1.
Buổi tối,
sau khi cho con ngủ, Hoa nói với tôi, giọng
ái ngại:
-
Con bé gầy
quá. Nó bị
suy dinh dưỡng. Chắc anh phải kiêm việc
làm thêm để
có tiền
lo cho con.
Việc
gì bây giờ?
Lâu nay
tôi đã nhiều
lần
nghĩ đến
chuyện
này nhưng
chẳng
biết
phải
làm gì. Có dạo,
một
người
quen tốt
bụng
ở
Chi Rông cho tôi mượn miếng đất
ruộng
để
làm. Kinh nghiệm
không có, làm thử một mùa, số
lúa thu về
còn ít hơn
số
lúa giống
đã gieo xuống
ruộng.
Người
ê
ẩm
vì không quen công việc đồng áng, mất
thời
gian, còn bị
lỗ
vốn,
đành phải
trả
miếng
đất
lại
cho chủ
nhân của
nó. Buôn bán thì không xin được giấy phép. Một
số
đồng
nghiệp
dạy
cùng trường
làm thêm bằng
cách sửa
xe đạp,
sửa
giày, sửa
đồng
hồ,
bơm
mực
bút
bi, bơm
quẹt
ga, làm thú y… Còn tôi, vẫn bế tắc.
Tôi
nhìn đứa
con ba tuổi
đang ngây thơ
nằm
ngủ
trên giuờng,
rồi
nhìn Hoa:
-
Lần
này thì anh phải
tìm cho ra việc
để
mà làm. Thấy
con như
thế
này anh xót quá.
Cuối
tuần,
tôi về
Đà Lạt
tìm gặp
Hữu,
một
người
bạn
thân, đang là phóng viên của một tờ
báo ở
địa
phương.
Hữu
cũng xơ
xác như
tôi, nhưng
khi nghe chuyện
tôi muốn
có thêm việc
làm, anh trầm
ngâm suy nghĩ.
Bất
chợt,
Hữu
cười
thật
tươi:
-
Tôi nghĩ ra rồi.
Hình như
anh có một
chiếc
máy ảnh
phải
không?
Tôi
không hiểu
vì sao Hữu
hỏi
tôi như
vậy.
Sau 1975, cuộc
sống
quá khó khăn, tôi phải bán đi nhiều thứ,
nhưng
chiếc
máy ảnh
thì tôi vẫn
còn giữ
lại.
Ngoài chiếc
máy ảnh,
tài sản
của
tôi còn có một
máy đánh chữ,
một
chiếc
xe đạp,
và mấy
chỉ
vàng do bà con tặng hồi đám cưới.
Chỉ
có vậy
thôi. Nhà cửa
không có, đang ở nhờ.
Tôi
nói với
Hữu:
-
Có. Tôi vẫn
còn giữ
chiếc
máy ảnh.
Hữu
vỗ
vai tôi:
-
Yên tâm. Chắc
chắn
có việc
làm. Tôi sẽ
giới
thiệu
anh cho ông Nguyễn Bá Mậu để
học
nghề
chụp
ảnh.
Học
xong,
anh sẽ
chụp
ảnh
dạo
và ảnh
đám cưới
để
kiếm
thêm tiền.
Tuần
sau anh lên, tôi sẽ đưa anh đến
gặp
ông ấy.
Tôi
mừng
lắm.
Nghề
này chắc
chắn
phải
hợp
với
tôi hơn
là làm ruộng.
Về
nhà tôi kể
chuyện
cho Hoa nghe và Hoa cũng rất lạc quan với
chút ánh sáng đang lóe lên trong cuộc
sống
u ám của
chúng tôi. Tôi lấy chiếc máy ảnh
hiệu
Canon lau chùi cẩn thận, nhủ
lòng sẽ
cố
gắng
để
vượt
qua số
phận.
Cả
thị
trấn
này, số
người
có máy ảnh
chỉ
đếm
trên đầu
hai bàn tay. Rất
ít người
biết
chụp
ảnh.
Muốn
chụp
ảnh
phải
học
cách sử
dụng
máy ảnh.
Ảnh
sẽ
mờ
tịt
nếu
không biết
điều
chỉnh
khoảng
cách, sẽ
trắng
bệt
nếu
thừa
ánh sáng, hoặc
sẽ
đen thui nếu
thiếu
ánh sáng. Tôi đã có dịp đọc qua các sách dạy
chụp
ảnh
nên cũng hiểu
biết
chút ít.
Cuối
tuần
sau đó Hữu
đưa
tôi đến
gặp
nhiếp
ảnh
gia Nguyễn
Bá Mậu.
Từ
lâu tôi đã nghe tiếng ông: một trong những
nhiếp
ảnh
gia nổi
tiếng
ở
miền
nam trước
1975, cùng thời
với
Nguyễn
Cao Đàm, Trần
Cao Lĩnh. Tầm
sư
học
đạo
mà gặp
được
ông thì quả
là gặp
đúng sư
phụ
rồi.
Tôi mang theo chiếc máy ảnh,
trong lòng hơi
lo, không biết
ông có sẵn
sàng truyền
nghề
hay không.
Nhà
ông nằm
cuối
dốc
Sông Lô gần
rạp
chiếu
bóng Ngọc
Hiệp
ở
đường
Phan Đình Phùng. Nhà bài trí nghệ thuật,
gọn
gàng, ngăn nắp.
Trái với
những
lo âu của
tôi, nhiếp
ảnh
gia Nguyễn
Bá Mậu
là một
người
cởi
mở,
vui vẻ,
lịch
sự,
nhanh nhẹn,
và đặc
biệt
ông có cách nói chuyện rất nhẹ
nhàng, dễ
gây cảm
tình với
người
được
ông tiếp
chuyện.
Sau khi nghe Hữu
giới
thiệu
và nói ý định
của
tôi, ông vui vẻ
nhận
lời:
-
Tưởng
ai chứ
bạn
của
Hữu
thì xem
người
nhà. Mình có thể bắt đầu
từ
hôm nay.
Rồi
ông nói đùa:
-
Thợ
chụp
hình là ngưới có nhiều quyền lực.
Khách hàng của
chú, từ
quan đến
dân, ai cũng phải nghe chú. Chú bảo
người
ta lui ra
sau hay bước tới trước, nhích sang bên phải
hay bên trái là họ răm rắp làm theo. Nhưng
coi chừng
chú bị
đau tim vì chú sẽ gặp rất
nhiều
người
đẹp.
Ngay
sau đó ông hướng dẫn cho tôi những
hiểu
biết
căn bản
về
chiếc
máy ảnh,
cách điều
chỉnh
ánh sáng, khoảng cách, tốc độ,
cách cầm
máy ảnh
sao cho không bị rung, cho phép tôi chụp
thử
vài tấm
ảnh
trong nhà, ngoài trời, vào phòng tối
rửa
ảnh,
dựa
vào đó ông phân tích những lỗi cần
phải
tránh.
Cứ
cuối
tuần
tôi lại
lên gặp
ông. Ông tiếp
tục
hướng
dẫn
về
bố
cục
một
tấm
ảnh:
phần
không gian trên đầu phải nhiều
hơn
dưới
chân, phần
không gian trước mặt phải rộng
hơn
sau lưng,
không được
chụp
cắt
ngang người
ở
đùi, ở
đầu
gối,
ở
cổ
chân, không để
khách hàng đứng phía trước gốc
cây mà phải
đứng
tựa
vào một
bên, người
mập
không mên chụp
gần,
người
ốm
không nên chụp
xa, chụp
thế
nào để
một
người
lùn trông cao hơn trong ảnh… Dạo
trước
tôi cũng thường chụp ảnh cho bạn
bè và gia đình, bây giờ, qua những gì ông hướng
dẫn,
nhìn lại
thấy
mình mắc
nhiều
lỗi
kỹ
thuật
mà mình
không biết.
Phần
cuối
cùng, ông hướng dẫn tôi chụp ảnh
nghệ
thuật:
chụp hoa,
tĩnh vật,
chụp
silhouette, chụp ảnh chân dung, xóa phông
đằng
sau, chụp
người
hoặc
vật
đang di chuyển, chụp ảnh
thể
thao, chụp
ảnh
vào ban đêm… Đây là phần khó nhất, không
học
không thể
biết
cách chụp.
Tôi rất
thích phần
này, tự
nhủ,
nếu
không kiếm
ra tiền
thì ít nhất
cũng có những
hiểu
biết
về
nhiếp
ảnh
để
áp dụng
cho đời
sống
riêng của
mình.
Rồi
tới
ngày sư
phụ
cho tôi xuống
núi. Ông hẹn
gặp
tôi thêm một
lần
nữa ở nhà
ông vào một
buổi
sáng chủ
nhật.Trên
bàn nơi
phòng khách ông đã chuẩn bị sẵn
hai ly cà phê, bên cạnh có một túi da dùng để
đựng
máy hình. Ông dặn dò tôi về việc
luôn luôn phải
làm vui lòng khách hàng, đừng nóng tính, và khi họ
cần
đến
mình thì cho dù phải đi mười cây số
để
chụp
một
tấm
hình vẫn
cứ
phải
đi.
Tôi
nói:
-
Rất
cám ơn
anh về
sự
tận
tình chỉ
dẫn
lâu nay. Anh vui lòng cho em gửi cái này.
Vừa
nói tôi vừa
đặt
chiếc
nhẫn
một
chỉ
vàng lên bàn với
ý định
gửi
ông chút thù lao.
Ông
khoát tay, không nhận. Tôi nài nỉ thế
nào ông vẫn
từ
chối.
Ông cầm
lấy
chiếc
nhẫn
bỏ
vào cái túi da rồi đưa cho tôi, kèm theo nụ
cười
đôn hậu:
-
Từ
trước
tới
giờ
tôi chưa
lấy
thù lao của
ai về
việc
này. Giúp chú chút kinh nghiệm thôi mà, có gì lớn
lao
đâu. Cuộc
sống
giáo chức
bây giờ
khó khăn lắm.
Chú chịu
khó làm thêm để
có thêm thu nhập.
Có chiếc
túi da này, cũ nhưng còn tốt, tôi tặng
chú để
khi đi làm nghề
cho nó có vẻ
chuyên nghiệp.
Lúc này thứ
gì cũng khan hiếm, muốn mua một
cái túi da như
thế
này,
cho dù có tiền
cũng không mua đâu ra.
Thật
là ngoài sức
tưởng
tượng
của
tôi. Đã không nhận thù lao, lại còn tặng
vật
dụng
hành nghề.
Tôi
đã may mắn
gặp
được
một
con người
tử
tế
và nhân hậu. Tôi đã học được
ở
ông không chỉ
nghề
ảnh
mà cả
cách sống
ở
đời.
2.
Cả thị
trấn
tôi đang sống
chỉ
có hai tiệm
chụp
hình với
số
thợ
hình khoảng
năm người.
Họ
thuộc
nhóm thợ
quốc
doanh, còn tôi thuộc dạng “chụp
hình chui”. Tiền dạy học
không đủ
sống,
“đói
thì đầu gối
phải bò”. Đầu
gối
tôi bắt
đầu
bò. Tôi nhận
chụp
ảnh
đám cưới
vào những
ngày cuối
tuần.
Dần
dần,
khi đã có chút uy tín, khách hàng tìm đến nhiều
hơn.
Ngoài giờ
dạy,
soạn
bài, chấm
bài, tôi tận
dụng
số
thời
gian còn lại
để
đi chụp
hình. Tôi làm việc bảy ngày một
tuần
và hoàn toàn không có thời gian để giải
trí. Làm nhiều
như
vậy
nhưng
cuộc
sống
vẫn
không khá lên được vì thu nhập từ
nghề
hình cũng chỉ
dừng
ở
mức
“có
còn hơn không”.
Một
lần
tôi phải
vào một
xã kinh tế
mới
cách nhà khoảng
10 cây số
để
chụp
hình cho một
gia đình đang cần ảnh gửi
cho người
thân. Khách hàng yêu cầu chụp một
tấm
duy nhất
cho cả
gia đình và tôi phải có mặt vào lúc 6 giờ
sáng. Tôi lấy
làm lạ,
hỏi
tại
sao phải
là 6 giờ
sáng. Khách hàng giải thích: vào giờ
đó mọi
người
trong gia đình đủ mặt; sau
6 giờ
người
thì đi làm, con cái thì đi học, có người này thì thiếu
người
kia. Thì ra là vậy.
Đời
sống
vùng kinh tế
mới
rất
khó khăn. Trong tính toán của họ, họ
chỉ
đủ
tiền
để
chụp
một
tấm
hình thôi. Nhớ
lời
sư
phụ
dặn,
“Khi
họ
cần
đến
mình thì cho dù phải
đi mười cây số
để
chụp một
tấm
hình vẫn cứ
phải đi “. Và tôi làm đúng
theo lời
sư
phụ.
Năm giờ
sáng lọc
cọc
đạp
xe vào chỗ
hẹn.
Đến
nơi,
họ
đã sẵn
sàng với
một
đại
gia đình trên dưới mười người.
Trời
chưa
sáng hẳn,
ánh sáng ngoài trời còn yếu, chưa
đủ
để
làm cho ảnh
rõ và sắc
nét. Tôi hình dung việc chụp tấm
hình này là một
việc
quan trọng
đối
với
họ,
không cho phép chụp hỏng hoặc
xấu,
do vậy
tôi phải
chụp
đến
ba lần
để
chắc
ăn sẽ
có một
tấm
khá nhất
giao cho họ.
Nào ngờ,
chủ
gia đình nổi
nóng, xài xể tôi một trận:
-
Tôi đã nói chỉ
chụp
một
tấm,
bây giờ
chú chụp
đến
ba tấm,
tôi lấy
tiền
đâu mà trả.
Lỗ
công, lỗ
vốn,
lại
còn bị
xài xể,
tôi hơi
tức
nhưng
không giận
vì chẳng
qua là họ
hiểu
lầm.
Trước
cơn
thịnh
nộ
của
người
chủ
nhà tôi chỉ
biết
chịu
trận.
Đợi
ông dứt
trận
lôi đình tôi mới
ôn tồn
giải
thích. Mấy
ngày sau tôi lại
lọc
cọc
đạp
xe vào giao tấm
hình, vừa
đi vừa
nhủ
lòng, “Xem như
làm từ thiện”.
Cũng may tấm
hình khá đẹp,
nếu
không, chưa
biết
chuyện
gì xảy
ra.
Cũng
ở
vùng kinh tế
mới
này,
một
hôm tôi đang chụp ảnh cho một
đám cưới
thì hai cậu
du kích xuất
hiện.
Họ
cho người
vào gọi
tôi ra.
Thấy
họ
có mang súng nên tôi hơi sợ. Tôi bước
ra, cố
gắng
nở
một
nụ
cười
xã giao.
Một
cậu,
mặt
non choẹt
đáng tuổi
học
trò tôi, hạch
hỏi:
-
Anh có giấy
phép chụp
hình không?
Tôi
vã lã:
-
Khó khăn quá. Làm thêm một chút thôi mà, chưa
kịp
xin giấy
phép.
Được
thể,
cậu
ta càng lên gân:
-
Không có giấy
phép thì không được chụp. Anh mà tiếp
tục
chúng tôi sẽ
thu máy ảnh.
Nghe
ba chữ
“thu
máy ảnh” tôi hơi
ngán. “Thu máy ảnh”
đồng
nghĩa với
“thu
cái cần câu cơm”
của
tôi trong lúc này. Tôi vội vàng bỏ máy ảnh
và đèn flash vào trong túi da, lùi ra xa theo phản ứng
tự
nhiên, chưa
biết
phải
tính thế
nào thì cô dâu chú rể bắt đầu
năn nì:
-
Mấy
anh thông cảm. Không cho chụp
thì chúng tôi không có ảnh cưới. Một
đời
có một
lần
mà không có ảnh
thì biết
làm sao đây.
-
Không có thông cảm gì hết. Đi kiếm
thợ
ảnh
khác vào chụp.
-
Làm sao kịp?
Tìm được
người
khác vào tới
đây thì đám cưới xong rồi.
Vừa
lúc ấy
có một
người
đàn ông trạc
30 tuổi
dừng
xe đạp
nơi
chỗ
hai cậu
du kích. Họ
thì thầm
với
nhau một
lúc, sau đó người này bước tới chỗ
tôi, nghiêm giọng:
-
Tha cho anh lần này. Lần sau không được
vào đây.
Nói
xong cả
bọn
bỏ
đi.
Sau
lần
đó, tôi không
nhận
chụp
ảnh
đám cưới
cho vùng kinh tế mới này nữa,
kiếm
các địa
bàn khác để
“làm
ăn”
Tôi
chỉ
chụp
ảnh,
còn rửa
ảnh
thì không vì không có phòng tối. Chụp xong, tôi phải
mang về
Đà Lạt
đưa
cho các phòng tối trên
đó tráng phim và in ảnh. Khổ nhất
là những
lần
khách cần
ảnh
gấp,
đám cưới
hôm nay họ
muốn
lấy
ảnh
vào ngày mai để
kịp
đưa
cho bà con ở
xa về
dự
tiệc
cưới.
Phương
tiện
vận
chuyển
thiếu
thốn,
muốn
mua một
vé xe đò về
Đà Lạt
phải
xếp
hàng chờ
đến
hai ba tiếng
đồng
hồ,
nhiều
khi tới
phiên mình thì hết vé. Có một lần
mua được
vé đi nhưng
không mua được vé về, đành phải đi bộ
trên 30 cây số
để
về
nhà.
Sau
này, gặp
những
trường
hợp
khách cần
ảnh
gấp
như
vậy
tôi đi xe đạp
về
Đà Lạt
cho chắc
ăn. Lượt
đi mất
bốn
tiếng
vì đoạn
lên đèo Prenn không đạp nổi, phải
dắt
xe đi bộ.
Lên tới
nơi,
đến
ngay phòng tối
giao phim, sáng sớm hôm sau trở lại
lấy
ảnh
và đạp
xe trở
về.
Lượt
về
chỉ
mất
một
tiếng
rưỡi
nhưng
rất
nguy hiểm
khi xuống
đèo. Để
chuẩn
bị
cho những
lần
đổ
đèo, tôi
phải
tháo bỏ
hai cái garde-boues, chỉ
còn hai bánh xe trơ trọi, khoèo một
chân vào chỗ
bánh xe trước để làm giảm tốc
độ
khi xe xuống
đèo. Một
lần
tôi hụt
chân, bổ
nhào xuống
đất,
lăn ra giữa
đường,
chiếc
xe đạp
văng ra xa, còn cặp kính cận may mắn
rớt
vào
vạt
cỏ
bên vệ
đường,
không bể.
Người
tôi chỉ
bị
xây xát nhẹ.
Sau
lần
đó, tôi bắt
đầu
sợ.
Tôi không nhận
chụp
những
đám cưới
cần
ảnh
gấp
như
vậy
nữa.
Dần
dần,
thợ
“chụp
hình chui” xuất hiện thêm mấy
người
nữa.
Sự
xuất
hiện
của
họ
ít nhiều
có ảnh
hưởng
đến
các thợ
hình khác vì số
khách hàng bị
chia bớt
đi. Các thợ
hình quốc
doanh bắt
đầu
tìm cách gây khó khăn. Họ báo cho công an, đề
nghị
công
an cần
phải
dẹp
cái đám “chụp hình chui”
này. Trong số
các thợ
hình quốc
doanh, có một
tay rất
hung hăng, tên là Lung, thường bám sát chúng tôi. Có lần
gặp
tôi, hắn
hù dọa:
-
Tao sẽ
cho bọn
mày dẹp
tiệm.
Tôi
tức
cười
quá, nói luôn:
-
Có tiệm
đâu mà
dẹp.
Mặt
hắn
hầm
hầm:
-
Rồi
bọn
mày sẽ
biết
tay tao.
3.
Gần nhà tôi có một
ngôi chùa. Những
ngày Tết,
rất
đông người
đến
chùa thắp
nhang, lạy
Phật,
xin xăm, cầu
lộc,
cầu
duyên… Đây là nơi “làm ăn”
của
tôi và nhiều
thợ
hình khác vào dịp Tết. Đây cũng là dịp
đám thợ
quốc
doanh và đám “chụp
hình chui” đối mặt với
nhau. Vừa
chụp
hình cho khách, vừa phải dè chừng
đám thợ
quốc
doanh xem họ
có gây khó khăn gì cho mình không. Sự cạnh
tranh tất
nhiên phải
có, không công khai nhưng ngấm
ngầm
và quyết
liệt.
Suốt
những
ngày Tết,
từ
mồng
một
đến
mồng
năm, tôi làm việc không ngơi nghỉ,
mệt
rã người
vì cả
ngày chụp
hình liên tục,
tối
lại
phải
thức
để
phụ
với
phòng tối
làm ảnh.
Hoa thì lúc nào cũng ở bên tôi giúp giao hình cho khách.
Tôi “làm ăn” ở chùa này tổng cộng
ba cái Tết.
Hai cái Tết
đầu
yên ổn,
không có chuyện
gì xảy
ra. Đến
cái Tết
thứ
ba thì gặp
rắc
rối.
Hôm
đó là mồng
ba Tết,
khoảng
giữa
trưa
- giờ
cao điểm
bà con đến
thắp
nhang lạy
Phật,
rải
rác trước
và sau chùa có khoảng 8 thợ chụp
hình đang phục
vụ
cho khách. Tôi thuộc nhóm thợ đông khách. Một
vài thợ
ế
ẩm,
khách thưa
thớt.
Tôi đang chụp
ảnh
cho một
gia đình phía sau chùa thì bà Chín - một người
làm công quả
thường
xuyên ở
chùa - đi ngang qua chỗ tôi, ghé tai nói nhỏ:
-
Chụp
xong nhóm này, thầy ra đằng sau nhà khách gặp
tôi. Có chuyện
này hơi
gấp,
muốn
nói với
thầy.
Tôi
hơi
ngạc
mhiên, chụp
nhanh cho xong rồi ra đằng sau nhà khách.
Bà
Chín đã chờ
sẵn,
nét mặt
có vẻ
nghiêm trọng:
-
Hồi
nãy có ba thanh niên trông rất du côn bàn kế
hoạch
hành hung thầy.
Thầy
đừng
ra sau chùa vì bọn nó chờ thầy
ở
đó, giả
làm khách chụp
hình, rồi
kiếm
cớ
đánh thầy,
đập
máy ảnh.
Tôi đoán bọn
này là tay chân của mấy anh thợ
ế
khách. Từ
giờ
đến
chiều
thầy
chỉ
chụp
trước
chùa. Phía trước chùa lúc nào cũng đông người,
chúng nó không dám làm gì thầy đâu.
Tôi
cám ơn
bà Chín rồi
đi tìm Hoa, kể
cho Hoa nghe mọi
việc
và dặn
Hoa đứng
gần
theo dõi, có dấu
hiệu
gì bất
thường
báo cho tôi biết, còn tôi vẫn tiếp
tục
công việc
của
mình. Một
số
khách
nài nỉ
tôi ra sau chùa chụp ảnh cho họ
vì phía ấy
có nhiều
cảnh
đẹp
nhưng
tôi lấy
cớ
không đủ
thời
gian và cứ
bám chặt
phía trước
chùa.
Khoảng
ba giờ
chiều,
Hoa và tôi ghé vào chỗ bóng mát dưới gốc
cây để
nghỉ
ngơi
một
chút. Hoa đang lột mấy trái quít
cho tôi ăn đỡ
khát thì có một
nhóm thanh niên tóc dài, áo phanh ngực bước
tới.
Bọn
chúng có ba người. Đúng là nhóm du côn mà bà Chín đã báo động
với
tôi. Có lẽ
chúng chờ
phía sau chùa quá lâu mà không thấy tôi ra nên tìm đến
đây. Tôi hơi
chột
dạ
nhưng
không
sợ
vì xung quanh tôi vẫn còn rất đông người.
Theo phản
ứng
tự
nhiên, tôi vừa
định
cho máy ảnh
vào túi da thì một người trong bọn
họ
hắng
giọng
khiêu khích:
-
Máy ảnh
hiệu
Canon hả?
Máy này mà chụp
cái gì? Coi chừng chụp xong không có ảnh
đấy!
Người
thứ
hai nói trổng:
-
Chiều
rồi,
chụp
gì nữa?
Đi về
đi.
Người
thứ
ba giọng
có vẻ
đe dọa:
-
Mai đừng
đến
đây nữa
nhé. Đến
là có chuyện
đấy.
Nói
xong, cả
ba cười
hô hố
bỏ
đi.
Đợi
chúng đi thật
xa và đoán chắc
chúng không trở
lại
tôi mới
thở
phào nhẹ
nhòm, nhìn vào khuôn mặt bơ phờ
của
Hoa:
-
Em có nhớ
mình bắt
đầu
làm nghề
chụp
hình từ
năm nào không?
-
Nhớ
chứ
anh. Từ
1979, khi con mình được 3 tuổi.
-
Mới
đó mà đã ba năm. Đã ba năm mình không có Tết mà con mình thì vẫn
chưa
hết
suy dinh dưỡng. Còn anh, chắc
anh sẽ
suy nhược
thần
kinh mất
thôi./.
PHẠM CAO HOÀNG
1983