Sự
hình thành nền văn học quốc ngữ
Muốn
hiểu Tự Lực văn đoàn đã làm được những gì cho nền văn học quốc ngữ, ta phải xem
lại tình trạng nền văn học này, trước khi có Tự Lực văn đoàn, sau đó mới có thể
trả lời câu hỏi: Tự Lực văn đoàn đã làm được gì cho nền văn học quốc ngữ.
Ai
cũng biết, tiếng Việt là tiếng nói của dân tộc từ thời tiền sử đến ngày
nay. Tiếng Việt còn được gọi là Quốc âm. Để ghi lại quốc âm, ta có hai
cách: hoặc dùng chữ Nôm (mượn dạng chữ Hán) hoặc dùng chữ Quốc ngữ (mẫu tự La
tinh).
Văn
tự chính thức được dùng trong nước từ xưa vẫn là chữ Hán đến đầu thế kỷ XX.
Chữ
nôm, bắt đầu có từ cuối đời Lý, đến đầu đời Trần (thế kỷ XII) được Hàn Thuyên
phổ biến; trở nên thịnh hành đầu đời Lê, với Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi và Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông. Chữ nôm đã từng được
làm văn tự chính thức dưới thời nhà Hồ (thế kỷ XV) và nhà Tây Sơn (thế kỷ
XVIII), nhưng sang nhà Nguyễn, chữ Hán trở lại địa vị chính thống.
Văn
chương chữ nôm bắt đầu thịnh hành với Nguyễn Trãi (1380-1442), đạt đỉnh cao
nghệ thuật với Nguyễn Du (1766-1820), nhưng hầu như toàn bộ sáng tác chữ nôm
của ta là những áng văn vần. Đó là tình trạng của nhiều nước, không riêng gì
Việt Nam. Có lẽ vì văn vần dễ nhớ, người biết chữ hay không biết chữ cũng có
thể thuộc được.
Khi
Pháp xâm chiếm nước ta, Nam Kỳ trở thành thuộc địa trước tiên. Năm 1867, Pháp
chiếm xong Nam Kỳ. Năm 1878 chữ quốc ngữ trở thành văn tự chính thức, sau tiếng
Pháp. Năm 1915 là năm cuối cùng có thi Hương ở Bắc, và năm 1918, khoa thi Hương
cuối cùng ở Huế.
Pháp
chủ trương loại bỏ chữ Hán để thay dần bằng chữ Pháp, học trò bậc tiểu học, mỗi
tuần học 2 giờ chữ Hán, 12 giờ Pháp văn, không được học chữ Nôm, phải học chữ
quốc ngữ.
Chữ
quốc ngữ, dùng ngữ tự La tinh, đối vối người Pháp dễ nhận mặt chữ, dễ
"đọc" và dễ học hơn chữ nôm, đã được các nhà truyền giáo Dòng Tên Bồ
Đào Nha và các thầy giảng người Việt đặt ra từ thế kỷ XVII.
Trần
Văn Chi, người đã đọc Gia Định Báo, tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, cho
biết:
"Tên
gọi chữ quốc ngữ [thấy] lần đầu tiên vào năm 1867
trên Gia Định báo. Tiền thân của tên gọi này là chữ Tây quốc ngữ. Về sau
từ Tây bị lược khỏi tên gọi để chỉ còn lại là chữ quốc ngữ, có nghĩa là
văn tự tiếng Việt"[1].
Chữ
Tây quốc ngữ, bốn tiếng này cho chúng ta hiểu rõ sâu
xa nguồn gốc thứ chữ mà dân ta bị ép buộc phải học, và tại sao các nhà văn hóa
thời ấy, dù chống lại thứ chữ "ngoại lai" này, nhưng họ vẫn phải xây
dựng nó thành "chữ nước ta", như lời giải thích của Phạm Quỳnh, phát
biểu ở Pháp năm 1922, mà chúng ta sẽ thấy ở dưới.
Theo
linh mục Đỗ Quanh Chính, giáo sĩ Francesco de Pina là người Âu đầu tiên nói
thạo tiếng Việt, ông theo cách ghi tiếng Nhật của các giáo sĩ Dòng Tên ở Nhật,
để viết tiếng Việt theo mẫu tự la tinh a, b, c… Từ năm 1620, các tu sĩ Dòng Tên
tại Hội An đã soạn thảo một cuốn sách giáo lý bằng "chữ Đàng Trong".
Chính Francesco de Pina đã dạy Alexandre de Rhodes tiếng Việt khi ông này đến
Đà Nẵng tháng 12/1624. Ngày 15/12/1625 Francesco de Pina bị chết đuối ở Vịnh Đà
Nẵng, thi hài ông được đem về chôn tại Đà Nẵng. Alexandre de Rhodes, dựa vào tư
liệu de Pina để lại và dùng hai bộ từ điển của Amaral và Barbosa để soạn bộ Từ
điển Việt Bồ La (Roma, 1651). Vẫn theo linh mục Đỗ Quang Chính, hai văn bản
bằng quốc ngữ, sớm nhất, của người Việt, được biết đến là của thầy Văn Tín, và
thầy Benito Thiện với Lịch sử nước Annam 1659)[2].
Nói
như vậy, không có nghiã là các giáo sĩ người Âu và các thầy giảng người Việt đã
soạn xong thứ chữ quốc ngữ mà chúng ta dùng ngày nay.
Chữ
quốc ngữ của các nhà truyền giáo – còn phôi thai, nghèo nàn, thô thiển, chỉ
dành cho giáo sĩ người Âu mới đến Việt Nam học để giảng đạo – không đủ chữ
để diễn tả việc đời, việc người, thiếu những danh từ văn chương, khoa học,
triết học. Cho nên ban đầu, dù không muốn học thứ chữ "ngoại lai" ấy,
dân ta vẫn bắt buộc phải xây dựng một nền quốc văn bằng quốc ngữ để thay
thế cho nền văn học Hán-Nôm đã bị sa thải, như đã nói ở trên.
Việc
xây dựng chữ quốc ngữ thành một ngôn ngữ toàn diện, bình dân và bác học
như ngày nay, là nhờ công lao của người Việt, những học giả, nhà văn như Trương
Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký… trong những năm cuối thế kỷ XIX, và
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh nối tiếp đầu thế kỷ XX, chính họ đã góp phần hình
thành và xây dựng chữ quốc ngữ hiện đại với những mốc đầu tiên:
1876
xuất hiện bài ký Chuyến đi Bắc Kỳ của Trương Vĩnh Ký, hai năm trước khi
chữ quốc ngữ trở thành văn tự chính thức ở trong Nam.
1887
tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản ra đời.
1895
phát hành Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, cuốn từ điển đầu
tiên bằng chữ quốc ngữ của Việt Nam (soạn từ 1889 đến 1893, in 1895).
Bởi
vì Nam kỳ phải dùng chữ quốc ngữ trước, nên người Việt trong Nam phải tập
viết quốc ngữ trước. Trong giai đoạn đầu, Trương Vĩnh Ký – Huỳnh Tịnh Của
đã có công khai phá, sửa cách viết quốc ngữ của các giáo sĩ Dòng Tên cho chính
xác hơn. Trương Vĩnh Ký soạn sử, viết truyện cổ tích, bằng thứ chữ quốc ngữ
bình dân, thuần Việt, để ai cũng có thể học và hiểu nhanh chóng. Huỳnh Tịnh Của
soạn từ điển. Về mặt sáng tác, Nguyễn Trọng Quản đi tiên phong với tập truyện
vừa Truyện thầy Lazaro Phiền, in năm 1887.
Giáo
sư Nguyễn Văn Trung là người đầu tiên đã khám phá ra Nguyễn Trọng Quản (Truyện
thầy Lazaro Phiền do Vương Hồng Sển cung cấp cho ông) và báo chí, văn
chương quốc ngữ phát xuất từ miền Nam, trong bộ Hồ sơ Lục Châu học, soạn
trong thập niên 1980-90, viết xong cuối năm 1990. Bản in ronéo bộ sách này được
chuyền tay hơn 20 năm trong giới nghiên cứu, nhiều người sử dụng nhưng không đề
xuất xứ. Mãi tới năm 2015, mới được in thành sách (nhà xuất bản Trẻ). Sự khám
phá của Nguyễn Văn Trung đã làm thay đổi toàn diện quan niệm văn học sử từ
trước đến giờ. Bởi vì, trước đó, các nhà nghiên cứu – phần lớn là người Bắc –
đã bỏ qua mảng văn học quan trọng này và xác định Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách (viết 1922, in 1925) là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên.
Trương
Vĩnh Ký (1837-1898)
Học
giả Trương Vĩnh Ký xứng đáng với danh vị nhà trí thức đầu tiên đã xây dựng nền
móng cho Việt học bằng chữ quốc ngữ. Vừa là nhà văn, nhà biên khảo, nhà phê
bình, uyên bác cả Hán học lẫn Tây học, ông đã giữ địa vị bắc cầu giữa quá khứ
Hán Nôm và nền văn học quốc ngữ. Ngoài việc làm từ điển Pháp-Việt, Việt-Pháp,
viết sách sử ký, địa dư, sách về ngữ học, chú trọng đến các vấn đề mẹo, luật
trong tiếng Việt, tiếng Pháp; Trương Vĩnh Ký còn phiên âm, phiên dịch, chú giải
những sách cơ bản từ chữ Nôm, chữ Hán sang chữ quốc ngữ. Ông đã phiên âm: Việt
Nam quốc sử diễn ca, Kiều, Lục Vân Tiên, Phan Trần, Gia huấn ca,
v.v. và phiên dịch: Minh tâm bửu giám, Tam tự kinh, Trung Dung, Đại Học,
v.v.
Về
văn, Trương Vĩnh Ký khai sinh lối viết "bạch thoại", tự nhiên và sống
động như lời nói, khác hẳn với lối văn biền ngẫu của người đương thời, mà sau
này Hồ Biểu Chánh, Vương Hồng Sển chịu ảnh hưởng và đưa vào văn học.
Tờ
báo quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam, do chính quyền thuộc địa sáng lập ở Nam Kỳ
năm 1865 là tờ Gia Định báo, do Ernest Potteaux đứng tên, Trương Vĩnh Ký làm
chánh tổng tài và Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút, với sự cộng tác của Tôn Thọ
Tường, Trương Minh Ký. Sau này người ta buộc tội Trương Vĩnh Ký và Phạm Quỳnh
"phản quốc" vì họ làm báo cho Tây. Chúng ta nên biết trong thời kỳ
ấy, không có có tờ báo nào là không do Tây "làm chủ " vì chỉ Tây mới
được quyền đứng tên chủ báo và được chính phủ thuộc điạ công nhận. Nếu Trương
Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh không làm báo cho Tây, thì
chúng ta không có nền văn học quốc ngữ như ngày nay.
Sang
thế kỷ XX, báo chí trong Nam bắt đầu với tờ Nông cổ mín đàm của
Canavaggio, với Lương Khắc Ninh chủ bút, số 1 ra ngày 1-8-1901. Trong số 1 này,
bắt đầu đăng bản dịch Tam Quốc Chí của Trương Vĩnh Ký. Nông cổ mín đàm
phát hành với số lượng nhỏ vào những năm đầu. Theo lời rao in trên số 96
(2-7-1903) thì Nông cổ mín đàm có 350 người mua. Tiếp đến là Đại Việt
tân báo (1905) của Ernest Babut do Đào Nguyên Phổ chủ bút. Rồi Lục tỉnh
tân văn (1909) của Pierre Jeantet, do Trần Nhất Thăng, Trần Chánh Chiếu…
thay phiên nhau làm chủ bút.
Điều
đáng chú ý là sự phát triển của báo chí và văn học quốc ngữ, đi cùng với ý
nguyện viết lịch sử và tiểu thuyết lịch sử. Bài viết bằng chữ quốc ngữ sớm nhất
còn lưu lại của Benito Thiện năm 1659 ở ngoài Bắc là bài Lịch sử nước Annam.
Rồi năm 1822, trong Nam có truyện Annam Đàng Trong Đàng Ngoài của T.
Bỉnh. Sau đó Trương Vĩnh Ký viết một loạt sách sử bằng tiếng Pháp cho học trò
các trường Bảo hộ, đến năm 1915 xuất hiện trường thiên tiểu thuyết lịch sử Gia
Long tẩu quốc của Tân Dân Tử.
Phải
chăng việc phát triển sách lịch sử ở thời kỳ văn học quốc ngữ phôi thai, chính
là khuynh hướng yêu nước, xuất hiện dưới hình thức gián tiếp, của các nhà văn
hóa đương thời?
Giai đoạn sau, từ 1915 trở đi, sự phát triển nền văn học quốc ngữ xẩy ra một cách toàn diện trên mọi thể loại: Thi ca, tiểu luận, phê bình và tiểu thuyết[3].
Khi
Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của qua đời vào những năm cuối cùng thế kỷ XIX
(Huỳnh Tịnh Của mất năm 1897, Trương Vĩnh Ký mất năm 1898) nền văn học quốc
ngữ, mà hai ông đã góp phần xây dựng những viên gạch đầu tiên, sẽ khởi sắc
trong những thập niên đầu thế kỷ XX, với những tên tuổi mới như Nguyễn Văn
Vĩnh, Phan Khôi, Tản Đà, Phạm Quỳnh…
Về
tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh trong Nam, rồi tiếp đến Tự Lực văn đoàn ngoài Bắc là
những "tác nhân" chính đã đổi mới và hoàn chỉnh nền văn chương
quốc ngữ như chúng ta có hiện giờ.
Hồ
Biểu Chánh (1985-1958)
Từ
những thế kỷ trước, chúng ta đã có những bài văn, những tác phẩm, gọi là truyện
ký hay truyện kỳ, như Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, rồi đến
những truyện nôm viết bằng thơ như Trê Cóc, Trinh Thử… đến Hoa Tiên,
Song Tinh, Kiều, Lục Vân Tiên, v.v. hoặc tiểu thuyết lịch sử như Nam
triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí…
Đầu
thế kỷ XX xuất hiện nhiều lịch sử tiểu thuyết ở trong Nam, như Phan Yên
ngoại sử của Trương Duy Toản (1910), Hoàng Tố Oanh hàm oan của Trần
Thiên Trung tức Trần Chánh Chiếu (1910), Gia Long tẩu quốc của Tân Dân
Tử (1915) v.v.
Năm
1912, Hồ Biểu Chánh viết Ai làm được, tác phẩm tiểu thuyết làm thay đổi
hẳn cục diện văn chương, trên ba bình diện:
1-
Đây là cuốn tiểu thuyết hư cấu hiện đại đầu tiên và có lẽ cũng là
cuốn tiểu thuyết quốc ngữ viết theo lối Tây phương đầu tiên của thế kỷ
XX. Bởi vì tất cả những tác phẩm trước đây đều viết theo lối kể truyện của Tàu.
Vẫn biết Nguyễn Trọng Quản là người viết tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên theo lối
Tây, nhưng tác phẩm của ông chỉ có giá trị mở đầu, chữ quốc ngữ của ông còn thô
sơ, và ông vẫn thuật lại một truyện do người khác kể lại cho ông. Phải tới Hồ
Biểu Chánh, chúng ta mới có tiểu thuyết gia hiện đại đích thực, với thứ ngôn
ngữ sống động hàng ngày, với sự mô tả đầy biến hóa. Nhờ lượng viết đồ
sộ, 64 cuốn tiểu thuyết, với nhiều chủ đề khác nhau, một mình Hồ Biểu Chánh đã
vẽ nên toàn thể bộ mặt xã hội miền Nam dưới thời Pháp thuộc và sau này, mà ở
Bắc không một tiểu thuyết gia nào làm được. Có nghiã rằng chỉ một mình Hồ Biểu
Chánh có khả năng miêu tả mọi loại người giàu nghèo, sang hèn, lương
thiện, trộm cắp, mọi giai tầng quý tộc, trưởng giả, cùng đinh, đói khổ, mọi
loại dân từ thành thị đến thôn quê… ở miền Nam, trong khi những nhà văn Bắc
thường chỉ chuyên về một hạng người nào đó, một giai tầng nào đó, như Khái
Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam thường là loại người có học, trung lưu, thành thị;
Trần Tiêu, Ngô Tất Tố chiếu vào đời sống người dân quê; Vũ Trọng Phụng, vào
hạng người trụy lạc thành thị, Nguyễn Hồng, vào thế giới trộm cắp, v.v. tất cả những
tác phẩm của họ chập lại mới tạo nên toàn thể bộ mặt xã hội miền Bắc.
2-
Hồ Biểu Chánh là nhà văn tiên phong trong tiểu thuyết hiện thực xã hội, ông đã
tạo dựng một phong cách tiểu thuyết xã hội hiện thực, lối Nam, khác hẳn tiểu
thuyết hiện thực xã hội lối Bắc của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, sau này.
Theo
sự kê khai của Hồ Biểu Chánh trong cuốn hồi ức Đời của tôi về văn nghệ
(bản đánh máy), thì trong toàn bộ 64 cuốn tiểu thuyết của ông, có 11 cuốn cảm
tác theo tiểu thuyết Pháp, một cuốn theo tiểu thuyết Nga.
Tác
phẩm của ông, dù có dựa trên sườn truyện của Hector Malot hay Victor Hugo,
nhưng chúng đã rất xa nguyên bản để tạo ra không khí xã hội, ngôn ngữ và tính
chất Việt Nam.
Cùng
thời với Hồ Biểu Chánh, ở Bắc, Phạm Duy Tốn viết những truyện ngắn theo lối Tây
phương: Bực mình (1914), Sống chết mặc bay (1918), Con người
Sở Khanh (1919) và Hoàng Ngọc Phách viết tiểu thuyết Tố Tâm (1925).
Nhưng Phạm Duy Tốn, chỉ có một truyện Sống chết mặc bay (1918) là đích
đáng. Còn Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, cũng chỉ có giá trị nhất thời, vì
lối văn biền ngẫu và cốt truyện sầu thảm, nên 10 năm sau đã bị coi là cổ hủ.
3-
Cho đến bấy giờ, nước ta chỉ có truyện kể (récit) nghiã là người
viết kể lại một câu chuyện đã nghe được, hay chuyện của chính mình. Ở đây không
nói đến trường hợp xưng tôi trong tiểu thuyết mới, chữ tôi
đó có nghiã bản thể, nghiã là nhà văn chỉ viết những cảm nhận có tính cách bản
thể của mình, bởi vì họ đã từ bỏ vai trò thượng đế, nên không thể "vào
vai" người khác được. Còn chữ tôi mà ta nói đến ở đây, là cái tôi
bình dân dễ hiểu của tất cả mọi người.
Hồ
Biểu Chánh là người khai phá lối viết hư cấu, hiện đại, trong lối viết này, nhà
văn bỏ hẳn lối kể chuyện cổ điển, để nhập vào các nhân vật, để sự mô tả,
và ngôn ngữ của nhân vật nói lên câu chuyện và những gì xảy ra chung
quanh.
Từ
1922 đến 1932, Hồ Biểu Chánh đã in được 18 cuốn tiểu thuyết.
Khi
Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng ra đời năm 1932, tức là 20 năm sau Ai
làm được, văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đã đạt tới mức trưởng thành. Bởi vì Hồn
bướm mơ tiên không chỉ là một cuốn tiểu thuyết hiện thực mà còn đa chiều,
ẩn giấu ý nghiã triết học trong đời sống con người, tu cũng như tục. Hồn
bướm mơ tiên trở thành một giá trị văn học có tầm vóc lớn, về mặt bút pháp
cũng như tư tưởng.
Con
đường tìm kiếm của Hồ Biểu Chánh
Hồ
Biểu Chánh kể lại con đường khai phá này trong hồi ký như sau:
"Năm
1906 ra khỏi nhà trường, nhận thấy các ấn quán ở Sàigòn mướn người dịch truyện
Tàu và thơ chữ Nôm ra chữ Quốc ngữ đặng in mà bán. Từ thành thị ra thôn quê,
nhơn dân đua nhau mà đọc. Có vài tờ tuần báo cũng được người ta chú ý.
Thầm
nghĩ, người mình mà biết chuyện bên Tàu không bổ ích cho bằng biết truyện trong
nước mình. Tính viết chuyện văn vắn cho đăng vào mấy tờ tuần báo để đồng bào
đọc thử. Viết khó khăn hết sức, vì thiếu nho học nên không tìm ra lời mà tả trí
ý cho người ta thông cảm được. Phải học chữ Nho. Trót ba năm, nhờ vài ông bạn
lớn tuổi ban đêm làm ơn dạy giùm cho đọc được sách Tàu.
Năm
1910, lựa những chuyện hay trong Tình Sử và Kim Cổ Kỳ Quan dịch ra Quốc văn nhan
đề "Tân soạn cổ tích" đặng tập viết cho suông. Cũng viết theo thể văn
"Thượng lục hạ bát" thành một chuyện dài nhan đề "U tình
lục" chuyện tình của người trong nước mình. Hai quyển nầy được mấy bạn hùn
tiền in thử thì không ai chê.
Lúc
đó cụ Trần Chánh Chiếu cho xuất bản quyển "Hoàng Tố Oanh hàm oan" là
tiểu thuyết đầu tiên trong Lục tỉnh, truyện tình tả nhơn vật trong xứ và viết
theo điệu văn xuôi. Đọc quyển nầy, cảm thấy viết truyện dùng văn xuôi dễ cảm
hóa người đọc hơn, bởi vậy năm 1912, đổi xuống làm việc tại Cà Mau mới viết thử
quyển "Ai làm được" là quyển thứ nhứt viết văn xuôi tại Cà Mau với
nhơn vật cũng ở Cà Mau"[4].
Hồ
Biểu Chánh tập viết quốc ngữ từ năm 1906.
Ông
sinh ngày 1-10-1885. Từ 8 đến 12 tuổi, học nhữ nho. 13 tuổi, học trường Tiểu
học tổng Vĩnh Lợi, rồi lên trường tỉnh Gò Công, trường trung học Mỹ Tho
(1902-1903), trường Pháp Chasseloup-Laubat (1904-1905). Năm 1905 ông đậu bằng
thành chung.
Nhỏ
học chữ Nho, lớn học chữ Tây, vẫn chưa đủ; năm 1906, khi quyết định viết văn
quốc ngữ, Hồ Biểu Chánh vẫn phải học thêm chữ Nho và dịch sách chữ Hán ra quốc
ngữ, trước khi viết văn. Đến năm 1912, ông mới viết tiểu thuyết đầu tiên Ai
làm được. Hồ Biểu Chánh và Khái Hưng đều học trường Pháp, hành trình cùng
học chữ nho của họ, có gì rất giống nhau.
Phạm
Quỳnh (1892-1945)
Miền
Bắc bị Pháp chiếm sau, nên việc học quốc ngữ chậm hơn. Năm 1907, Nguyễn Văn Vĩnh
vừa đi Pháp về, được mời làm chủ bút tờ Đại Nam đăng cổ tùng báo, tờ báo
quốc ngữ đầu tiên ở Bắc kỳ, do Schneider sáng lập. Năm 1910, Nguyễn Văn Vĩnh
vào Nam làm chủ bút Lục Tỉnh tân văn. Rồi đến năm 1913, ông lại trở ra
Hà Nội làm chủ bút Đông Dương tạp chí, vẫn do Schneider sáng lập.
Phan
Khôi xuất hiện từ 1907 trên Đăng cổ tùng báo.
Tới
1917, Phạm Quỳnh ra làm chủ bút tờ Nam Phong với sự cộng tác của Nguyễn Bá Trác
và Phan Khôi. Được hai năm, vì bất đồng ý kiến với Phạm Quỳnh, Phan Khôi bỏ Nam
Phong vào Sàigòn viết cho Lục Tỉnh tân văn.
Tản
Đà xuất hiện lần đầu năm 1913 trên Đông Dương tạp chí. Năm 1916, in thi
tập đầu tiên: Khối tình con. Năm 1921, chủ trương tạp chí Hữu Thanh.
Năm
1917, Phủ Toàn quyền quyết định ra báo Nam Phong, với ba phần: Pháp văn,
Hán văn và Quốc ngữ; Nguyễn Bá Trác phụ trách phần Hán văn và Phạm Quỳnh phần
Quốc ngữ.
Nguyễn
Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh là hai nhà dịch thuật và biên khảo, đã xây dựng nền móng
văn học quốc ngữ ở miền Bắc trên hai tờ Đông Dương và Nam Phong tạp
chí.
Cùng
thời điểm đó, Phạm Duy Tốn viết truyện ngắn Sống chết mặc bay in trên
Nam Phong số 18 (tháng 12-1918), tác phẩm quốc ngữ hiện đại đầu tiên, ở
Bắc.
Theo
Phạm Quỳnh, tuy chính quyền thuộc địa chủ trương "mở mang" quốc ngữ,
nhưng, sự phục hưng tiếng Việt qua quốc ngữ không được người Pháp biết đến,
kể cả những người đã "Việt hóa" nhất, họ chỉ học tiếng Việt cốt để
nói dăm ba câu chuyện hàng ngày, chứ họ không cần biết đến văn chương, văn hóa
Việt Nam. Chính quyền thuộc địa vẫn ngầm giữ ý định sẽ thay thế Hán văn bằng
Pháp văn, và họ định cho học trò học tiếng Pháp từ lớp vỡ lòng, gạt hẳn tiếng
Việt ra ngoài, như đối với các thuộc địa Châu Phi.
Năm
1922, thừa dịp được toàn quyền Maurice Long cử sang Pháp diễn thuyết tại các
trường lớn, Phạm Quỳnh (cùng đi với Nguyễn Văn Vĩnh) đã đọc bốn bài diễn văn
bảo vệ quốc âm, thỉnh nguyện chính quyền Pháp giữ lại tiếng Việt trong các
trường tiểu học.
Những
bài diễn thuyết này được đăng báo ở Pháp trước, rồi in trên Nam Phong phần Pháp
văn và sau này in lại trong cuốn Những bài tiểu luận Pháp-Việt mới
(Nouveaux essais franco-annamites), nxb Bùi Huy Tín, Huế, 1938.
1.
Ngày 25-5-1922, Phạm Quỳnh bắt đầu với bài Sự tiến hóa của tiếng An-nam
(L’évolution de la langue annamite)[5],
đọc tại Trường Sinh ngữ Đông phương (École des Langues Orientales vivantes)
Paris, ông đã nói về tình trạng ngôn ngữ ở Việt Nam (xin tóm tắt những ý
chính):
Trải
ngàn năm bị Tàu đô hộ, văn chương Việt Nam chia làm hai loại: bác học (chữ Hán)
và bình dân (chữ Nôm). Tiếng nói dân tộc bị coi thường, chữ Nôm bị khinh rẻ.
Nhưng đến đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Du, một đại văn hào xuất hiện, đưa thứ ngôn
ngữ thông tục lên hàng kiệt tác với Truyện Kiều. Công Nguyễn Du đối với
quốc âm cũng giống như công của Ronsard, Rabelais đối với tiếng Pháp. Chữ quốc
ngữ, do các linh mục Tây Phương đặt ra với mục đích truyền giáo, nhờ Trương
Vĩnh Ký và Paulus Của cải thiện, được truyền bá rộng rãi ở Nam Kỳ, cuối thế kỷ
XIX.
Rồi
ông kể đến tác dụng của Tân thư:
Khoảng
1900, sau khi Tàu thua Nhật, người Tàu bắt đầu du học Âu Mỹ; khi về nước, họ đã
dịch đủ loại sách Tây phương, từ Darwin, Kant, đến Rousseau, Montesquieu,
Voltaire, Diderot, sang chữ Hán. Đó là những Tân thư. Các nhà nho Việt đọc
Tân thư và dịch lại những danh từ khoa học, kỹ thuật, triết học, mà người
Hoa đã dịch sang chữ Hán.
Sau
cùng ông nói đến việc làm của thế hệ Tây học:
Khi
lớp người Tây học (chúng tôi) bắt đầu dịch các sách Tây Phương sang tiếng Việt,
thì đã có sẵn kho danh từ Hán-Việt do các bậc đàn anh, dịch từ chữ Hán sang.
Và
ông nhấn mạnh:
"Chữ
quốc ngữ hiện đại hình thành và giàu mạnh, là nhờ sự cộng tác chặt chẽ giữa hai
phái Nho học và Tây học".
Tiếp
đó, ông giải thích sự hình thành chữ quốc ngữ hiện đại, như sau:
Nói
là mượn tiếng Tàu thì cũng không đúng hẳn: Thực ra, để tạo ra chữ mới, tiếng
Việt cũng như tiếng Cao Ly, Nhật, quan thoại, đều mượn chữ Hán, hệt như người
Âu mượn chữ La tinh, Hy Lạp. Khi các bạn viết: électro-dynamique thì
cũng giống như chúng tôi dùng từ Hán-Việt vậy. Tại sao phải dùng từ Hán-Việt?
Ví dụ intuition dịch là trực giác, trực là thẳng, giác là thấy,
dễ hiểu hơn là phiên âm thành anh-tuy-di-on hay giải nghĩa dài dòng sang
tiếng Việt. Nhưng có những tiếng có thể dịch thẳng sang tiếng Việt, như l’aréoplane
thành tàu bay hoặc automobile phiên âm thành ô tô; la
gare thành nhà ga. Về tên riêng, chúng tôi phiên âm tên Napoléon
thành những từ Hán Việt Nã Phá Luân, bởi ba chữ này có âm vang chiến
đấu; Washington thành Hoa Thịnh Đốn vì âm vang thanh nhã hợp với
đất kinh thành.[6]
2.
Ngày 31/5/1922 ông diễn thuyết ở Ecole Nationale de la France
d’Outre-Mer, thường được gọi là Trường Thuộc địa (Ecole Coloniale) với đề tài: Sự
tiến hóa về đường tinh thần của người Việt Nam từ khi nước Pháp đặt Bảo hộ
(L’évolution intellectuelle et morale des Annamites depuis l’établissement
du Protectorat français). Trường Thuộc địa là trường dạy những người
Pháp sẽ sang Việt Nam làm công chức trong chính quyền thuộc địa.
Phạm
Quỳnh nói cho "các quan cai trị tương lai" biết rằng: nếu các bạn
muốn thành công thì nên học tiếng Việt, tìm hiểu văn hóa Việt. Mọi sự đàn áp
đều đưa đến hậu quả khôn lường.
Nước
Pháp đến nước chúng tôi đã nửa thế kỷ. Chuyện đã rồi, chúng tôi đành phải chịu.
"Nhưng
đối với lớp đàn anh chúng tôi, thì chẳng qua quý quốc cũng chỉ là một giống
"xâm lược" mà thôi". "Trừ là một dân tộc hèn mạt suy đốn,
chứ có bao giờ người dân một nước lại giương tay ra đón lấy kẻ ngoại quốc đến
cưỡng chiếm nước mình".
Và
ông nhấn mạnh:
"Sự
căm thù khiến chúng tôi coi việc học tiếng Pháp và học vần quốc ngữ do người
Tây phương đem lại là một cái nhục".
Nhưng
dần dần, sĩ phu của chúng tôi cũng phải thừa nhận sự yếu kém của nước mình, và
họ đã tìm đọc những tư tưởng tiến bộ của J.J. Rousseau, Montesquieu qua những
cuốn Tân thư của Trung Hoa, từ đó phát xuất phong trào Đông Du. Họ muốn
trông cậy vào Tàu, Nhật để đuổi Pháp ra khỏi xứ sở, mà biến cố 1908 [Trung kỳ
dân biến] là cao điểm.
Ông
kết luận bài diễn văn hết sức khôn khéo:
"Chúng
tôi là một dân tộc cổ kính có một nền văn hóa lâu đời, ngày nay muốn hội nhập
vào thế giới hiện đại, nhưng dứt khoát không muốn từ bỏ nền văn minh, cái quá
khứ mà tổ tiên đã để lại qua nhiều thế kỷ. Chúng tôi muốn là chính mình. Muốn
giữ lấy bản sắc của mình, giữ lấy cái quốc hồn quốc tuý của dân tộc mình.
Vì
sự tình cờ của lịch sử, chúng tôi phải chịu sự bảo hộ của nước Pháp. Chúng tôi
muốn được nước Pháp giúp đỡ trong công cuộc cải cách, bởi nước Pháp là một
cường quốc, thông qua lịch sử, luôn luôn góp phần vào công cuộc tranh đấu giải
phóng con người".
3.
Ngày 5/7/1922, Phạm Quỳnh diễn thuyết ở Hội Ái hữu Đông phương (Société
française des amis de l’Orient) với đề tài: Thi ca Việt Nam (La poésie
annamite).
Bài
này giới thiệu hai mảng thi ca quan trọng nhất của Việt Nam là ca dao và Truyện
Kiều. Vào đề, ông nói ngay:
"Thi
ca của dân tộc nào là đặc biệt của dân tộc ấy, không thể dịch ra tiếng nước
khác được. Dịch tức là diệt. Mà muốn dịch, lại phải thông thạo cả hai thứ
tiếng. Tôi có thể tự hào biết rõ tiếng nước tôi, nhưng làm sao tôi biết
hết những tinh vi trong tiếng Pháp, vậy tôi dịch phải sai nhiều lắm. Muốn
thưởng thức thơ nước tôi, các bạn chỉ có cách học tiếng Việt."
Sau
đó ông dịch một số câu ca dao và giải thích những cái hay tuyệt vời không thể
dịch sang tiếng Pháp được, ví dụ hai chữ chiều chiều dịch thành soir
soir thì làm sao nói được nỗi buồn với dư âm day dứt tiềm ẩn trong âm thanh
chiều chiều.
Ông
tìm mọi cách để thuyết phục chính quyền Pháp một lần nữa: đừng bắt học trò
Việt Nam phải học tiếng Pháp từ nhỏ như học trò ở các thuộc điạ Châu Phi,
bởi vì nước chúng tôi có một nền văn chương chữ Nôm kiệt xuất qua ca dao và
truyện Kiều, và tôi đã mang sang Pháp một bản dịch truyện Kiều của Nguyễn Văn
Vĩnh đây này, các ông xem đi, tôi khuyên các sinh viên sinh ngữ, ngoài tiếng
Việt hàng ngày, nên học văn chương Việt Nam, học thêm chữ Nho, để hiểu những
danh từ Hán-Việt và hiểu tiếng Việt.
"Muốn
thưởng thức thơ nước tôi, các bạn chỉ có cách học tiếng Việt".
4.
Ngày 22/7/1922, Phạm Quỳnh diễn thuyết tại Hội Hàn Lâm Luân lý Chính trị
học (Académie des Sciences morales et politiques) đề tài: Một vấn đề giáo
dục giống nòi. Nước Pháp phải giáo hóa người An Nam như thế nào? (Un problème
d’éducation des races. Comment doit-être faite l’éducation des Annamites par la
France?). Đây là bài quan trọng nhất, bàn thẳng vào chính sách giáo dục của
Pháp ở Việt Nam, từ những dòng đầu, ông đã nhắc khéo đến vị thế, quyền lực và
sự uyên bác của các vị Hàn lâm:
"Toà
Hàn Lâm của Đại Pháp, là nơi tẩu trạch[7]
những ngài học vấn uyên thâm, khôn ngoan tài trí của quý quốc…"[8]
Tiếp
đó, ông nhận xét tình hình: Chúng tôi đã bị Pháp đô hộ hơn 40 năm nay. Bởi yếu
thế về chính trị, nên đã không "đủ sức chống lại một kẻ xâm lược vừa
giỏi vừa mạnh hơn nhiều". Chúng tôi thua trận vì: "nước chúng
tôi là gốc ở một cái văn minh rất cổ ở Á Châu, trong bao nhiêu thế kỷ tựa hồ
như cách biệt với thế giới bên ngoài".
Trước
Hàn Lâm Viện Pháp, Phạm Quỳnh xác định một lần nữa: Pháp là kẻ xâm lược,
sau nông nỗi mất nước buổi đầu, những phần tử ưu tú của đất nước chúng
tôi mới nhận thức được sự yếu kém về học thuật của mình, muốn được thấm nhuần
"cái học thuật và cái văn minh nhân đạo" của nước Pháp. Chúng
tôi là một dân tộc bị áp bức, trông chờ nước Pháp – cái nôi của nhân quyền và
giải phóng con người – giúp đỡ, học hỏi để trở thành một nước tân tiến.
Tóm
lại: chúng tôi rất mong được giáo hóa, nhưng quý quốc định giáo hóa chúng
tôi như thế nào? Sau khi bãi bỏ nền giáo dục cổ truyền của chúng tôi, dường
như quý quốc chưa tìm được giải pháp nào ổn thoả.
Nếu
chúng tôi là một dân tộc vô văn hóa, hay một dân tộc mới, vừa xuất hiện trên
mảnh đất tân bồi nào đó, không có quá khứ, không có lịch sử, thì việc
"giáo hóa" có thể đơn giản là "Tây hóa" cho thành người
Pháp.
Nhưng
dân Việt Nam chúng tôi, không thể ví như tờ giấy trắng được. Dân tộc chúng tôi
là một quyển sách cổ (un vieux parchemin) đầy những chữ viết bằng một thứ mực
không phai, đã mấy mươi thế kỷ nay; không có thuốc gì xoá hẳn được thứ chữ ấy
đi. Không ai có quyền tự do muốn viết gì vào đấy thì viết được. Quyển sách cổ
ấy, có thể đóng theo kiểu mới cho hợp thời trang, nhưng không thể đem in một
thứ chữ nước ngoài lên trên các dòng chữ cũ được".
Giả
thử có một ngày bao nhiêu trẻ con An Nam đều biết nói mấy câu tiếng Tây
"ba rọi" (petit nègre), nhưng lại quên tiếng nước mình, vì không
còn được dậy ở trường nữa, thì đó có phải là thời tiến bộ của nước tôi
không?
Hiện
nay, chưa có nghị định nào bắt người An Nam phải học thuần tiếng Pháp cả, nhưng
chữ An Nam chỉ có một địa vị rất nhỏ ở cuối bậc tiểu học mà thôi. Thử hỏi
chính phủ Pháp có thể trông cậy vào những người An Nam học ở bên Tây, đỗ kỹ sư,
tiến sĩ, mà quên cả tiếng mẹ đẻ, thì đối với dân mình, chỉ là những người xa
lạ, làm sao có thể truyền bá cái văn minh Tây phương cho họ được?
Vậy
nền giáo dục của chính phủ Bảo hộ, muốn có kết quả tốt thì phải đào tạo được
những người Việt Nam chân chính, vừa có cái học thái tây, vừa biết giữ gìn ngôn
ngữ, phong tục của nước mình. Vì dân tộc tôi mà tôi tha thiết mong các danh sư
của Viện Hàn Lâm Pháp soi xét vần đề này[9].
Bốn
bài diễn văn của Phạm Quỳnh đọc năm 1922 tại Paris đã có tác dụng. Chính phủ Pháp
bỏ ý định cho trẻ con học toàn tiếng Pháp từ lớp vỡ lòng.
Phạm
Thế Ngũ viết: "Đến năm 1924, vì nhiều nguyên nhân chính trị, và cũng vì
chiến dịch vận động của Phạm Quỳnh, người Pháp lần đầu ở Bắc và Trung, lập ra
một bậc Ấu học ở Việt Nam trong ba năm hoàn toàn học bằng tiếng Việt để thi lấy
bằng Sơ học yếu lược.(…)
Phạm
Quỳnh coi đó là một thắng lợi trong công cuộc vận động giáo dục, thực hành chủ
nghiã quốc gia về đường văn hóa. Cũng như một thắng lợi khác nữa của ông là
việc mở một khoa "Ngôn ngữ và văn chương Hán-Việt" ở trường Cao đẳng
mà ông đã được cử phụ trách giảng dậy, một thứ mầm mống của Đại học văn khoa
sau này"[10].
Như
vậy, Phạm Quỳnh có công thuyết phục Pháp lập bậc tiểu học tiếng Việt. Nhờ ông,
Pháp đã giữ lại tiếng Việt ở bậc tiểu học, cái công đó không phải là nhỏ.
Tóm
lại, sau Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của, đến phiên Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm
Quỳnh, xây dựng, phát triển và phổ biến chữ quốc ngữ.
Nam
Phong quay lại những giá trị của Nho học, Phật học, dịch những sách chữ Nho có
giá trị như Vũ trung tuỳ bút, và bắt đầu giới thiệu triết học Tây
phương. Danh từ triết học được mở rộng với Nam Phong thập niên 1920-1930. Năm
1942, Hoàng Xuân Hãn cho in từ điển Danh từ khoa học, chúng ta mới tương
đối có đủ chữ quốc ngữ để dùng trong học thuật.
Về
mặt sáng tác, Nam Phong số 18 (tháng 12-1918), đã đăng truyện vừa Sống chết
mặc bay của Phạm Duy Tốn, với cái tít: Một lối văn mới, cùng lời
giới thiệu trân trọng của Phạm Quỳnh. Sống chết mặc bay là truyện ngắn
hiện đại đầu tiên ở miền Bắc, viết theo lối hiện thực tả chân. Nhưng Phạm Duy
Tốn viết ít, và ông mất sớm (ngày 25-2-1924) vì bệnh lao, nên lối văn rất mới
của ông chưa kịp phát triển, chưa tạo được một phong trào, trong khi đó giọng
điệu lãng mạn, than mây khóc gió, phát triển, nở rộ trên Nam Phong và làm chủ
văn đàn miền Bắc.
Tuyết
Hồng lệ sử
Trên
Nam Phong, từ số 77 (tháng 11-1923) đến số 84 (tháng 10-1924), Phạm Quỳnh cho
đăng Tuyết Hồng lệ sử của Từ Trẩm Á, do Mai Khê dịch, một truyện tình
đầy nước mắt, được Đoàn Hiệp "người sao lục" giới thiệu như một truyện
mới (xảy ra đầu năm 1909), văn mới. Đây là cuốn nhật ký của người
thanh niên tên Mộng Hà, Từ Trẩm Á "tình cờ" có được, nên gửi đến độc
giả.
Nhật
ký bắt đầu từ tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), Mộng Hà, được một người bạn giới
thiệu cho một chỗ dạy học, tại trường của Thạch Si. Chàng lại được cụ Thôi đề
nghị cho ở trọ nếu chàng nhận kèm đứa cháu tên Bằng Lang, 8 tuổi. Mẹ Bằng Lang
là Bạch Lê Ảnh, con dâu cụ Thôi, goá chồng, trẻ, đẹp, giỏi thơ văn.
Rồi
"ngày xuân lần lữa, én lại oanh về, ngọn gió lơ phơ, giọt mưa lấm tấm,
trông ra cây lê thì hoa đã rụng đầy vườn: đa tình ta lại cười ta, yêu hoa là
tính, thương hoa là tình", Mộng Hà bắt chước Giả Bảo Ngọc trong Hồng
lâu mộng, nhặt những cánh hoa rụng đem chôn. Lê Ảnh, nép sau dậu cây, sụt
sùi nước mắt. Hai tâm hồn đồng điệu gặp nhau trở thành tri kỷ. Họ trao đổi thơ
từ, ngâm vịnh. Nhưng Lê Ảnh biết mình không thể lấy được Mộng Hà[11],
bèn làm mối chàng cho Quân Thiến, cô em chồng, cũng trẻ đẹp, tài hoa, không
kém. Quân Thiến chỉ muốn sống tự do, không thích ràng buộc gia đình, nhưng phải
nghe lời chị dâu và cha. Lê Ảnh thấy sự hy sinh của mình vô ích, còn làm em
chồng đau khổ, nàng thổ huyết chết, để lại thư tuyệt mệnh cho Mộng Hà và Quân
Thiến. Đọc thư chị dâu, Quân Thiến thổ huyết chết theo, chưa kịp cưới. Mộng Hà
cũng định chết theo, nhưng người anh khuyên chàng nên đi du học, giúp nước.
Truyện Tuyết Hồng lệ sử chấm dứt ở đây. Trước Tuyết Hồng lệ sử, Từ
Trẩm Á đã viết truyện Ngọc lê hồn, với đoạn kết: Mộng Hà, trong khi đi
xung trận để bảo vệ tổ quốc, bị thương nặng, nằm trên một cánh đồng, gặp một người
đi ngang, chàng rút tập nhật ký của mình trao lại và nhờ phổ biến, rồi mới
chết. Người này trao lại cho Từ Trẩm Á.
Tuyết
Hồng lệ sử văn chương trau chuốt, có rất nhiều thơ
(dịch) hay. Lối văn biền ngẫu xen lẫn tả thực, có chỗ hấp dẫn. Tuy nhiên nằm
trong lối sáng tác cổ điển, có những giả tạo đến độ kỳ khôi: yêu nhau đến chết
như thế, sao không đem nhau đi trốn cho rồi, hơi đâu "hy sinh" cho
mệt xác. Mà hy sinh cho người yêu lấy em chồng, ra vào gặp nhau, làm sao
"hy sinh" nổi. Rồi bất cứ gì cũng khóc, cũng ốm liệt giường, cũng thổ
huyết chết.
Lúc
đó người ta thích đọc loại truyện như vậy, đó là cái gu thời đại, Tuyết Hồng
lệ sử là sách gối đầu giường cho một thế hệ nam nữ. Cái tai hại là thất
tình mua sách đọc rồi thi nhau đi tự tử.
Tố
Tâm và Nho phong
Năm
1922, Hoàng Ngọc Phách viết Tố Tâm (in 1925), cũng là một truyện tình
đẫm lệ thời thượng: Tố Tâm-Đạm Thủy yêu nhau tha thiết nhưng, Đạm Thuỷ đã trót
hứa hôn. Mẹ Tố Tâm bệnh nặng, bắt con gái phải lấy chồng trước khi bà chết. Tố
Tâm vâng lời. Bà mẹ chữa khỏi bệnh, còn nàng, một tháng sau khi về nhà chồng,
thổ huyết chết, để lại những bức thư tình đớn đau tuyệt vọng.
Tố
Tâm
viết hay, câu văn cổ nhưng cấu trúc truyện chặt chẽ, cũng là cuốn tiểu thuyết
gối đầu giường của thanh niên thời ấy. Trong một thời gian dài, Tố Tâm
được coi là tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của Việt Nam, không đúng, vì Hồ Biểu
Chánh đi trước Hoàng Ngọc Phách.
Năm
1924, Nguyễn Tường Tam viết Nho phong (in năm 1926), cùng lối viết như Tố
Tâm, nhưng không có chết chóc. Nho Phong bút pháp mới hơn, nhưng
không hay bằng Tố Tâm. Lê Nương trong Nho phong là người đàn bà, đã cam
phận, đã chịu đựng, đã hy sinh. Tuy nàng có trổi dậy, chống lại cuộc hôn nhân
dàn xếp, chứ không chịu trận như Tố Tâm; nhưng cuối cùng nàng vẫn mong sự
"vinh qui bái tổ muộn màng" của một thời đại đã qua. Nhất Linh cho Nho
phong là cổ, nên sau này ông không in lại. Trên Phong Hóa số 15
(29/9/1932), Đông Sơn (Nhất Linh) đã thẳng tay đưa ma Nho phong cùng với
những tác phẩm than khóc khác trong bức tranh trào phúng Một đám ma vui.
Linh
Phượng của Đông Hồ
Nam
Phong số 128 (tháng 4- 1928), đăng Linh Phượng, tập lệ ký của Lâm Trác Chi
tức Đông Hồ với lời giới thiệu ân cần của Thượng Chi (Phạm Quỳnh).
Đông
Hồ Lâm Tấn Phác (1906-1969), sống ở Hà Tiên, là một trong những người tha thiết
cổ võ cho quốc ngữ, thường gửi bài cho Nam Phong. Ông là người Nam nhưng viết
văn tiếng Bắc, văn ông gọn và mới. Linh Phượng là tên vợ và cũng là tên bài lệ
ký viết về người vợ mới chết, gửi đăng ngay, nên có sức nóng bốc ra từ chữ. Lệ
ký này đớn đau mà khô ráo vì lệ không rơi ra ngoài. Mặc dù bài văn có nhiều cái
chết, nhưng không giả tạo, tác phẩm mộc mạc, chân thành, ít thấy trong số văn
thơ than khóc thời bấy giờ. Ông kể lại từ lúc vợ chớm bệnh đến lúc chết, đám
tang, chôn cất, thăm mộ, bằng môt giọng tự nhiên, không làm văn và cũng không
khóc than thảm thiết. Vợ mất ngày 19-4-1928, nàng lấy chồng năm 1921, sinh con
gái đầu lòng Mỹ Tuyên, rồi sinh thêm hai lần nữa, con trai, đều chết. Đứa bé
sau vừa chết 20 ngày thì mẹ cũng chết theo.
"Tôi
thay quần áo cho nàng. Than ôi! Từ ngày về với tôi – năm 18 tuổi, năm nay 25
tuổi – bảy năm nay tôi chưa hề biết thay áo chải đầu cho lần nào. Bây giờ tôi
biết thay áo, chải đầu cho thì nàng đã chẳng còn rồi".
Bài
lệ ký Linh Phượng, chân thật, giản dị, tự nhiên, có lẽ vì vậy nên độc giả thời
ấy cho là tầm thường, không nổi tiếng như Giọt lệ thu của Tương Phố.
Giọt
lệ thu, Tương Phố
Tương
Phố (1896-1973), tên thật là Đỗ Thị Đàm, sinh tại Bắc Giang, nguyên quán Hưng
Yên, trước học trường Nữ Hộ sinh, Hà Nội rồi bỏ dở, sau học trường Nữ Sư phạm.
Theo những gì bà viết trong Giọt lệ thu, ta được biết: Năm 17 tuổi
(1915), bà kết duyên với TVD [Thái Văn Du, em quan Thượng thư Thái Văn Toản].
Năm 1916, vừa mới sinh con trai đầu lòng, chồng lên đường sang Pháp học y khoa
ở Marseille. Con vừa đầy tháng, bà bế con ra Bắc sống với cha. Cuối năm 1919,
chồng bị bệnh phổi, phải trở về Huế, chưa gặp lại vợ con, đã mất ngày 25-7-1920.
Bài
Giọt lệ thu ở dưới đề: Viết ở sông Thương mùa thu năm Quý Hợi (1923).
Năm 1925, bà tái giá với quan tuần phủ Phạm Khắc Thành. Năm 1928, bà gửi
bài Giọt lệ thu cho Nam Phong, được đăng trên số 131 (tháng 7-1928), với
lời giới thiệu ưu ái của Thượng Chi (Phạm Quỳnh). Tương Phố trở thành
"ngôi sao" trên nền thơ hồi ấy.
Giọt
lệ thu là một bài văn xen lẫn thơ, viết theo lối Tuyết Hồng lệ
sử, kể lại câu chuyện tình của bà, mở đầu như sau:
Trời thu ảm đạm một mầu
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em
Trăng thu bóng ngả bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng!,
Anh
ơi! thu về như gợi mối thương tâm. Mỗi độ thu sang, em lại vò lòng than khóc.
Nghĩ năm có một lần thu, nhưng thu năm nay đi, năm sau còn trở lại; hỏi ba sinh
hương lửa, thời ân ái kia dễ mấy kiếp hẹn hò nhau? Chẳng hay cơ trời dâu bể vì
đâu, chăn gối vừa êm, lửa hương mới bén, sát cầm dìu dặt ngón đàn, bỗng ai xô
lộn bình tan gương vỡ cho người dở duyên! Than ôi! minh dương đôi ngả, gió mây
hội ấy, anh đi đi mãi, năm tháng thường về, người không dấu vết. Em muốn tìm
anh, tìm chẳng thấy…"
Thơ
Tương Phố hay, cái hay cổ điển. Văn bà chải chuốt, đối xứng. Thơ văn của bà
chưa thoát khỏi những mẫu mực của thế kỷ XIX.
Năm
1930, bà gửi bài Tái tiếu sầu ngâm đăng trên Nam Phong số 147 (tháng
2-1930), trong mục văn uyển, bài này làm sau khi tái giá, diễn tả phận mình,
gái goá, con côi, phải lấy chồng [làm quan nhưng có lẽ già và khó] để có chỗ
nương thân, nhưng không tìm được hạnh phúc:
E dè buổi gió chiều mưa,
Con côi mẹ goá, dễ nhờ nương đâu?
Bước đi âu cũng thương nhau,
Dừng chân đứng lại cơ mầu dở dang.
Dây loan chắp nối đoạn tràng,
Ngâm câu "tái tiếu" hai hàng
lệ sa!
Năm
1931, bà gửi bài Khúc thu hận, đăng trên Nam Phong số 164 (tháng
7-1931), thuộc dòng thơ ai oán, khóc than thân phận bẽ bàng:
Kể từ độ phong trần lạc bước
Mười lăm năm mặt nước cánh bèo
Gieo lòng theo ngọn thủy triều
Lên đênh thôi cũng mặc chiều nưóc sa!
Con măng sữa này đà mười sáu,
Chốn hầu môn nương náu đức dầy,
Sách đèn cơm áo bấy nay,
Vì con nuốt hết chua cay cuộc đời!
(Bệnh viện Nam thành, thu năm Tân vị
-1931)
Có
nhiều chỗ khó hiểu trong đời bà: Năm 1916, khi chồng đi du học, tại sao bế con
ra Bắc ngay mà không ở lại nhà chồng, như phong tục hồi ấy? Rồi khi chồng bị
lao, trở về nước cuối năm 1919, mãi đến giữa năm 1920, mới mất, tại sao bà
không đưa con về Huế thăm chồng? Bà có chuyện lục đục với nhà chồng chăng, hay
vì lý do gì khác? Năm 1925, bà tái giá. Im lặng trong ba năm. Không hiểu tại
sao, bài Giọt lệ thu lại được gửi đi năm 1928, có phải vì bài Linh
Phượng của Đông Hồ đã thúc đẩy?
Dù
sao chăng nữa, sự than van cách biệt Nam-Bắc với chồng khi còn sống, dường như
giả tạo, tự mình gây ra, bởi vì nếu muốn, bà đã giải quyết được. Vậy ta có thể
coi cái chết của người chồng chỉ là cái cớ để Tương Phố làm thơ, mùa thu hay
khóc lóc đều giả tạo. Thơ Tương Phố nối tiếp truyền thống Chinh phụ ngâm,
Cung oán ngâm khúc, bằng chữ quốc ngữ, đưa ra mối sầu của người goá phụ
khóc chồng.
Trong
buổi giao thời ấy, văn thơ quốc ngữ còn bị giam trong vần điệu, bị chi phối bởi
những hình ảnh sáo mòn, tình cảm giả tạo.
Tự
Lực văn đoàn đã phiêu lưu trên con đường học tập viết văn quốc ngữ,
quyết đánh đổ niêm luật trong thơ, sự đối xứng trong văn, chôn những chết chóc
triền miên, diệt những sướt mướt trong tư tưởng đương thời, chủ trương đổi mới
ngôn ngữ, thành lập một nền văn chương quốc ngữ hiện đại và trong sáng cho
tiếng Việt: Sự khác biệt sau xa giữa Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách (1925)
và Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng (1932), cho thấy bước tiến khổng lồ mà
Tự Lực văn đoàn đã thực hiện được, ngay từ năm đầu tiên xuất hiện.
(Còn tiếp)
Thụy Khuê
thuykhue.free.fr
[1]
Trần Văn Chi, Gia Định Báo, in trong Kỷ yếu và triển lãm hội thảo
Trương Vĩnh Ký do Ban tổ chức xuất bản tại Cali, năm 2019.
[2]
Theo Đỗ Quanh Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Tủ sách Ra Khơi,
Sài Gòn, 1972.
[3]
Theo bài Sự hình thành và phát triển nền văn học quốc ngữ trong thế kỷ XX
của Thụy Khuê, in trên báo Văn Học số 165-166 (tháng 1 và 2 năm 2000),
California, viết theo tài liệu trong Hồ sơ Lục Châu học của Nguyễn Văn Trung.
[4]
Trích hồi ký Đời của tôi về văn nghệ của Hồ Biểu Chánh, bản đánh máy.
[5]
Nam Phong, phụ lục tiếng Pháp, số 69 (3/1923) và số 70 (4/1923).
[6]
Để biết thêm về Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác và Nam Phong, xin xem Nhân Văn
Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, chương 22: Vụ án Nam Phong, nxb
Tiếng Quê Hương, Hoa Kỳ, 2012. In trên mạng: thuykhue.free.fr
[7]
Tẩu trạch là chỗ đất thấp có nưóc và cỏ, chữ của Phạm Quỳnh, bản tiếng
Pháp ông viết sanctuaire (chính điện, hay thánh địa).
[8]
Trích theo bản dịch sang tiếng Việt của Phạm Quỳnh, in trong Nam Phong số 71
(5/1923).
[9]
Ở đây cũng vậy, chúng tôi chỉ tóm tắt những ý chính trong bài diễn thuyết ở
Viện Hàn Lâm của Phạm Quỳnh, Những đoạn in nghiêng là nguyên văn tiếng Pháp,
chúng tôi dịch sang tiếng Việt.
[10]
Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, quyển 3, Anh Phương
Ấn quán, 1965, Sài Gòn, Đại Nam, Hoa Kỳ chụp in lại, trang 150.
[11]
Vì nàng là goá phụ, đã có con.
Nguồn: Văn Việt