Hoàng
Đạo và Thạch Lam
Hoàng
Đạo
Là
cây bút tài hoa nhất trong ba anh em Nguyễn Tường: viết gì cũng được, viết hay
ngay từ đầu, không cần qua thời kỳ "luyện văn", Hoàng Đạo thản nhiên
bước vào lối viết hiện đại, ngay trong truyện ngắn đầu tay Nùng Chi Lan
ký Tòng Lương, đăng trên Phong Hóa số 14 (22-9-32), câu đầu như sau:
"Đêm
đã muốn tàn. Trong rừng sâu, dần dần sáng rõ. Bến đò yên lặng, chỉ nghe thấy
tiếng chim xa gõ mõ, giọt sương nặng rơi ty tách" đã
mở ra một bối cảnh thơ mộng khác thường, thiên nhiên đậm hồn nhân sinh, thoát
xa cổ điển; kèm sự cách tân ngôn ngữ rất đặc biệt của người làm thơ, nhờ chữ muốn.
Hoàng Đạo không viết: "Đêm đã tàn", để chỉ một trạng thái, mà
ông viết: "Đêm đã muốn tàn", để chỉ một hành động, tức
là ông đã biến đêm thành một chủ thể sống động như con người. Rồi câu kế
tiếp: Trong rừng sâu, dần dần sáng rõ, không "đúng văn phạm",
đáng lẽ phải viết: "Trong rừng sâu, trời dần dần sáng rõ",
nhưng ông đã bỏ chữ trời đi, lại cũng là một thủ pháp của thơ. Vì không
có trời, nên ta không biết ánh sáng từ đâu tới, ai rọi, không khí trở
thành bí mật hoang đường, đúng hệt như những gì ta cảm nhận khi bước vào rừng
sâu. Nếu Hoàng Đạo tiếp tục viết truyện ngắn thì chưa biết, lối sáng tạo
câu, chữ của ông sẽ đưa văn chương tới đâu.
Nùng
Chi Lan ký tên Tòng Lương (Tường Long nói lái), tuy cốt truyện còn
thô sơ, nhưng nhiều câu văn như thơ, đẹp lạ lùng, ý tưởng lại rất bạo, rất mới,
với những câu: "tôi thương cô, tôi yêu cô" hay "Chàng
hồi tưởng lại cái môi thoa son… mà ngậm ngùi nhớ tiếc…" ở vào thời
điểm ấy, viết như thế là "sexy" lắm.
Bông
hoa thủy tiên
Trên
Phong Hóa số 31 (24-1-1933), số báo Xuân đầu tiên, do Tự Lực văn đoàn đặt ra,
có truyện ngắn Bông hoa thủy tiên của Tứ Ly, ít ai để ý, nhưng là truyện
ngắn tân kỳ nhất của Tự Lực văn đoàn và của văn học Việt Nam lúc bấy giờ.
Bông
hoa thủy tiên là một bài thơ trong không gian liêu
trai Lưu Nguyễn. Tứ Ly giao hòa kỷ niệm với hiện thực. Đêm ba mươi Tết, Vân
sinh đứng cạnh giò thủy tiên chàng vừa tỉa xong ban chiều, sực nhớ lời Lê Dung
dặn sau giao thừa nhớ đến xông nhà nàng:
"…
chàng liền khoác áo tơi mở cửa bước ra. Cơn gió mạnh làm chàng rùng mình.
Chàng
đi theo mấy giãy phố vắng tanh, lần đến nhà Lê Dung. Bước vào cái cổng ngỏ,
chàng không thấy hai chậu hoàng lan ở bên ngõ mà chàng thường đứng xem. Hơi lấy
làm lạ, chàng định kiến nhìn kỹ lại cảnh vật chung quanh, giật mình lẩm bẩm:
"có lẽ ta nhầm… không phải nhà Lê Dung".
Nhưng
con đường sỏi chàng đang đứng như chàng đã qua lại nhiều lần rồi. Chàng ngửng
đầu lên nhìn qua mấy cây tường vi lá lăn tăn, thấy một toà nhà trắng chung bóng
in xuống dưới cái ao bán nguyệt trước mặt, lung linh như thực như hư. Chàng sực
nhớ rằng xưa kia chàng đã từng vin cành tường vi hái hoa, tắm mát ở dưới ao
nước trong, liều giảo [rảo] bước lên thềm, đi qua một giẫy
lan can bằng xứ, chàng vừa định gõ cửa vào, thì cánh cửa từ từ mở ra…"
Những
gì Vân sinh đang sống trong giây phút này, là mộng hay thực, không thể
biết được, vì sự pha trộn thực mộng ở đây đã nhuần nhuyễn đến mức thượng thừa: Chàng
đi theo mấy giãy phố vắng tanh, không biết là chàng có đi thật, hay
chỉ đi trong mộng du; bởi vì đã bước vào cổng ngõ nhà Lê Dung rồi, mà chàng
không thấy hai chậu hoàng lan, rồi chàng định kiến lại, và tự hỏi hay
là ta nhầm?
Tiếp
theo đó, chàng lại gần như chắc chắn: con đường sỏi chàng đang đứng như
chàng đã qua lại nhiều lần rồi, vậy con đường này nằm trong trí chàng chứ
không phải là con đường thật. Rồi đến quang cảnh tiếp theo, khi chàng ngửng
đầu lên nhìn qua mấy cây tường vi lá lăn tăn, thấy một toà nhà trắng chung bóng
in xuống dưới cái ao bán nguyệt trước mặt, lung linh như thực như hư thì
đúng là hư ảo, bởi vì chàng sực nhớ rằng xưa kia chàng đã từng vin cành
tường vi hái hoa, tắm mát ở dưới ao nước trong. Sự giao thoa thực ảo tài
hoa và tế nhị như vậy chỉ có thể từ bàn tay một bậc thày chữ nghiã, nhưng
không, đó là từ ngòi bút của người thanh niên viết truyện ngắn lần thứ nhì
trong đời.
Khó
có thể hiểu, mới vài năm trước, tiếng Việt còn ở mức "từ đây sẽ vắng
tanh tin nhạn", mà bây giờ, Tứ Ly thao túng chữ nghiã như vào chốn
không người.
Nói
rõ hơn, trong Bông hoa thủy tiên, Tứ Ly đã dùng thứ chữ nước đôi
để ảo hóa một cảnh thực và thực hóa một cảnh ảo: Vân sinh tưởng đã đến
nhà Lê Dung, bước qua cái cổng ngỏ, chàng không thấy chậu hoàng
lan, bèn nhìn kỹ chung quanh, lẩm bẩm:"có lẽ ta nhầm…", nhưng
trí nhớ cãi lại: con đường này ta đã qua lại nhiều lần. Rồi chàng nhìn
xuyên qua đám tường vi, thấy một toà nhà trắng in hình dưới ao bán nguyệt.
Tất là mơ rồi. Nhưng không. Trí nhớ lại mách: xưa ta đã từng vin cành tường
vi hái hoa, ta đã từng tắm mát dưới ao nước trong… Ở đây, tưởng
tượng giao hòa với thực cảnh, quá khứ lồng trong hiện tại, tạo ra một không
gian tuyệt vời, đắm say, mê sảng. Chúng ta vừa bị lôi cuốn theo Vân Sinh vào
khung cảnh mơ màng, hư hư thực thực trên cung quảng với những mỹ nữ dạo khúc
nghê thường, nhưng chỉ một thoáng sau, những nàng tiên trở lại thực thân, chỉ
là đoá thủy tiên vừa nở thành tiên nữ. Thần tiên. Mộng ảo. Đừng tỉnh
lại. Đừng hỏi: có thật không? Hỏi vậy là vô ích, bởi lúc nào quá khứ cũng sống
trong hiện tại, nhắc ta cảnh ấy, cảnh nọ, ta đã trải qua, không kiếp này thì
kiếp trước…
Bông
hoa thủy tiên chính là truyện Tú Uyên Giáng Kiều,
trong tiếng Việt hiện đại của Tự Lực văn đoàn, mà Tứ Ly vừa sáng tạo, cũng là
truyện ngắn huyền ảo (fantastique) hiện đại đầu tiên của nước ta, viết
trước Nhập Thiên Thai của Vũ Khắc Khoan hơn hai mươi năm; thanh thoát,
tế nhị, không lời lẽ cầu kỳ, lập luận phiền phức như Khoan tôi, cũng
không kiểu cách như Marquez máu mê, tàn bạo.
Tiếc
rằng tác phẩm sau in lại trong tập Tiếng đàn (1941) đã bị sửa hoàn toàn,
trở thành một truyện ngắn hiện thực, bằng cách thêm vào đầu truyện một đoạn rất
dài, viết về Vân: ngồi trong nhà một đêm giao thừa, bên bàn thờ khói hương nghi
ngút, Vân rất yêu hoa thuỷ tiên, chàng chọn hoa như thế nào, ủ hoa như thế nào,
v.v. thừa thãi và thiếu nghệ thuật. Cái tựa Bông hoa thủy tiên bị đổi
thành Hoa thủy tiên, tức là đổi một bông hoa thuỷ tiên đã nở ra
các nàng tiên thành hoa thủy tiên chung chung, không có nghiã gì. Vân
sinh [người học trò tên Vân] bị đổi thành Vân và Lê Dung đổi
thành Dung; và mở đầu truyện bằng câu:
"Vân
ngồi yên lặng để sự bình tĩnh thấm vào người. Điếu thuộc là hút dở để trên điã
sứ bốc khói lên thành vệt xanh lam…"
Trong
khi Bông hoa thủy tiên bắt đầu bằng câu:
"Vân
sinh mở cửa sổ cho khói pháo bay ra.
Trời
tối, hai dẫy phố mầu đen sẫm in lên vùng trời sâu thẳm."
Những
sự thay đổi này làm mất tính cách liêu trai trong tác phẩm, biến một truyện có
tính cách tiên phong đầy chất sáng tạo trở thành bình thường như các truyện
ngắn cùng thời. Tôi không nghĩ Hoàng Đạo làm, vì năm 1941, Hoàng Đạo đã phải
trốn, rồi sau bị bắt. Vậy Thạch Lam làm chăng? Không có lẽ, vì Thạch Lam sành
văn, và lúc đó ông đã chớm lao rồi. Sau này, nếu có dịp in lại truyện này, ta
nên lấy lại bản gốc trên Phong Hóa số 31 (24-1-33).
Phong
Hóa số 34 (17-2-33) có truyện Cánh buồm trắng của Tứ Ly, viết theo lối
tình cảm lãng mạn, nhẹ nhàng mà sâu sắc. Nhưng sau đó, không thấy ông viết
tiếp, mãi tới báo Ngày Nay, mới có thêm vài truyện ngắn nữa.
Tứ
Ly có làm ít nhất một bài thơ, trên Phong Hóa số 32 (3-2-33). Bài thơ mới
rất dài tựa đề Trên sông Đáy, lấy người kỹ nữ bến Tầm Dương của Bạch Cư
Dị làm phông cho một buổi hát cô đầu bên sông:
Đêm
hôm ấy trăng trong vừa mọc
Cảnh
trăng thu như cảm xúc tới hồn thơ
Hai
anh em giạo gót thẫn thờ
Kià
đã đến bên bờ sông Đáy
Theo
giòng nước gió thu hây hẩy
Như
vàng gieo, gợn chạy lăn tăn.
Bên
nhịp cầu mấy chiếc thuyền nan,
Nằm
ngủ ở dưới bóng trăng êm ái.
Nghe
ca nương than thở thân phận tủi hổ của mình, hai người khách cũng là hai anh em
(Hoàng Đạo, Nhất Linh chăng?) khuyên nàng đừng buồn vì thời nay ca hát không
còn là cái nhục. Tuy là thơ "tuyên truyền" (ca nương thấy báo chí kêu
gào "ngũ luân, ngũ thường" mà đời nàng không có gì hợp với luân
thường cả, hai anh em bèn lựa lời khuyên giải) nhưng lời thơ đẹp, nhạc và ý
hay hơn thơ Tân Việt (Nhất Linh) và thơ Phạm Huy Thông lúc bấy giờ.
Tuồng
cổ tân thời
Nhất
Linh chủ trương một tờ báo hài hước, nhưng ông không viết được hài hước, Thạch
Lam cũng không có óc khôi hài. Khái Hưng có duyên hơn. Tú Mỡ làm thơ hài hước
chuyên nghiệp, bài bản, đọc qua vài bài là thấy chán. Tất cả mới lạ trong tiếng
cười, dựa trên vai hai người: Hoàng Đạo trong văn và Nguyễn Gia Trí trong
tranh. Cả hai đều có óc sáng tạo phi thường. Nguyễn Gia Trí sẽ nói đến sau. Tác
phẩm hài hước có giá trị trong thời kỳ đầu tiên này là của Tứ Ly với Tuồng
cổ tân thời.
Tuồng
cổ tân thời, in trên 5 số Phong Hóa, bắt đầu từ
Phong Hóa số 38 (17-3-1933), đến số 42 (4-4-33), sau này bị Thanh Lãng lên án
với những lời tàn tệ: "Nhưng không ở đâu Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Khắc
Hiếu được mô tả một cách tồi tàn, gàn dờ, quê kệch, nhất là đê hèn như trong vở
tuồng "Tuồng cổ tân thời" (Xem chương Sự tiếp nhận Tự Lực văn
đoàn).
Thực
ra, đây là một tác phẩm độc đáo, soạn theo lối tuồng cổ, mô tả trận thư hùng
Tân-Cổ giao tranh: Một bên Hoàng tiên sinh oai phong lẫm lẫm, một bên là bọn
Phong Hóa nhố nhăng nổi loạn. Các vị tiền bối thua trận, chạy có cờ.
Không
phải Tứ Ly viết tuồng hú họa mà chơi, đây là một vở tuồng có nghiên cứu đàng
hoàng. Khái Hưng đã từng cho rằng: viết kịch là khó, khó nhất trong mọi thể
loại, vì tất cả đều ngụ trong lời nói. Viết tuồng có lẽ khó hơn, và viết Tuồng
Cổ, tức Hát Bội, còn khó hơn vạn bội. Vậy mà người thanh niên Tây học này, dám
xông vào Tuồng Cổ. Tức là ông phải nghiên cứu kỹ về tuồng cổ.
Tuổng
cổ
hay hát bội có hai điệu: một là cách nói và một là cách hát.
Cách
nói
cũng lại có hai điệu:
Hường
là những câu nói chính, phải thét to, đặt theo thể nói lối.
Tán
là những câu phụ, đệm cho những câu hường, nói nhỏ, đặt theo thể văn
xuôi.
Cách
nói
dùng vào những việc sau đây:
-
Giáo đầu: lời mở đầu của trùm phường, chào khán giả, tóm lược câu chuyện.
-
Xưng danh.
-
Nói chuyện hoặc kể việc.
Cách
hát,
cũng có hai điệu: hát Nam và hát Bắc.
Hát
Nam câu làm theo thể thơ song thất lục bát, thể văn riêng của ta.
Hát
Bắc, là những câu làm theo thể thơ, thể phú mượn của người Tầu.
Hát
Bắc dùng để đặt các câu: Bạch (lời nói của một vai mới ra trò, làm theo
thể thơ), Loạn (câu bổ ý, làm theo thể thơ hoặc phú), Xướng (trần
tình) làm theo thể phú, Than (tỏ tình bi ai, làm theo thể thơ. Ngâm
(là bài thơ, một vai đọc ra để tỏ tình mình)[1]
Hoàng
Đạo đã sáng tác vở tuồng cổ này theo đúng quy luật phức tạp của hát bội, và có
lẽ ông muốn nhại vở tuồng cổ Tân diễn Đệ bát tài tử hoa tiên ký của
Hoàng Tăng Bí.
Sân
khấu mở vào dinh cơ cụ Hoàng[2]
với hai vị tham mưu Tả Vĩnh, Hữu Hiếu, và mấy tên lâu la. Dưới đây xin chọn mấy
trích đoạn:
"Chủ
trại Hoàng Tăng Bí ra ngồi nghĩ việc quan.
Chủ
trại ngồi bạch tán: "Như ta nay: Hồng Hoàng chủ trại, tên gọi Hoàng
Tăng. Nặng đôi vai gánh chữ nho phong, bền một dạ ghi điều cổ lễ".
Thét:
Nhưng rứa mà, đất bằng nổi sóng, gây việc can qua, Phong Hóa đâu mới nẩy nòi
ra, đem hết thẩy mọi người công kích, đặng làm trò múa rối vui chơi. Văn ta
hay, cứ chế rỡn hoài, không hề thấy một lời khen tặng. Cười nhạt, nói:
ha ha! Thét hường: một đầm mấy con cá lớn, xổ lầu ngại lúc voi xô.
Tán:
Rứa như ta, từ thủa múa cây bút sắt, dư luận cầm cân, trong cẩm nang sẵn có mưu
thần, trừ Phong Hóa âu ta phải dụng a!"
Và
đây là chân dung Nguyễn Văn Vĩnh:
"Tả
tham mưu Nguyễn Văn Vĩnh ra bạch:
Người
đời thay ý kiến, như chong chóng quay – quay thế mà nghĩ cũng hay hay; tít mù
tắt hết ngày hết tháng.
"Tán:
Ta tên Văn Vĩnh, chủ báo Annam, đường văn minh đi bước tiên phong, tư tưởng mới
giốc lòng truyền bá.
Thét
hường: Rứa mà khi nhàn rỗi, còn thú đánh tổ tôm. Lại giỏi nghể bấm độn cát
hung, tìm long mạch cùng là xem số, quyết, đem tài thi thố mà phò chủ trại
Hoàng. Theo phương trâm "quốc túy bảo tồn", cho thiên hạ biết ta thủ
cựu."
Và
đây là Hữu tham mưu Nguyễn Khắc Hiếu:
"Hữu
tham mưu Hiếu rót rượu uống.
Tán:
"Say chuyếnh choáng non xanh còn chẳng thấy, thời mưu cao kế diệu biết đâu
tìm, hay bây giờ bọn ta hóa ra chim, theo giấc mộng bay về nơi tiên cảnh, hay
bây giờ ta đem rượu cúc rử quân thù đặng chén say sưa, bao giờ cho say đứ say
đừ, khi ấy sẽ ra tay trừ khử!"
Nói
đến đây, Hữu tham mưu túy lúy, gục xuống bàn không còn biết gì nữa. Chủ trại
nhìn hữu tham mưu ra ý thương hại. Ngâm:
Thử
thị Đà-giang phi Xích-Bích
Dã
vô Gia-Cát giữ Chu Lang"
Sau
khi giới thiệu các nhân vật và sự bàn bạc chiến lược dẹp quân thù bên Hoàng
trại chủ, đến phần II, mới nói đến bên Phong Hóa: Tứ Ly ngồi chễm chệ trên
thành hút thuốc lá, đội mũ Khổng Minh, còn Nhát Dao Cạo (Khái Hưng) oai phong
cầm bút thần ra giao chiến:
Nhát
Dao Cạo ra khiêu chiến:
"Như
ta nay:
Tán:
Sắc như nước, bóng như gương, ngọn bút thần soi mới bả văn chương, lấy giao,
cạo những lời vô nghiã.
Bớ
bọn kia: Chẳng biết thân ván cùn bút rỉ, dám khoe khoang mẫn thế ưu thời. Điều
lỗi lầm ta vạch mắt cho coi, lời chỉ giáo như nước trôi đầu vịt".
Các
vị đầu lĩnh bên Hoàng trại chủ sợ mất vía, chẳng ai dám ra tỷ thí, có Nguyễn
Phùng liều mạng, được vài hèo, thua chạy có cờ, phu nhân bèn ra tiếp sức:
"Cô
Việt An, than:
Chàng
ôi, tài thao lược chàng còn phải chạy, tài mọn này thiếp đâu dám xông pha, âu
là ta nên trở lại nhà, duyên văn tự từ rầy thôi hết dám.
Nhát
Dao Cạo đứng ngâm:
Anh
hùng đáng mặt anh hùng.
Việt
An mất viá, Nguyễn Phùng rẽ cương.
Hỏi
ai còn dám tranh cường.
Còn
ai dám viết văn chương lạ đời".
Nguyễn
Công Tiễu nhân danh nhà khoa học, liều chết xông ra, cũng chỉ được vài hèo rồi
thua chạy. Lê Công Đắc liều mình tiếp chiến.
Việt
Sinh ra bạch:
Anh
Nhát Dao Cạo! hãy dừng tay lại, để mỗ ra tài.
Lê
Công Đắc và Việt Sinh giao tranh, Đắc thua chạy.
Việt
Sinh đứng tán:
Ngẫm
xem cuộc thế như đám mây chiều, gió chạy mây theo, thiên hình vạn trạng. (…)
Ngâm:
Lò
cừ nung nấu sự đời
Bức
tranh vân cẩu vẽ người tang thương
Nguyễn
Tiến Lãng ra bạch- Thét
Bớ
Việt Sinh! Ai khiến mi thương, ai cầu mi sửa.
Như
ta đây hay than hay thở, trông hoa xoan rụng lòng ta không nỡ, thấy ve sầu kêu
nước mắt khó cầm, thì sao ngươi không cứ mặc ta khóc thầm, mặc ta kéo thiếu
niên vào cõi đời sầu khổ."
Vở
kịch viết theo đúng quy luật tuồng hát bội. Chữ nghiã đối chát. Cách mô tả nhân
vật gần như toàn bích:
Hoàng
Tăng Bí: Nặng đôi vai gánh chữ nho phong, bền một dạ ghi điều cổ lễ.
Nguyễn
Văn Vĩnh: Đường văn minh đi bước tiên phong, tư tưởng mới giốc lòng truyền
bá.
Tản
Đà: Say chuyếnh choáng non xanh còn chẳng thấy, thời mưu cao kế diệu biết
đâu tìm.
Khái
Hưng: Sắc như nước, bóng như gương, ngọn bút thần soi mới bả văn chương, lấy
dao, cạo những lời vô nghiã.
Tứ
Ly vẽ chân dung tài tình gần được như… Nguyễn Du. Tác phẩm giễu cái cổ nhưng
phục tài người cũ. Dùng biền ngẫu để nhại biền ngẫu: gậy ông đập lưng ông. Lấy
giọng các cụ bỏ miệng các cụ để các cụ tự giễu, đó là lối cưỡng bách tự trào,
có hiệu ứng công phá mãnh liệt.
Tứ
Ly mở đầu lối hài hước độc đáo bằng tuồng hát bội, hình thức này chưa có ở Việt
Nam lúc bấy giờ. Tuồng cổ tân thời trở thành "cổ điển" ngay từ
khi mới ra đời, ngày nay chúng ta đọc vẫn còn thích thú. Thích hơn đọc tuyệt
tác Sơn hậu:
"Phàn
Định Công bạch:
Xuống
xa so đức Thuấn
Lên
vai nối nhân Nghiêu
Dân
không lời kẻ ức kêu vang
Ngục
chẳng tiếng người oan than khóc"
Nguyễn
Tường Long dùng hai bút hiệu chính: Tứ Ly (mặc dù là) giờ xấu nhất, quyết đứng
lên cải tổ Phong Hóa, và Hoàng Đạo (giờ tốt nhất) để phụng sự Ngày
Nay. Còn tên thật Tường Long biến thành Tòng Lương, Tùng Lương hoặc Tứ
Linh, Tống Sĩ…
Tứ
Ly-Hoàng Đạo là người có tư tưởng canh tân nhất về mọi phương diện trong Tự Lực
văn đoàn. Nhưng phải đợi đến khi Phong Hóa bị đóng cửa; uất ức, Tứ Ly mới trở
thành Hoàng Đạo, lý thuyết gia của Tự Lực văn đoàn và Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Trong
Tứ Ly còn có chữ Tứ, ý chỉ người con thứ tư trong gia đình Nguyễn Tường. Trên
Phong Hóa số 17 (13-10-1932) khi Khái Hưng ký tên Nhị Linh, để công nhận Nhất
Linh là chủ soái văn đoàn, thì Nhất Linh cũng vội ký tên Tam Linh, để tỏ ý mình
là em đứng sau Nhị Linh. Hoàng Đạo, ký tên Tứ Linh, trên Phong Hóa số 20
(4-11-1932) xác nhận mình là em hai vì sao bắc đẩu. Tất cả những tế nhị này
chứng tỏ, họ không màng chiếu trên chiếu dưới, họ sống với nhau trong tình
huynh đệ tương kính, và khi Nhất Linh cho Khái Hưng một đứa con, thì sự kết
nghĩa trở thành thiêng liêng, cao thượng. Và họ ở với nhau như vậy, trọn đời.
Thạch
Lam
Vào
làm việc ở Phong Hóa ở tuổi 22, Việt Sinh làm phụ tá cho chủ bút Khái Hưng
trông coi bài vở, đọc, lựa, trả lời thư độc giả, viết tin thời sự hàng tuần[3],
sau điểm báo và điểm sách xen kẽ với Lê Ta (Thế Lữ), nhưng ông đã học nghề văn
bằng cách viết phóng sự.
Nguyễn
Tường Lân, bắt đầu viết trên Phong Hóa từ số 14, ký T.L [Tường Lân viết tắt],
từ Phong Hóa 15, ký Việt Sinh. Đến Phong Hóa số 98 (18-5-34), lần đầu tiên ký
tên Thạch Lam dưới một bài điểm báo. Và đến Phong Hóa số 109 (3-10-34),
số đặc biệt có chủ đề Sóng lam cát trắng, bút hiệu Thạch Lam được ký
dưới bài tùy bút đầu tiên Sóng lam cát trắng và bài tạp bút Bên làn
sóng, mô tả cảnh và người tắm bể Đồ Sơn.
Văn
bản đầu tiên, in trên Phong Hóa số 14 (22-9-32) là Lệ Hồng quyên sinh,
ký tên T.L, kể chuyện cô Lệ Hồng suốt ngày chỉ buồn rầu nghĩ đến tự tử, bắt đầu
bằng câu:
"Lệ
Hồng đã ngoài đôi mươi, lúc nào cô cũng buồn, nét mặt đăm đăm như chìm đắm vào
trong một thế giới đầy những gió trăng hoa mộng, riêng cái sác [xác]
thịt còn vướng víu đến cõi trần bạc bẽo vô duyên này. Từ đó, cô mới có cái ý
tưởng lìa sác thịt bay lên thế giới mộng ảo. Cho được như ý muốn, chỉ có quyên
sinh".
Lệ
Hồng bốn lần quyên sinh không chết: lần đầu, cô mua hoa hồng về chất đầy phòng,
sáng sau ngủ dậy vẫn thấy mình chưa chết. Lần thứ hai, cô mua thuốc phiện về
nếm thử, thấy đắng quá, vứt đi. Lần thứ ba cô ra hồ Hoàn Kiếm định trầm mình,
trông nước xanh lè, rêu bám thành váng có mấy con đỉa lượn lờ, sợ quá, sợ điả,
sợ rét, cô lại không biết bơi, đành về nhà, mắc dây lưng lụa lên cửa sổ, thòng
cổ vào, nhưng dây đứt, cô rơi xuống đất khá đau…
Lúc
đó, Phong Hóa phát động chiến dịch chống sầu thảm, Thạch Lam tiếp tay Khái Hưng
với bài xã luận Sầu thảm nhiều rồi, ký tên Việt Sinh, chủ trương
"quét sạch" sầu thảm bằng tiếng cười trên Phong Hóa số 15 (29-9-32).
Sau đó, ông viết truyện ngắn thứ hai Nữ sĩ Lệ Hoa (Phong Hóa số 16,
6-10-32) ký tên Việt Sinh, để chế giễu cô Lệ Hoa, chỉ viết truyện bi thảm bịa
đặt.
Hai
truyện ngắn Lệ Hồng quyên sinh và Nữ sĩ Lệ Hoa là bài tập, chưa
có gì đáng kể.
Bài
ký Một năm Cao đẳng, in trên Phong Hóa từ số 17 (13-10-32) đến số 23
(25-11-32), khá hơn, viết về giai đoạn học trường Canh Nông, cho thấy mấy nét
đặc biệt của Thạch Lam: Chú ý đến chi tiết, đến hoàn cảnh, đến thái độ của bạn
cùng lớp, đến cử chỉ, sự vui buồn của họ… Tuy lời văn còn vụng về, nhưng sự
thành thực và óc quan sát đã có trong bài ký này.
Hà
Nội ban đêm
Ngòi
bút Việt Sinh nổi trội hơn với loạt phóng sự dài Hà Nội ban đêm viết
chung với Tràng Khanh (từ Phong Hóa số 37, 10-3-33 đến Phong Hóa số 60,
18-8-33). Theo Nguyễn Tường Bách thì Tràng Khanh là một người bạn hay đi chơi
đêm, về kể chuyện cho Việt Sinh viết lại.
Hà
Nội ban đêm bộc lộ khuynh hướng xã hội của Thạch
Lam: người thanh niên 23 tuổi đã cúi xuống thân phận tối tăm của những cô gái
điếm: phần lớn đều là gái quê, muốn trốn cuộc hôn nhân ép buộc, hoặc bị lấy
chồng tàn tật, bị sở khanh quyến rũ rồi bỏ, bị đối xử tàn nhẫn trong gia đình,
bị những mụ tú bà tân thời dụ dỗ ra tỉnh để được mặc áo đẹp, lấy chồng sang…
Bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu cảnh đời, khi ngang trái, khi giả tạo, dối
gian… Tác giả vén màn lên nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống nhà săm
[chambre] ổ điếm, cách tiếp khách của mỗi "tổ chức", mỗi tú bà, cả
những "nạn nhân" cũng sáng tạo nhiều thủ đoạn để rút tiền khách làng
chơi. Hà Nội ban đêm là bức tranh đen tối đầu tiên về Hà Nội ngàn năm
văn vật. Thạch Lam đã nhận được những lời phê phán gắt gao vì dám "bôi
nhọ" Hà thành.
Ở
đây xin nói qua về lịch sử văn phóng sự: Tam Lang bắt đầu với phóng sự Tôi
kéo xe, in trên Ngọ Báo khoảng tháng 6-1932. Lúc đó Phong Hóa số 1 mới ra
đời. Chín tháng sau, Việt Sinh bắt đầu phóng sự Hà Nội ban đêm trên
Phong Hóa số 37 (10-3-1933) và hơn năm sau, Vũ Trọng Phung viết Cạm bẫy
người trên Nhật Tân số 2 (9-8-1933). Đó là những phóng sự đầu tiên, với ba
phong cách hoàn toàn khác nhau, đều chiếu vào những khía cạnh đen tối nhất của
xã hội: Tam Lang lật mặt trái nghề kéo xe. Việt Sinh chiếu vào ngõ ngách của
nghề làm điếm và Vũ Trọng Phụng điều tra nghề cờ bạc bịp.
Sáng
tạo thể văn tuỳ bút
Tình
cờ Việt Sinh (Thạch Lam) trở thành người sáng tạo ra tùy bút hiện đại.
Việt
Sinh được Nhất Linh chỉ định (hay tự chọn) viết phóng sự? Không thể biết được.
Nhưng,
như ta sẽ thấy, phóng sự của Thạch Lam khác hẳn với các loại phóng sự khác cùng
thời, nó là một thứ tuỳ bút văn chương.
Ngay
từ Phong Hóa số 33 (10-2-33) phóng sự Trên đồi Lim, ngày giỗ Tổ đã hiện
dần những nét riêng của Thạch Lam. Ngày 13 tháng giêng là ngày giổ Tổ (Hùng
Vương), được tổ chức ở cả một vùng đồi Lim. Dân thành thị, thôn quê đổ về xem
hội, quần áo quê, tỉnh, mỗi kiểu một vẻ. Họ về xem các cuộc chơi: con gái, đánh
đu, hát đúm. Tiếng hát là ngôi sao sáng của ngày hội:
"Ai
nấy yên lặng một lát, lắng tai nghe Tiếng hát cất lên dịu dàng, thong thả – các
cô con gái nhìn nhau, con mắt say sưa, bao nhiêu tinh thần đều để vào câu hát,
các cô ngâm dài ra và gióng tiếng cho đều:
Hỡi
người nhân tình đấy ơi…
Áo
hoa ướt đầm, này ấy, ai ơi…giòng nước xuôi…
Tiếng
hát khi lên cao, xuống thấp, trong và sang sảng, ngân dài ra như dư âm văng
vẳng của tiếng chuông…"
Bài
phóng sự được Đông Sơn (Nhất Linh) minh họa, cho thấy cảnh hội bầy ra trước
mắt, đông vui, tình tứ, từ sáng đến chiều. Bỗng trời đêm giáng xuống, mọi sự
thay đổi, nhẹ nhàng trắng biến thành đen:
"Trời
đã bắt đầu gần tối, sương mù xuống bao bọc lấy đồi Lim làm tiếng nói nghe như
khẽ và xa. Còn cô con gái thấy đứng một mình là nguy hiểm, cứ quanh quẩn sát
lấy nhau, kéo khăn vuông lên rồi thu hai tay vào bọc đứng yên lặng.
Trong
bóng tối nhấp nhoáng, ta lại thấy bóng người sô đẩy nhau, một cô hàng cá bị hai
người chòng ghẹo, gỡ mãi không ra, thúng cá đổ tung, mấy con cá giếc lấp lánh
sáng trên cỏ ướt sương.
Trong
cái không khí yên lặng của đêm xuân đầm ấm, ta nghe thấy tiếng thì thầm to nhỏ,
tiếng quần áo sột soạt, những lời âu yếm van xin, thỏ thẻ trong sương mù…"
Tất
cả nhạy cảm và tế nhị của Thạch Lam đã hiện ra trong câu văn ngắn ngủi này: Lợi
dụng bóng đêm, phần tối của con người hiện ra, đồng loã, trong không gian hững
hờ, trong bất lực hoàn toàn của mấy con cá giếc nhỏ bé, vô tội.
Không
một nhà báo viết phóng sự nào làm như thế, bởi vì họ chưa phải là nhà văn.
Phong
Hóa số 34 (17-2-33) có bài Nghe hát quan họ một đêm ở Lũng giang: tiếp
tục sau một ngày trẩy hội, đêm về nghe hát đúm. Việt Sinh vẫn không viết phóng
sự như mọi người, nghiã là như một nhà báo chép lại các sự kiện mình thấy, mà
ông viết với ngòi bút của một nhà văn nhạy cảm, lắng nghe từng tiếng động, từng
hơi thở, chụp lại từng bức tranh, bởi ông chú ý đến thân phận con người, đến
cảnh sống của những cô gái quan họ, ông đến đó để tìm hiểu và ghi lại tâm sự,
nỗi buồn của họ.
Tiếp
đó, tới Phong Hóa số 77 (15-12-33), Việt Sinh sáng tạo ra ra một loại phóng sự
khác, trong bài Xoè của các cô nàng, viết về múa Xoè của người Mường ở
Hoà Bình. Ông cho biết: hai anh em ông Đinh Công Nhiếp và Đinh Công Niết, Chánh
quan lang đã lấy điệu "múa xòe giải lụa" ở vùng Phong Thổ, dạy các cô
Mường Hoà Bình:
"Xoè
giải lụa" hay là "múa quạ" đều chú trọng vào cái vẻ linh động
của giải lụa mùi hay cánh quạt mở ra gấp lại cho khéo, giống như cánh con bươm
bướm chờn vờn trên bông hoa. (…) Nếu ta là khách quý lên chơi chốn quê hương
các cô nàng, các cô nàng sẽ đem những điệu múa ấy ra mừng, tay tung giải lụa,
miệng chúm chím ca:
"…Chào
quan như ngọc lư ly…
Như
tiên hạ giới biết đi đằng nào…
Chào
quan như tấm lụa đào…
Như
tiên hạ giới, như sao trên giời…
Chào
quan có bấy nhiêu lời…
Như
tiên hạ giới, như người trên cung…
Bấy
nhiêu lời cũng đủ diễn cho ta biết cái thi vị lạ lùng u uẩn của vùng đồi cây
rậm, của những suối réo dưới khe đá hay những rừng sim rộng rãi bao la mà chiều
chiều, các cô nàng đeo giỏ đi hái hoa. Không phải vì nghiã lý của câu hát,
nhưng vì cái giọng hát thanh thanh mà nhẹ nhàng, buồn bã mà lạnh lùng, như
tiếng vượn kêu trong rừng khuya."
Nhưng
tiếc thay: "Sau khi biểu diễn trước Hoàng Thượng, thấy công chúng hoan
nghênh, ông Đinh Công Huy [cựu Án sát tỉnh Hoà Bình] mang các cô nàng
lên sân khấu rạp Quảng Lạc diễn lấy tiền giúp… hội Quảng Lạc. Rồi bọn xòe ấy có
lẽ đi Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, diễn như một ganh hát tuồng!"
Việt
Sinh luôn luôn nhẹ nhàng, se sẽ luồn vào hồn ta những nhận xét có vẻ hững hờ mà
đớn đau như thế. Trong bài Phong dao Mường (Phong Hóa số 78, 22-12-33),
ông sưu tầm được bài Mười yêu của người Mường, âu yếm và tha thiết hơn
bài Mười thương của người Việt:
Một
yêu khăn lượt vòng giây,
Hai
yêu yêu cả đôi giầy bàn chân.
Ba
yêu xé lụa may quần.
Bốn
yêu xé nhiễu may chăn đắp cùng
Năm
yêu yêu lạ yêu lùng.
Sáu
yêu em muốn cùng chung một nhà,
Bẩy
yêu phận đẹp duyên hòa,
Tám
yêu yêu cả mẹ cha nhà chàng…
Chín
yêu se sợi chỉ vàng,
Mười
yêu chỉ cốt lấy chàng mà thôi!"
Và
đây là lời anh chàng bị người yêu phụ tình:
"Yêu
em em nỡ lấy chồng
Để
anh về chốn nhà không anh chờ
Chờ
em biết đến bao giờ
Quạ
kêu khe suối, giăng mờ đầu non…"
Các
cô Mường đều nói được tiếng Việt nên không có sự "bất đồng ngôn ngữ"
Bài
Xoè của các cô nàng pha trộn văn chương và nghiên cứu, cho thấy nhà biên
khảo có thể nhận xét vũ điệu bằng con mắt nhà thơ, để tạo ra một thể văn mới,
đó là tùy bút văn chương. Thạch Lam đã ảnh hưởng sâu sắc đến tùy bút Nguyễn
Tuân sau này, đặc biệt khi ông viết bài Xòe trong tập tuỳ bút Sông
Đà (1960).
Đầu
năm 1935, khi Nhất Linh quyết định ra báo Ngày Nay, ông giao cho Nguyễn Tường
Cẩm, người anh, làm chủ nhiệm và Thạch Lam làm chủ bút (số 1 ra ngày 30-1-35),
Thạch Lam không phải phụ trách những mục thường xuyên như viết tin hàng tuần,
điểm báo, điểm sách nữa, mới có thì giờ và tự do hơn trong công việc, có điều
kiện để mở rộng tài năng của mình trên ba phương diện:
-
Trở thành cây bút chuyên về mỹ thuật của Tự Lực văn đoàn.
-
Viết truyện ngắn giá trị đầu tiên: Đói.
-
Thực hiện phóng sự lịch sử: Bóng người Yên Thế.
để
mở đầu cho thời kỳ phóng sự trên báo Ngày Nay, với những ngòi bút: Nhất
Chi Mai (Thế Lữ), Tường Bách (em út Nhất Linh) và nhất là Trọng Lang, người sẽ
trở thành cây bút số một về phóng sự của Ngày Nay. Chúng tôi sẽ nói đến giai
đoạn này trong một chương sau.
Đói,
là truyện ngắn đầu tiên của Việt Sinh trên Ngày Nay, xuất hiện một lối viết
mới: hiện thực tâm lý xã hội: "Cơn đói lại sôi nổi dạy như cưa ruột, xé
gan, mãnh liệt át hẳn cả nỗi buồn… Sinh thấy người lả đi, mệt nhọc dựa vào lưng
ghế… chàng muốn chống cự lại, muốn quên đi, nhưng không được, cái cảm giác đói
đã lan cả khắp người như nước triều tràn trên bãi cát… Mỗi lần cơn gió, mỗi lần
chàng ngửi thấy mùi ngậy béo, cái mùi thơm của chiếc bánh cóng… Mũi tự
nhiên nở ra, hít mạnh vào, cái mùi thơm thấu tận ruột gan, như thấm nhuần vào
xương tuỷ".
Bây
giờ ta tưởng là thường, nhưng đó chính là những chữ quốc ngữ đầu tiên soi vào
lục phủ ngũ tạng con người bị cái đói hành hạ, những chữ của một kẻ xẻ ruột để
tìm xem, trước cái đói, còn có cái gì quan trọng hơn, như thể diện, nhân
cách?
-
Không. Tất tất cả mọi vấn đề khác đều không còn giá trị gì. Chỉ một cái đói
bao trùm, làm chủ, nó xuyên suốt tâm hồn và thể xác. Đó là tuyệt phẩm đầu tiên,
in trên Ngày Nay số 7 (5-4-35) và số 8, (16-4-35), định vị Thạch Lam trong Tự
Lực văn đoàn và trong văn học Việt.
(Còn
tiếp)
Thụy Khuê
thuykhue.free.fr
[1]
Theo Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Bộ Quốc Gia giáo dục
xuất bản, 1960, trang 163-166.
[2]
Cụ Hoàng Tăng Bí, (1883-1939), một trong những nhà nho sáng lập trường Đông
Kinh Nghiã Thục; sau cộng tác với Trung Bắc Tân Văn.
[3]
Theo Thế Lữ, Lê Ta làm báo, Phong Hóa số 103 (22-6-34) đến Phong Hóa số
113 (31-8-34).
Nguồn: Văn Việt