai bên đường vụt qua khá
nhanh nhưng mắt vẫn ngắm cảnh được một cách bình thường”.
Nếm mùi tầu tốc hành shinkansen, tôi mới nhớ lại chuyến xe lửa
Thống Nhất được quảng cáo rùm beng sau năm 1975 của nhà cầm quyền Cộng sản. Khi
đó, cuộc sống khó khăn vất vả, tôi nghĩ sẽ chẳng bao giờ ngồi trên đoàn tàu được
mệnh danh là Thống Nhất này. Nhưng rồi số phận cũng bắt tôi leo lên tầu. Tôi
đem gia đình ra Nha Trang để tham dự một chuyến vượt biên. Lòng tầu chen chúc
những người là người. Cả gia đình tôi gồm hai vợ chồng và hai đứa con nhỏ phải
đứng. Kiếm được một chỗ đứng gần cửa sổ cho thoáng thật vất vả. Vất vả còn vì
những con buôn hàng chuyến ngang nhiên thảy đồ qua đầu mình vù vù mỗi khi xe ngừng
tại một ga. Rồi còn nạn móc túi và ăn cắp. Chiếc áo mưa của tôi để trong túi
đeo vai đã không cánh mà bay lúc nào không biết. Đoạn đường dài vài trăm cây số
như một sạn đạo, nhất là có con nhỏ. Chuyến vượt biên thất bại, về lại Sài Gòn
, tôi không dám mạo hiểm thêm với xe lửa, leo lên xe đò quy hồi thành phố cũ
trong mất mát, cả vàng ròng lẫn ê chề tinh thần.
Vậy mà hồi đó xe lửa Thống Nhất là niềm
tự hào của nhà cầm quyền. Báo đài ra rả tuyên truyền về thành công vượt bậc
này. Sau này, khi sự việc được tiết lộ, người ta mới thấy đây chỉ là một công
trình vá ráp, giật đầu này vá đầu kia, của những người nhắm mắt làm bừa cho có
thành tích khoe với công chúng.
Khi Việt cộng chiếm được Đà Lạt, ông Phạm
Khương là người tiếp nhận ga Đà Lạt. Khúc đường xe lửa Tháp Chàm – Đà Lạt là một
tuyến xe lửa leo núi đặc biệt, có đầu máy răng cưa và có đường rầy cũng có răng
cưa. Đây là loại xe lửa leo núi, trên thế giới chỉ có hai nơi có: Đà Lạt và Turka
của Thụy Sĩ. Đường xe lửa Đà Lạt ngầu hơn Turka vì dài hơn và có độ dốc lớn
hơn. Phải mất 30 năm, từ năm 1902 đến 1932, đường xe lửa này mới hoàn tất với chỉ
sức người và những vật dụng thô sơ. Ngoài những kỹ sư người Pháp và Thụy Sĩ,
còn có hàng chục ngàn công nhân Việt Nam leo đèo xẻ núi vất vả không kể xiết.
Khoảng một nửa số công nhân đã vĩnh viễn nằm xuống trên con đường này vì gian
nan, bệnh tật, thú rừng và khí hậu khắc nghiệt. Thảm kịch này đã được các công
nhân ghi lại trong một bài vè được phổ biến vào năm 1922:
Kể
từ làm sở Sông Pha
Làm
hai cây số đục qua miệng hầm
Bạc
vàng không biết mấy trăm
Nhân
dân hao phí ăn nằm gió sương
Kẻ
sụp đất người nghiến xương
Kẻ
bị hột nổ tan xương nát đầu
Nói
ra kẻ thảm người sầu
Bất
đắc kỳ tử thác sâu linh hồn
Người
nào không giấy bổn thôn
Không
hình căn cước bắt dồn lên quan
Làm sao cho khỏi mang mền
Làm ba bốn bữa trốn lên hòn Bồ
Cây khô thì lá cũng khô
Phận nghèo đi tới nơi mô cũng nghèo.
Năm 1932, Toàn
Quyền Pháp René Robin và vua Bảo Đại khánh thành đường xe lửa độc đáo nhất thế
giới này với tổng chiều dài 84 cây số, 9 nhà ga, 5 đường hầm xuyên núi, 2 cầu lớn,
2 đèo cao là Ngoạn Mục và Dran, chi phí hết 200 triệu franc. Từ ngày đó, trung bình mỗi ngày có hai chuyến chạy tuyến Đà
Lạt-Nha Trang, Đà Lạt-Sài Gòn và ngược lại. Tổng cộng có 11 đầu máy chuyên vượt
núi và có răng cưa do Đức chế tạo. Chính đoàn tầu này đã tạo thuận lợi cho sự
bùng nổ xây dựng thành phố Đà Lạt từ năm 1935 đến 1945. Năm 1968, tuyến đường
này bị Việt Cộng phá hoại nên ngưng hoạt động. Tháng 5 năm 1975, tàu chạy lại
nhưng chỉ từ Đà Lạt tới Phan Rang giúp vận chuyển nông lâm sản rất hữu hiệu.
Nhưng tầu chỉ chạy được đúng 27 chuyến. Cuối năm 1975, nhà cầm quyền ra lệnh
ngưng chạy, tháo toàn bộ tà vẹt để mang ra Bình Định và Quảng Nam tu bổ tuyến
đường sắt Thống Nhất. Nhà cầm quyền tỉnh Lâm Đồng tá hỏa tam tinh, tiếc một
công trình vào loại hiếm trên thế giới sẽ mai một. Họ đề nghị hạ cây rừng để
làm tà vẹt mới thay vì tháo dỡ. Đúng 230 ngàn thanh tà vẹt gỗ mới tinh đã được
giao thay thế nhưng gỡ vẫn cứ phải gỡ. Tà vẹt của toàn bộ tuyến đường từ Trại
Mát về Tháp Chàm bị gỡ sạch. Những thanh ray và hơn chục cây số đoạn răng cưa
được đưa về các nông trường và sau đó thành phế liệu.
Không còn đường
ray, bảy đầu máy Fuka nằm phơi sương tại nhà ga Đà Lạt. Chúng trở thành những
thứ vô dụng nhưng, dưới con mắt những kỹ sư Thụy Sĩ, nơi cũng có tuyến đường tầu
răng cưa mà không còn đầu máy răng cưa chạy hơi nước nào còn vận hành được, thì
đây là những báu vật. Đầu năm 1988, kỹ sư hỏa xa Ralph Schorno của Thụy Sĩ, tìm
tới ga Đà Lạt để thăm dò. Ông chấm được bốn đầu máy còn tốt. Sau đó, tòa Đại sứ
Thụy Sĩ tại Hà nội ngỏ ý muốn mua. Hà Nội mừng vì có thể bán được những thứ phế
thải này. Họ ra giá một triệu đô Mỹ. Sau cuộc đàm phán nhanh chóng, số tiền bán
cuối cùng được ấn định là 650 ngàn đô. Do sự quản lý tùy tiện và dốt nát của
nhà cầm quyền Cộng sản, đất nước mất đi một công trình vô tiền khoáng hậu của…thực
dân Pháp!
Chỉ hai tháng
sau khi những chiếc đầu máy răng cưa rời Đà Lạt về Thụy Sĩ, kỹ sư Ralph Schorno
đã gửi từ nhà ga Jungfraujoch về cho ông Phạm Khương một cuốn sách dầy in những
tấm ảnh mầu trên giấy tốt. Nội dung kể lại hành trình tìm ra đầu máy răng cưa ở
Đà Lạt và mang về Thụy Sĩ cùng hình các đầu máy này đang nhả khói trên đường
đèo vượt dẫy núi Alpes. Trên đầu máy có một tấm bảng ghi mốc thời gian chiếc đầu
máy từng chạy trên tuyến đường Đà Lạt-Phan Rang. Như một nhắc nhở về nguồn cội
nhưng cũng hàm ý nhắc nhở về nỗi đau trong lòng những người Việt Nam đã từng
yêu mến và tự hào về con đường răng cưa đã mất.
Tôi tiếc là
chưa được ngồi trong những toa tầu quý hiếm này trong suốt thời gian dài khi
chúng còn phun khói trên quê hương. Chuyện cá nhân này, tôi nghĩ có thể làm được
nếu qua Thụy Sĩ. Nhưng còn đâu cái cảm giác khi được nhìn qua cửa sổ trên con tầu
hì hục leo đèo dốc, những bát ngát rừng thông, những chập chùng đồi núi quê
hương. Giận thiệt giận nhưng biết sao khi đất nước bất hạnh sản sinh ra những đứa
con chẳng biết giữ gìn và trân trọng tài sản quốc gia!
SONG THAO
1/2021