Sự
tiếp nhận Tự Lực văn đoàn
Trương
Chính là nhà phê bình đầu tiên có những nhận định sâu sắc, đầy
chất sáng tạo về Tự Lực văn đoàn. Tác phẩm Dưới mắt tôi (1939), phần
viết về Khái Hưng, Nhất Linh cũng đầy đủ và chân xác hơn nhiều người viết sau.
Ông đã đánh giá Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Gánh hàng hoa, Đời mưa
gió, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Trống mái, Gia đình, bằng cái nhìn của một nhà
phê bình hiện đại. Những bài viết của ông đến nay vẫn không bị lỗi thời.
Trong
thời kỳ miền Bắc triệt hạ Quốc Dân Đảng vì lý do chính trị và bản Đề cương
văn hóa của Trường Chinh đã khóa trái văn học trong bốn bức tường hiện thực
xã hội chủ nghiã, loại bỏ những tác phẩm lớn của nền văn học thời kỳ 1932-1945,
trong đó có những tác phẩm của Tự Lực văn đoàn: Trương Chính vẫn đứng
vững như cây tùng. Những bài viết của ông về Khái Hưng, Nhất Linh
vẫn được in lại trong Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (Nxb Xây Dựng,
1957) và Tổng tập văn học Việt Nam (Nxb Khoa Học Xã Hội, 1997).
***
Trương
Tửu cùng
thời với Phong Hóa. Ông ở trong nhóm Nguyễn Vỹ và thơ Bạch Nga, đối lập với Tự
Lực văn đoàn. Nhưng Trương Tửu có tính bốc đồng, khi khen Đoạn tuyệt thì
hết lời mà khi chê Lạnh lùng, Đời mưa gió cũng thái quá. Điểm này
chứng tỏ ông là một người cổ hủ (muốn đàn bà phải giữ đạo tiết hạnh, không chịu
được Khái Hưng, Nhất Linh bênh vực một cô gái điếm) và ông cũng không tinh tế
lắm vì không nhận ra được giá trị vượt trội của Lạnh lùng bên cạnh Đoạn
tuyệt, mặc dù ông được coi là nhà phê bình "mới nhất" vì là người
đầu tiên đưa phê bình mác-xít vào Việt Nam. Sau này, ông là lý thuyết gia của
phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, viết những bài lý luận nảy lửa đòi hỏi tự do dân
chủ và dìu dắt sinh viên đại học, đó chính là vết son ông để lại cho đời sau.
***
Vũ
Ngọc Phan: Bộ Nhà văn hiện đại, 5 tập (1941-1942) của Vũ
Ngọc Phan có giá trị dẫn đường trong một thời gian dài. Tuy còn nhiều điểm ông
đưa ra cần phải bàn lại hoặc đã lỗi thời, nhưng nhìn chung, bộ sách này là tác
phẩm phê bình lớn nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX. Vũ Ngọc Phan đã vẽ được bộ
mặt trung thực của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ. Ông giữ được lòng trung
thực khi phê bình, không bè phái, không thiên vị bạn bè, không xu nịnh. Khi
miền Bắc "đánh" Nhân Văn, ông im lặng, không về hùa. Ông lui về
nghiên cứu ca dao. Đó là một nhân cách.
Điểm
đáng tránh: vì người ta coi ông là thầy, nên cứ chép nguyên những gì ông viết,
thí dụ Vũ Ngọc Phan bảo Khái Hưng là nhà văn lý tưởng, nhà văn phong tục (có lẽ
vì ông biết Khái Hưng đặt tên cho tờ Phong Hóa), Nhất Linh là tiểu thuyết gia
luận đề, mọi người cũng cứ chép lại như thế, cả đến Nhất Linh cũng tin mình
viết tiểu thuyết luận đề là dở!
Tuy
nhiên công của Vũ Ngọc Phan không nhỏ: nếu bộ Nhà văn hiện đại bị cấm ở
Bắc, thì ở trong Nam, học sinh trung học vẫn được đọc và học bộ sách này; sau
có thêm bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ.
***
Dương
Quảng Hàm soạn Việt Nam văn học sử yếu năm 1941, là một trong
những cuốn văn học sử đầu tiên của ta, Tự Lực văn đoàn được đưa vào chương bảy,
tức là chương chót. Là sách yếu lược, tóm tắt những gì chính yếu cho lịch sử
văn học gần ngàn năm, nên chỗ đứng của văn học quốc ngữ chỉ chiếm vài trang.
Tuy nhiên giáo sư Dương Quảng Hàm đã có những lựa chọn và phân chia chính đáng:
ông chia văn học nửa đầu thế kỷ XX làm hai phái tân cựu và nói rõ đặc tính của
mỗi phái, nêu tên những nhà văn tiêu biểu. Thí dụ khi viết về Thơ mới, ông chọn
ba nhà thơ tiêu biểu: Hàn Mặc Tử, Thế Lữ và Xuân Diệu, là một lựa chọn tinh
tường. Phần về Tự Lực văn đoàn, từ trang 453 dến trang 456, sau khi nó rõ tôn
chỉ và đường hướng văn chương của họ, ông giới thiệu mấy tác phẩm chính của
Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, rồi xác định công việc của Tự Lực văn đoàn đã
làm. Tuy sơ lược, nhưng những ý kiến của giáo sư Dương Quảng Hàm có giá trị đến
ngày nay. Sách viết và in dưới thời Pháp thuộc, nên ông không thể nhắc đến tinh
thần chống Pháp của Tự Lực văn đoàn. Nhưng ông không nhắc đến Hoàng Đạo, Thạch
Lam, là một thiếu sót.
***
Phạm
Thế Ngũ viết bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên,
một công trình đồ sộ, ba cuốn, in từ 1961 đến 1965 tại Sài Gòn. Đây là bộ văn
học sử đầy đủ và đúng đắn hơn cả. Cuốn ba, dành cho văn học hiện đại 1862-1945,
ông đã nghiên cứu khá kỹ hai trào lưu tân cựu lớn nhất của văn học quốc ngữ:
nhóm Đông Dương-Nam Phong (Nguyễn Văn Vĩnh-Phạm Quỳnh) và nhóm Phong Hóa-Ngày
Nay (Tự Lực văn đoàn). Về nhóm Tự Lực, ông nghiên cứu các tác phẩm tiêu biểu
của Nhất Linh, Khái Hưng, và Thạch Lam. Ông có nhắc đến tính cách trào phúng
của Phong Hóa nói chung, nhưng ông không nhận ra giá trị văn trào phúng của
Hoàng Đạo. Nhất Linh cho biết: những đoạn Vũ Ngọc Phan viết về Đoạn tuyệt,
Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng đã bị kiểm duyệt của Pháp hồi đó (1942) xoá
bỏ[1].
Vì vậy, chúng ta có thể hiểu tại sao những nhà nghiên cứu thập niên 40, như
Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, không hoặc không dám nhắc nhở đến tính cách phản
kháng chính trị của Tự Lực văn đoàn; nhưng tại sao, những nhà nghiên cứu sau
này như Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng cũng bỏ qua?
Ngoài
ra, Phạm Thế Ngũ phạm một số sai lầm:
1-
Phần về Tự Lực văn đoàn, được mở đầu bằng câu: "Nói đến Tự Lực văn
đoàn, người ta không thể không trước hết nói đến Nguyễn Tường Tam người đã hầu
như một mình đứng ra sáng lập ra nó"[2].
Một người nghiên cứu thận trọng không thể viết như thế, bởi vì cả phần Tự
Lực văn đoàn sau đó, không thấy chỗ nào ông chứng minh được rằng: Nguyễn
Tường Tam một mình đứng ra sáng lập Tự Lực văn đoàn cả. Nhưng câu
này đã được người ta chép lại rất nhiều, từ đó nảy sinh sự độc tôn vai trò của
Nhất Linh trong Tự Lực, bởi vì người ta tưởng Nhất Linh làm tất cả. Thậm chí Vu
Gia còn viết: "Lúc đầu, Khái Hưng vẫn tiếp tục viết những bài nghị
luận, vì ông cho đó là sở trường của ông. Nhưng ông Nhất Linh khuyên ông nên
viết truyện ngắn, truyện dài có tính cách văn nghệ thì hơn. Mãi ông mới chịu
thí nghiệm loại này, và sự thành công của ông mỗi ngày một rõ rệt"[3]
Câu này tiêu biểu cho cách viết suy diễn từ một ý của người đi trước. Nghe
người ta kể, hay chính Tú Mỡ, Thế Lữ kể rằng Nhất Linh "bảo" Tú Mỡ
làm thơ trào phúng, Nhất Linh "bảo" Thế Lữ viết truyện trinh thám…
thì có thể được, nhưng suy ra rằng: Nhất Linh cũng "bảo" Khái Hưng
viết truyện ngắn, truyện dài, thì không được nữa rồi. Sai một ly đi một dặm.
Nhất là khi những người viết sau, chỉ dựa vào những điều người đi trước đã viết
hoặc chỉ dựa trên những giai thoại do vài người ở gần hay ở trong Tự Lực văn
đoàn kể lại (có khi hoàn toàn bịa đặt) thì nhất định đưa đến sai lầm.
2-
Ông lại viết: "Trong tập Những ngày vui viết về sau, Khái Hưng có cho
biết họ có ý định khi đó lập một thứ "pléiade" với "bảy vì
sao". Đó là Nhất Linh tức Nguyễn Tường Tam (cũng ký các biệt hiệu khác Nhị
Linh, Bảo Sơn, Đông Sơn), Khái Hưng tức Trần Khánh Dư, Tú Mỡ tức Hồ Trọng
Hiếu…" (trang 433-434). Tôi đã dò cả bản trên báo lẫn bản in sách Những
ngày vui, không thấy chỗ nào Khái Hưng nhắc đến hai chữ Thất tinh.
Việc này tôi sẽ viết rõ hơn trong chương Chúc thư văn học của Nhất Linh,
ở đây chỉ đưa ra nhận xét: Phạm Thế Ngũ không đọc Những ngày vui của
Khái Hưng. Rồi ông lại tưởng Nhị Linh là bút hiệu của Nhất Linh, thực ra Nhị
Linh là Khái Hưng. Sự nhầm lẫn này khiến tất cả những bài viết của Khái Hưng ký
Nhị Linh, nhiều lắm, đều được đưa vào "sổ" Nhất Linh. Mà không chỉ
mình Phạm Thế Ngũ, nhiều người cũng tưởng như thế, có lẽ họ chép lại cái sai của
ông.
3-
Ông viết: "Có điều phải ghi nhận là trong tất cả các nhà văn Tự Lực,
Thế Lữ có lẽ là người có câu văn tinh vi, rèn giũa hơn cả. Đọc ông, người ta có
cái cảm tưởng thấy cái khó tính của người chuyên "đãi hạt sạn" trên
Phong Hóa Ngày Nay, và không muốn chấp nhận nơi mình một sự dễ dàng lỏng lẻo
nào cả." (trang 486-487)
Ông
lại tưởng ngòi bút chuyên "đãi hạt sạn" trên Phong Hóa Ngày
Nay là Thế Lữ, cho nên ông xác định trong tất cả các nhà văn Tự Lực,
Thế Lữ có lẽ là người có câu văn tinh vi, rèn giũa hơn cả, bởi vì ông cũng
lại không biết, người đãi sạn trên Phong Hóa có bút hiệu Nhát Dao Cạo và
Hàn Đãi Đậu là Khái Hưng, một thứ ngự sử văn đàn ở Bắc, giống như Phan Khôi ở
trong Nam.
Những
sai lầm này khiến ông không nhìn nhận đúng mức vai trò của các nhà văn trong Tự
Lực văn đoàn. Ông cũng không nhắc đến Hoàng Đạo vì ông không nhìn thấy giá trị
văn chương hài hước của Hoàng Đạo, sau Hoàng Tích Chu, là người đã khai phá lối
viết hoạt kê châm biếm trong văn học Việt Nam và là lý thuyết gia của Tự Lực
văn đoàn, người đầu tiên viết những bài lý luận nghiên cứu chặt chẽ và sâu sắc
về quyền công dân, luật lao động, về xã hội dân sự, đòi hỏi tự do dân chủ và
quyền làm người.
***
Nhật
Thịnh và cuốn Chân dung Nhất Linh
Cuốn
Chân dung Nhất Linh của Nhật Thịnh gần như là tác phầm duy nhất viết về
Nhất Linh (còn một cuốn nữa của Lê Hữu Mục, tôi chưa được đọc), do Văn xuất bản
tại Sài Gòn, 1966, bản Đại Nam chụp lại ở hải ngoại không đề năm. Nhật Thịnh có
công đọc và giới thiệu khá đầy đủ tác phẩm và tìm hiểu cuộc đời, cái chết của
Nhất Linh. Ông cũng đã gặp Nguyễn Tường Thiết, con út Nhất Linh để hỏi những
thông tin và xin tài liệu hình ảnh khi soạn sách. Ông lại thuộc lớp người có
thể tiếp xúc với Nhất Linh lúc sinh thời, nên cuốn sách được nhiều người tin
cậy, nhiều nơi trích dẫn và được coi là cuốn sách đầy đủ nhất về Nhất Linh.
Nhưng
Nhật Thịnh không quen việc viết biên khảo, nên ông mắc những lỗi lầm quan trọng
mà giới chuyên môn không làm:
1-
Ông không để ý đến nguồn dẫn chứng, rất ít khi ông viết rõ, trích ở sách nào.
Vì vậy, những tài liệu ông đưa ra, nhất là về đoạn cuối đời Nhất Linh, đôi khi
rất quý, nhưng lại không có số hiệu tham chiếu (note de référence), nên không
tiện dụng.
2-
Ông hay chép lại cái sai của người khác mà không kiểm chứng, ngay câu mở đầu: "Nhất
Linh (Nhị Linh hay Bách Linh) là bút hiệu của Nguyễn Tường Tam" là đã
thấy sai rồi: Không! Nhị Linh là bút hiệu của Khái Hưng. Cái sai này ông chép
lại Phạm Thế Ngũ và còn thêm vào hai chữ Bách Linh nữa! Bách Linh là tên Thạch
Lam (ít khi ký). Lê Ta (Thế Lữ) trong bài Lê Ta làm báo (Phong Hóa số
104, 29-6-34) kể lại câu chuyện: Ông ở trọ Bạch Mai, đang đói, được Bách Linh
gọi về ở chung nhà Hàng Bông, làm báo một tuần bốn ngày, lương 30 đồng một
tháng, v.v.
3-
Nhật Thịnh hay thêm thắt, để đề cao sự khám phá của mình về cái tên Nhất Linh,
ông viết: "Để đả phá cái quan niệm sai lầm đó [tin rằng mọi việc
đều linh thiêng, thần thánh] ông tự cho ông cũng là một cái gì linh thiêng
và tự nhận là Nhất Linh, Nhị Linh. Khái Hưng bắt chước ông ký tên Nhất Linh,
Nhị Linh hay Tam Linh, Bách Linh." (trang 19, bản Đại Nam). Vẫn trong
"tinh thần" cho rằng Khái Hưng là "đồ đệ" của Nhất Linh,
ông bảo Khái Hưng bắt chước Nhất Linh, ký cả bốn tên: Nhất Linh, Nhị Linh, Tam
Linh, Bách Linh. Sao tham lam quá vậy? Tam Linh là bút hiệu của Nhất Linh, còn
Bách Linh tôi đã nói ở trên rồi. Đó là nhưng sai lầm vì không biết. Nhưng cái
sai lầm chính trong cuốn Chân dung Nhất Linh là về phương pháp:
4-
Nhật Thịnh viết biên khảo như viết tiểu thuyết vậy, đó là phương pháp biên
khảo hư cấu.
Thí
dụ trong chương VI tựa đề Nhóm Tự Lực văn đoàn, ông viết như sau:
"Hồi
Nhất Linh còn dạy ở trường Thăng Long, ông để ý tới một bài khảo luận ngắn trên
báo Văn Học, ký tên Bán Than. Chắc anh chàng này có họ với ông Trần Khánh Dư
đời Trần, tác giả bài:
Một
gánh kiền khôn ruổi xuống ngàn,
Hỏi
chi bán đấy? Gửi rằng than
Đột
nhiên ông nhớ tới giáo sư Trần Khánh Giư, một người kín đáo, dễ thương, từ đó
hai người biết nhau. Nhất Linh thấy Khái Hưng có khả năng hiếm có về văn chương
(…) Họ cùng một tinh thần chống Pháp, thấy cần phải sát cánh nhau hơn. Họ thảo
luận để thành lập một ban biên tập gồm những người cầm bút có tinh thần hoạt kê
và triệt để chống hủ tục, dị đoan" (trang 128).
Về
Hoàng Đạo, ông cũng viết như thế:
"Hoàng
Đạo lấy tên là Tứ Ly. Đó là tên một giờ xấu mọi người đều tránh nhưng ông không
kiêng mà còn đặt cho mình cái tên xấu đó. Sau ông bị bọn mật thám Pháp theo dõi
và làm khó dễ, bởi ông hay viết những bài công kích người Pháp ở Việt Nam. Để
tránh những sự lôi thôi có hại cho tờ Phong Hóa, ông đổi tên là Hoàng Đạo (giờ
Hoàng Đạo), trái với Tứ Ly để trêu người Pháp. Vì thế năm 1936, ông bị phát
phối đi Đà Nẵng. Trường hợp ông giống như Cao Bá Quát" (trang
128).
Ông
tường thuật mọi chuyện một cách rất tự nhiên, như ông đã từng mục kích, ông
biết cả Nhất Linh, Hoàng Đạo nghĩ gì, nói gì. Ông còn kể lời Trương Bảo Sơn
thuật lại rằng:
"Trong
khi đi dạy học, anh [Nhất Linh] để dành tiền làm báo, anh kiếm người
cộng sự làm báo, tất cả tâm chí anh chỉ để vào có một mục đích là làm báo. Đến
khi anh gặp dịp ông Phạm Hữu Ninh nhường cho làm tờ Phong Hóa, anh em không ai
ngạc nhiên thấy anh bỏ cái nghề hàng tháng (nghề dạy học) đương cung cấp cho
anh ba trăm đồng bạc lương để làm một nghề chỉ đem lại cho anh có 30 đồng bạc,
nghiã là 1/10 số lương cũ" (trang 34).
Những
lời kể trên đây – dù ghi là của Trương Bảo Sơn – cũng không tin được, bởi vì
Nhất Linh làm báo từ năm 1932, nhưng ông vẫn dạy học (theo bảng quảng cáo tên
các giáo sư trường Thăng Long in trên Phong Hóa). Ông chỉ ngừng dạy trong hai
niên khóa 1935-1936 và 1936-1937, rồi ông trở lại dạy niên khóa 1937-1938
(vẫn theo quảng cáo trên Phong Hóa). Hơn nữa Trương Bảo Sơn chỉ gặp Nhất Linh
lần đầu ở chiến khu Vĩnh Yên: "Lần đầu tiên tôi được gặp ông [Nguyễn
Tường Tam], tiếp xúc với ông là ở Chiến khu của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong
tỉnh Vĩnh Yên, sau khi ông từ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Liên
Hiệp kháng chiến, trên đường ông đi sang Trung Hoa"[4].
Vậy
thì làm sao Trương Bảo Sơn có thể biết được những việc xảy ra khoảng 1930-1932?
Mà lại sai như thế thì chắc chắn không do Nhất Linh kể lại cho ông Sơn nghe
trong thời kỳ sống chung với nhau ở Hương Cảng rồi.
Cũng
vẫn theo cách đó, Nhật Thịnh viết về tuổi thơ của Nhất Linh, đi học như thế
nào, ở trường làm gì, bạn bè đối đãi ra sao, hệt như Nhất Linh kể lại. Đặc biệt
là đoạn Nhất Linh "theo cách mạng" như sau:
"Ông
hưởng ứng lời kêu gọi của Nguyễn Thái Học, lãnh tụ Việt nam Quốc dân đảng, xin
gia nhập đảng và tìm đường vào Nam hoạt động. Ngày 4-3-1926 ông tiếp xúc với Vũ
Đình Di và Trần Huy Liệu…" (trang 29), nghiã là cứ như thật, còn ghi
rõ cả ngày tháng gặp gỡ nữa. Mặc dù không thấy tài liệu nào nói Nguyễn Tường
Tam xin gia nhập đảng của Nguyễn Thái Học cả. (Nếu có thật thì Hoàng Văn Đào đã
viết lại rồi).
Ông
còn ngây thơ nữa, ví dụ truyện Đi Tây Nhất Linh viết ký tên Lãng Du, có
nhiều chỗ ông bịa, nhất là việc ông xin đi Pháp, gửi đến 10 lá đơn mà không
được trả lời, phải nhờ cô nhân tình… thế này thế kia, mà Nhật Thịnh tin là
thật, trích lại. Sự thật Nhất Linh xin được học bổng của các quan ở Huế cấp cho
đi du học.
Vì
vậy, cuốn sách của Nhật Thịnh có những giới hạn, đọc như tiểu thuyết thì rất
hấp dẫn nhưng khó dùng trong việc nghiên cứu.
Hiện
nay có nhiều sinh viên ngoại quốc làm luận án văn chương Việt. Trong bản luận
án về Nhất Linh của cô Maria Strakovova, một sinh viên Tiệp Khắc, thấy trích
dẫn Nhật Thịnh khá nhiều. Sinh viên Nhật nghiên cứu Việt học cũng có, họ làm
việc rất cẩn thận. Aki Tanaka nghiên cứu và làm luận án về Khái Hưng, đã sang
Việt Nam ở nhiều năm học tiếng Việt và để thấm nhuần văn hóa Việt nữa. Cho nên
chúng ta phải hết sức cẩn thận trong việc nghiên cứu, không họ cười cho.
***
Hiện
nước ta giàu mạnh lên là tốt, nhưng không thể tiếp tục lối sống ấu trĩ về văn
hóa mãi được, kiểu một cuốn sách có vài câu phê bình chủ tịch Hồ Chí Minh như
cuốn Một cơn gió bụi của học giả Trần Trọng Kim, in ra là bị tịch thu
liền. Tôi cho đó không những biểu dương sự ấu trĩ tinh thần mà còn là sự tụt
hậu sâu xa; cũng như không thể cung cấp cho sinh viên những loại tài liệu về Tự
Lực văn đoàn, qua bộ sách quý hóa của giáo sư Thanh Lãng dưới đây.
Thanh
Lãng và Bản lược đồ Văn Học Việt Nam
Thanh
Lãng là giáo sư Đại học Văn khoa, tiến sĩ văn chương Pháp, một
trong những giáo sư văn khoa hàng đầu ở miền Nam; ảnh hưởng của ông rất lớn vì
ông dạy các đại học văn khoa Huế, Sài Gòn, từ 1957 đến 1975, ngoài việc giảng
dạy ông còn viết nhiều sách nghiên cứu.
Bộ
sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam, hai tập, của ông được dùng ở Đại
học văn khoa và là một trong những cuốn sách được xem là "khuôn
mẫu" cho người nghiên cứu. Tự Lực văn đoàn nằm trong Bảng lược đồ văn
học Việt Nam, quyển hạ, phần Văn Học thế hệ 1932 (1932-1945),
Chương I: Đặc tính chung của thế hệ 1932.
Năm
1972, khi in bộ sách Phê bình văn học thế hệ 1932, ông đưa phần này lên
đầu, có sửa chữa đôi chút và phân chia tiểu đoạn rõ ràng hơn, nhưng vẫn giữ
nguyên nội dung câu chữ. Hiện nay, phần viết này lại được đưa lên mạng Chim
Việt Cành Nam. Vì vậy chúng tôi thấy cần phải nhìn lại quan điểm của giáo sư
Thanh Lãng về Tự Lực văn đoàn.
Chọn
năm 1932 làm khởi điểm cho một nền văn học mới, Thanh Lãng viết:
"Thực
vậy, chung quanh những năm 32, nhiều biến cố quan trọng đã xảy ra, giúp vào
việc sửa soạn và xô đẩy, hầu như một cách ức bách, sự thành hình một hướng đi
mới, một lối sống mới, một lối hành động mới, một lối cảm xúc mới, một lối suy
tư mới… một lối viết mới với những nhà lãnh đạo mới.
Lý
do rất phức tạp, thuộc đủ mọi chiều hướng: chính trị, kinh tế, xã hội, văn học,
tâm lý…"[5]
Ông
kể ra bốn lý do chính đã đưa đến sự đổi mới này:
1-
Những biến động chính trị: Việt Nam Quốc Dân Đảng nổi lên và bị đàn áp. Nhiều
đảng phái mới ra đời. Đáng kể hơn cả là Đông Dương Cộng sản Đảng.
2-
Việc vua Bảo Đại hồi loan.
3-
Những cải cách của nội các Bảo Đại.
4-
Lối sống xé rào của vị vua trẻ.
Về
điểm số 1: sự đổi mới văn học là do những biến động chính trị, không cần bàn vì
ông có lý hay không, không quan trọng. Nhưng ba điểm sau, cần phải bàn lại.
Sự
đổi mới phát xuất từ khi vua Bảo Đại về nước?
Để
chứng minh rằng gốc gác của việc canh tân là do lòng mong muốn của chính phủ
Pháp, ông dẫn lời Albert Sarraut, cựu Toàn quyền Đông Dương, lúc đó là Bộ
trưởng Thuộc Địa, khi tiễn vua Bảo Đại lấy tàu về nước, ở Marseille, nói:
"Tâu
Hoàng Thượng, Hoàng Thượng sẽ gánh một gánh rất nặng nề, là phải làm một vị Đế
vương tân thời, song phải tuân theo cổ tục, Ngài phải làm cho một nước cổ hóa
ra một nước kim… " (Sđd, trang 599).
Và
ông cho rằng, việc vua về nước đã làm thay đổi mọi sự, đặc biệt nhà vua đã thay
đổi nội các:
"Nội
các cũ gồm các quan già bị bãi bỏ và theo đạo dụ chỉ ngày mồng 2 tháng 5
năm 1933, vua Bảo Đại công bố thành phần một nội các mới gồm những vị Thượng
Thư rất trẻ: Ngô Đình Diệm, Bộ Lại, ba mươi mốt tuổi; Phạm Quỳnh, Bộ Quốc Dân
Giáo Dục, bốn mươi tuổi, Hồ Đắc Khải, Bộ Tài Chánh, ba mươi tám tuổi, Bùi Bằng
Đoàn, Bộ Tư Pháp, bốn mươi sáu tuổi, Thái Văn Toản, Bộ Công Tác, bốn mươi bảy
tuổi" (trang 602).
Ông
cũng cho rằng việc vua Bảo Đại hồi loan làm cho lòng dân khắp nơi hoan hỷ, và
đã có ảnh hưởng lớn về mặt chính trị:
"Thật
vậy, không những người Pháp làm ra mặt hoan hỉ, không những người dân đơn sơ tỏ
ra vui mừng vì có được một vị vua đầu tiên văn minh tân tiến, mà cả đến dư luận
báo chí toàn quốc đều tỏ nỗi hân hoan và hiên ngang trong dịp vua Bảo Đại hồi
loan (…)
Ấy
khía cạnh và ảnh hưởng chính trị của việc vua Bảo Đại hồi loan là như vậy"
Đến
như việc canh cải học chánh, sửa đổi đường lối giáo dục, vua Bảo Đại cũng có
nhiều ý kiến đáng lưu ý, gây được nhiều dư luận thuận lợi cho nhà vua"
(trang 602-603).
Sau
khi trích dẫn dài rộng bài viết trên Văn học tạp chí số 4 tháng 8 và 9- 1932,
ca tụng việc ngự giá hồi loan và để chứng minh cho việc vua Bảo Đại được toàn
dân ủng hộ, ông viết tiếp:
"Tuần
báo Phong Hóa cũng có nhiều bài nói về việc vua Bảo Đại hồi loan, nhất là việc
loan truyền những chỉ dụ của nhà vua đối với công cuộc canh tân xứ sở.
Tất
cả cái chủ trương của vua Bảo Đại cũng như của Pháp lúc ấy là hô hào canh tân,
xây dựng một nước Việt Nam mới, cởi bỏ được cái tập tục cũ."
(trang 605).
Sau
việc ngự giá hồi hương, Thanh Lãng nói đến những cải cách của nhà vua.
Những
cải cách của nội các Bảo Đại
Để
chứng tỏ nhà vua thực hiện việc cải cách, ông trích lời huấn dụ ngày 10-9-32
của Bảo Đại:
"Ta
sẽ tuyển dụng cũng như thời xưa là do thí khảo, đề mục luân lý kinh văn và cũng
có khoa học về chính trị phép luật tân thời, hễ ai được thắng phân số là trúng
tuyển. (…)
…
nhân có chánh phủ Bảo hộ đã tổ chức học vụ hay tốt, đặt thầy có mô phạm tân
thời, cứ cơ sở vững bền ấy, ta sẽ sửa lại bộ Học sẽ gọi bằng bộ Quốc dân Giáo
dục, để biểu minh chú ý.
Ta
muốn sắp đặt việc giáo dục của quốc dân theo nền vững bền gia đình giáo dục và
luân lý đời xưa." (trang 604-605).
Bài
dụ rất dài, nhưng chúng tôi tạm trích dẫn vài câu như vậy, để độc giả thấy cái
tinh thần hồ hởi của giáo sư Thanh Lãng khi viết những dòng trên đây.
Những
dòng này, nếu giáo sư Thanh Lãng viết cuối năm 1932 (vua Bảo Đại về nước tháng
9-1932) thì còn hiểu được, nhưng ông viết ở Sài Gòn, năm 1966-67, thì thật
không thể hiểu nổi.
Toàn
dân vui mừng và tin tưởng khi vị vua trẻ về nước là điều tự nhiên. Nam Phong số
186 (tháng 7-1933) Số đặc biệt để nghênh giá đức Bảo Đại Hoàng Đế, có
những cái tựa hết sức gợi cảm: Vị quốc vương tân thời thứ nhất của nước Nam;
Đô thành Huế là trung tâm điểm của chính trị Pháp-Việt. Triều đình mới; Triều
đình mới của Việt Nam hoạt động; Những lời chỉ dụ của Hoàng Đế; Các báo Pháp ca
tụng đức Bảo Đại…
Nhưng
những lời lẽ "phúng dụ" này không sống lâu hơn vài tháng. Những niềm
tin cũng theo nhau chết yểu: Phong Hóa đăng tin vua về nước vài tháng rồi tịt.
Nam Phong sau số đặc biệt, cũng ngừng luôn. Bởi vì người Pháp có cho vua làm
những điều ông mong muốn đâu?
Chỉ
hơn một năm sau, sự thực phũ phàng lộ rõ: Người Pháp chỉ đưa vua về để làm bù
nhìn. Họ nói miệng chứ không cho vua tự ý cải cách bất cứ điều gì. Rút cục, nhà
vua chỉ xin được họ nới rộng việc canh giữ cụ Phan Bội Châu và đặt tên lại cho
bộ Học là Bộ Quốc dân Giáo dục mà thôi, bởi vì về việc học, “chánh phủ Bảo
hộ đã tổ chức học vụ hay tốt, đặt thầy có mô phạm tân thời" rồi.
Năm
1995, khi chúng tôi phỏng vấn giáo sư Hoàng Xuân Hãn, người đã từng kèm toán
vua ở Paris, ông ngậm ngùi nhắc lại chuyện ông về thăm vua năm 1934, ông nói
với vua: "Những người thanh niên Việt Nam nhiều người nhìn vào Ngài về
cải cách này, cải cách kia, thì phải làm cái gì, chứ mà ai cũng để ý tới, nhất
là thanh niên Việt Nam. Ông chỉ giả lời tôi một câu, lúc ấy ông chỉ nói: Làm
thì làm với ai? Làm với ai?". Rồi năm 1942, ông về Huế, lại đến thăm
vua lần nữa: "Thấy bộ ông ấy buồn lắm. Trông thấy ông ấy buồn lắm và
ông ấy không dám nói một cái gì hết cả!"[6].
Đó mới là sự thực.
Nếu
giáo sư Thanh Lãng đã nhìn thấy "Tất cả cái chủ trương của vua Bảo Đại
cũng như của Pháp lúc ấy là hô hào canh tân, xây dựng một nước Việt Nam mới,
cởi bỏ được cái tập tục cũ" thì thực là ông quá ngây thơ hoặc ông quá
nông cạn. Năm 1932, học giả Phạm Quỳnh cũng đã tin như thế, ông bỏ Nam Phong để
về Huế làm Thượng thư, rồi cũng không làm được gì cả, nhưng ông ở lại Huế, có
lẽ vì không nỡ để vua một mình. Ông Ngô Đình Diệm chỉ ở lại ít lâu, biết mình không
có thực quyền, cũng đã từ chức. Vì thế khi Nhật đảo chính Pháp, trao lại chính
quyền cho Bảo Đại, nhà vua đã mời hai học giả Trần Trọng Kim và Hoàng Xuân Hãn
về Huế, lập chính phủ. Hoàng Xuân Hãn kể lại: "Ông Bảo Đại đã nói với
cụ Kim cũng như với tôi là: "Từ trước đến giờ các anh muốn nước
Việt Nam độc lập, bây giờ có cơ hội thì lại chối, mình không chịu [nhận] độc
lập, thế rồi sau này nói thế nào [với quốc dân]?" Vì câu ấy, mới
convaincre [thuyết phục] được cụ."[7]
Xem như vậy, người Pháp chưa hề có ý định để cho ta độc lập dù họ có lập ra
mấy chính phủ mới cũng thế thôi. Chỉ đến khi chính phủ Trần Trọng Kim ra đời,
với những nhà trí thức chân chính, trong bốn tháng, đã làm được những việc cải
cách thực sự, nhất là về giáo dục.
Vậy
mà giáo sư Thanh Lãng viết về chính phủ Trần Trọng Kim như thế này: "Chính
phủ Trần Trọng Kim đã nhờ vào thế lực của Nhật, lật được ách thống trị của Pháp
để tuyên bố độc lập, nhưng nền độc lập của chánh thể Trần Trọng Kim không được
ai để ý, thậm chí có người còn không biết đến" (trang 637). Cách viết
của Thanh Lãng là như thế, đầy những lỗi "tày đình": Chính phủ
Trần Trọng Kim lật được ách thống trị của Pháp? Lật như thế nào? Bao
giờ?
Lối
sống xé rào của vị vua trẻ
Để
chứng minh "công lao" của nhà vua trong việc "cải cách",
giáo sư Thanh Lãng viết:
"Bởi
vì vua Bảo Đại, như ta thấy, tỏ ra rất ham cải cách, bỏ các thói tục cổ hủ như
tục lạy lục. Lần đầu tiên, một nhà vua Việt Nam đã dám du tuần khắp nước một
cách bình dị như vua Bảo Đại. Cũng lần đầu tiên, một vua Việt Nam lấy có một vợ
mà người vợ ấy vừa là con gái bình dân, vừa là người công giáo, một tôn giáo
dầu sao vẫn chưa được triều đình, nhất là hoàng tộc ưa thích. Vua Bảo Đại đã
hành động theo sở thích chứ không hành động theo lễ giáo, hay tập tục cũ, dưới
sự thúc bách của hoàng tộc" (trang 632).
Và
ông đưa ra một kết luận xanh rờn:
"Đi
trước cả Khái Hưng, Nhất Linh trong Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đoạn
tuyệt, Bảo Đại đã tranh đấu thành công cho việc tự do kết hôn, cho chế độ, độc
thê, mà nhất là trong việc đánh thẳng vào chế độ đại gia đình. Bảo Đại đã chủ
trương tự do cá nhân trước cả Tự Lực văn đoàn" (trang
632-632).
Giáo
sư Thanh Lãng đã lầm lộn một hành động cá nhân với sự tranh đấu cho một xã hội:
vua Bảo Đại lấy một vợ là chuyện riêng của ông ấy, vả lại ông đi Pháp từ
lúc 9 tuổi, được vợ chồng ông cựu công sứ Charles nuôi, thấm nhuần văn hóa
Pháp, thì chuyện lấy một vợ chẳng có gì là lạ. Chỉ khi nào nhà vua ra được
đạo dụ cấm đa thê, thì lúc đó ông mới cải tiến xã hội Việt Nam. Ông làm
vua, đã không có quyền cai trị dân tộc mình, mà lại còn không được tự do lấy vợ
nữa, thì sống làm gì? Giáo sư Thanh Lãng có nghĩ đến điều đó chăng?
Tệ
hại nhất là ông giáo sư còn cho rằng: vua Bảo Đại đã làm tất cả mọi việc trước
Tự Lực văn đoàn: "Bảo Đại đã tranh đấu thành công cho việc tự do kết
hôn, cho chế độ, độc thê, mà nhất là trong việc đánh thẳng vào chế độ đại gia
đình. Bảo Đại đã chủ trương tự do cá nhân trước cả Tự Lực văn đoàn."
Không!
Vua Bảo Đại đã bị Pháp bó chân bó tay từ năm 1933 rồi. Việc xã hội Việt Nam cải
tiến, không hề nhờ Bảo Đại, mà phần lớn là nhờ tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất
Linh, nhờ văn trào phúng của Hoàng Đạo, văn nghị luận của Hoàng Đạo, tranh hý họa
của Nguyễn Gia Trí, những người ấy đã hy sinh cả cuộc đời để theo đuổi cuộc
tranh đấu này. Nếu Thanh Lãng không nhìn ra, thì cũng đừng bội bạc xoá bỏ.
Nhưng
tác hại sâu xa nhất là việc Thanh Lãng hiểu lầm, hoặc cố ý xuyên tạc chủ trương
của Phong Hóa Ngày Nay. Trong phần giới thiệu bộ mặt của nền văn học mới, tất
cả nhận định của ông về báo Phong Hóa, đều xoay quanh một điểm: Phong Hóa hạ
bệ tất cả.
Phong
Hóa hạ bệ tất cả
Để
giới thiệu Phong Hóa, câu đầu Thanh Lãng viết rất nồng nhiệt:
"Trước
khi được đặt dưới quyền điều khiển của Nguyễn Tường Tam, tuần báo Phong Hóa của
ông Phạm Hữu Ninh, ngay từ số 1 ra tháng Juin 1932, cũng đã có một nội dung
khác hẳn các báo đương thời cả về văn cũng như về ý tưởng. Trần Khánh Giư (Khái
Hưng) là cây bút cốt cán, giữ nhiều mục quan trọng trên Phong Hóa suốt từ số 1
cho đến số 14.
Nhưng
từ số 14 ra cuối tháng Septembre1932, khi mà Nguyễn Tường Tam đứng ra điều
khiển tờ báo này với sự cộng tác thường xuyên của Khái Hưng, Tú Mỡ, Tứ Ly
(Hoàng Đạo)… thì báo Phong Hóa quả là trái bom nổ giữa làng báo" (trang
610).
Sau
lời giới thiệu "hoành tráng" đó, giáo sư Thanh Lãng bắt đầu công phá.
Trước hết, ông nhắc lại công lao của Nam Phong:
"Thực
vậy, trong suốt mười mấy năm trường, Nam Phong hầu như giữ công việc của một
Viện Hàn Lâm. Điều gì Nam Phong viết ra đều là hay, văn Nam Phong viết ra là
đẹp, ý kiến Nam Phong bàn là được tôn trọng, luật lệ Nam Phong đặt ra mọi người
tuân theo, chữ Nam Phong chế ra mọi người đều dùng. Người ta coi Nam Phong như
bậc thầy." (trang 611).
Ông
ca tụng Nam Phong như vậy, để tung ra câu kế tiếp:
"Vậy
mà năm 1932, vừa bắt đầu ra đời, tuần báo Phong Hóa đã đánh thẳng vào Nam
Phong, đánh các người lãnh đạo Nam Phong, đánh chính báo Nam Phong, đánh ngay
cả chủ trương về tư tưởng và nghệ thuật của nhóm Nam Phong bênh vực, tức là
quốc dân bênh vực có trên hai chục năm." (trang 611)
Không
thể tuyên bố như thế về một tờ báo, dù là tờ Nam Phong, nhất là người đó lại là
một giáo sư đại học về văn chương. Bởi vì chính sự suy nghĩ và suy xét, không
cho phép ta công kênh bất cứ một tờ báo nào lên hàng thầy của một dân tộc cả.
Mà đại học là ngưỡng cửa mở cho sinh viên vào suy nghĩ, suy luận, trước khi
công nhận bất cứ điều gì. Đành rằng Nam Phong có những giá trị không thể chối
cãi được, nhưng không ai có thể nói rằng: Điều gì Nam Phong viết ra đều là
hay, văn Nam Phong viết ra là đẹp, ý kiến Nam Phong bàn là được tôn trọng, luật
lệ Nam Phong đặt ra mọi người tuân theo.
Việc
định tội ở đây rất rõ ràng: Sau khi kể công trời biển của Nam Phong, Thanh Lãng
giáng một đòn chí tử: Đánh vào Nam Phong, đánh vào các lãnh đạo của Nam Phong,
tức là đánh vào quốc dân bởi vì Nam Phong là thầy quốc dân! Một thứ lập luận
như vậy, làm sao có thể chấp nhận được ở thời buổi tự do dân chủ, tự do báo
chí.
Sự
cấm phạm thượng, là nguyên tắc của hai chế độ: quân chủ chuyên chế và độc tài
toàn trị. Việt Nam đã có kinh nghiệm nhỡn tiền: sau bao nhiêu năm (miền Bắc từ
45, cả nước sau 75) bị cấm cười, các nhà văn hài hước bị tuyệt chủng, bây giờ
nếu muốn gây giống lại, thì phải cho in tác phẩm của Hoàng Đạo, chủ soái của
loại văn hài hước châm biếm này.
Tôi
không nghĩ giáo sư Thanh Lãng chịu ảnh hưởng Vua Chúa hay Xít-Ta-Lin; là linh
mục nên có lẽ ông bị ảnh hưởng của Giáo hội nhiều hơn. Thái độ của ông nhắc ta
nhớ lại thời kỳ Giáo hội Trung cổ cấm cười, sách hài hước bị khoá trái trong
phòng cấm của thư viện, tẩm thuốc độc, kẻ nào to gan dám lẻn vào đọc lén sẽ bị
đầu độc chết cứng mà Umberto Eco miêu tả trong Le nom de la rose (Tên
đoá hồng). Giáo sư Thanh Lãng đậu tiến sĩ văn chương Pháp, tất ông cũng đã đọc
qua Rabelais. Từ thế kỷ XVI, Rabelais đã đem cả mọi tầng lớp trí thức, quý tộc,
vua chúa, cha cố, ra chế giễu, đặc biệt ông coi những giáo sư đại học Sorbonne
là bọn sâu bọ rắn rết cả. Vậy giáo sư Thanh Lãng cũng cấm à?
Tôi
đã đọc Nam Phong và Phong Hóa và không thấy chỗ nào Phong Hóa đánh ngay cả
chủ trương về tư tưởng và nghệ thuật của nhóm Nam Phong bênh vực, như giáo
sư Thanh Lãng viết, bởi vì Nam Phong chẳng bênh vực một chủ trương tư tưởng
và nghệ thuật nào cả.
Còn
lãnh đạo tờ Nam Phong thì chỉ có Phạm Quỳnh, mà Phong Hóa (tức Tứ Ly và Nguyễn
Gia Trí, đàn em) có viết hay vẽ tranh chế giễu Phạm Quỳnh, cũng chỉ bông đùa,
có khi dùng Phạm Quỳnh làm ô dù che giấu những bài khác đánh thẳng vào bọn quan
lại bồi Tây thứ thiệt. Họ thừa hiểu công lao Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh đối
với nền văn chương quốc ngữ, và họ luôn luôn thầm kính trọng. Trái lại, họ hay
đùa nhả với Nguyễn Tiến Lãng, "lãnh tụ" Nam Phong sau khi Phạm Quỳnh
vào Huế, vì Nguyễn Tiến Lãng cùng tuổi với họ (sinh năm 1909) là con rể Phạm
Quỳnh, lại chuyên viết văn tiếng Tây (vì ông Lãng viết tiếng Việt rất dở), lại
thích viết truyện sầu thảm u buồn (Eurydice), được toàn quyền Robin (người đã
ra lệnh thả bom Cổ Am) cấp học bổng vào trường Albert Sarraut, rồi năm 1934 làm
bí thư cho Robin, v.v. ngần ấy thứ đủ cho họ lấy Nguyễn Tiến Lãng ra làm bung
xung, chế giễu.
Giáo
sư Thanh Lãng, là người hiếm hoi có đủ bộ Phong Hóa, từ những năm 60, nhưng
dường như ông chỉ đọc những chỗ "chửi", như ta sẽ thấy ở dưới, để
thốt ra những lời như vậy.
Điểm
ông chú ý ở đây, không phải là văn chương Tự Lực văn đoàn, không phải sự khai
sáng văn chương quốc ngữ của họ, cũng không phải sự tranh đấu chống thực dân,
đòi tự do dân chủ của họ, mà ông chỉ chú ý trích dẫn những câu họ chế giễu các
cụ, ví dụ trong báo Xuân, có những câu:
-
Mừng cụ Hoàng Tăng Bí tăng phúc, tăng lộc, tăng thọ, tăng bí.
-
Mừng cụ Nguyễn Văn Vĩnh đầu năm học xem tử vi, cuối năm xem thầy số.
-
Mừng cụ Huỳnh Thúc Kháng dùng chữ Nho nhiều bằng năm bằng mười năm ngoái.
…
Để
buộc tội họ là "công kích cá nhân" (trang 614).
Sau
khi giới thiệu Phong Hóa với những lời láng mượt: "Tuần báo Phong Hóa
là luồng gió mới, làm xáo trộn tất cả trật tư xã hội, thổi tung những lớp bụi
bặm phủ đầy trên lâu đài văn hóa cũ một lần nữa bay mù trời" (trang
611). Ông tấn công ngay: "Phong Hóa bắt đầu mở chiến dịch khiêu khích,
hạ bệ hai lãnh tụ của hai cơ quan ngôn luận lớn nhất của thế hệ trước, tức Đông
Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí" (trang 612).
Và
Thanh Lãng đã dành 14 trang sách khổ lớn (từ trang 612 đến 624) để trích dẫn và
kể tội Phong Hóa đã "phạm thượng", đã "chửi" người đi trước
như thế nào. Ông còn nhấn thêm: "Những điều mà Phong Hóa đánh đấm chẳng
phải đánh đấm vu vơ đâu. Nó nằm trong chủ trương, đường lối của cả nhóm. Một
bản tuyên ngôn của Tự Lực văn đoàn đã nói lên điều nhận định của tôi."
(trang 622), rồi ông cho in lại cả bản Tuyên ngôn và bản Tôn chỉ
của Tự Lực văn đoàn để "chứng tỏ" điều đó. Hai văn bản này (đã in
trong chương Sự thành lập Tự Lực văn đoàn, phần I), những người viết về
Tự Lực đều biết, chưa thấy ai coi đó là văn bản chủ trương việc "đánh
đấm" ai cả.
Phản
ứng của Nguyễn Văn Vĩnh
Thanh
Lãng luôn luôn dùng những chữ khuếch đại để xác định "tội trạng" của
Phong Hóa:
"Từ
bao nhiêu lâu, khắp từ Nam chí Bắc, dư luận đâu đâu cũng có Nguyễn Văn Vĩnh và
Phạm Quỳnh là hai ông tổ của văn học thế hệ 1913-1932. Vậy mà Phong Hóa số 14,
22 Sept. 1932, đã đặt vè để chế giễu hai ông chủ bút Đông Dương và Nam Phong
tạp chí". (trang 612).
"Như
vậy, đối với thế hệ cũ, chẳng riêng gì con người họ bị bêu
xấu, cơ quan ngôn luận của họ bị chế diễu mà chính cả đường lối của họ từng
được cả quốc dân ca ngợi nay cũng bị nhạo báng" (trang 619).
Thực
quả linh mục Thanh Lãng không biết cười. Ông kém xa Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi,
những người bị Phong Hóa chế giễu. Phan Khôi, trên Phong Hóa số 26 (16-12-1932)
trong bài Cái địa vị khôi hài trên văn đàn, không những bênh vực tiếng
cười mà còn nói rõ công dụng giáo hóa của tiếng cười, chúng tôi đã trích dẫn kỳ
trước. Nguyễn Văn Vĩnh cũng không giận mà còn bênh vực Phong Hóa trên Annam
nouveau như sau:
"Báo
ấy đã tả những tính cách buồn cười và nhiều khi vẽ phác ra bằng những nét bút
rất có ý nhị. Họ chỉ hơi ác thôi. Nhưng không hề gì, mà chính chúng tôi đây
cũng vui lòng để họ riễu cợt, vì khoa hài hước có quyền làm thế, nhất là ở xứ
này, ở một dân tộc thích chế nhạo như dân tộc ta". (Annam nouveau,
9-6-35)
Khi
Nguyễn Văn Vĩnh từ trần, Phong Hóa số 186 (8-5-1936) loan tin: Về dịp ông
Nguyễn Văn Vĩnh tạ thế các báo hàng ngày nghỉ một kỳ và các tuần báo ra chậm
một ngày để tỏ lòng thương tiếc. Và có bài viết sau đây:
"Ông
Nguyễn Văn Vĩnh đã tạ thế
Ông
mất ở bên Lào, trong khi đang theo đuổi trong các rừng rậm cái công việc của
một người đi tìm vàng.
Tại
sao ông lại rời bỏ Hà Nội và tờ báo "Annam mới" sang bên đó làm việc
ấy, người ta đã biết rõ rồi. Người ta còn bàn luận nhiều và than thở về sự thất
bại trong các công việc của ông nữa.
Nhưng
sự thất bại đó không làm gì. Cái mục đích của cuộc đời ông Vĩnh không phải ở sự
thành công. Nếu như một người khác, chỉ yêu cầu một điạ vị chắc chắn và an nhàn
thì ông Vĩnh đã thừa có thể. Nhưng ông Vĩnh là một người ưa hoạt động, đời ông
là một cuộc đời hoạt động cho đến cùng, nên đối với cái kết quả của các việc,
ông không quan tâm đến.
Ông
là người Annam đầu tiên hiểu rằng cuộc đời an nhàn mà các cụ ta xưa mong ước,
là một cuộc đời đáng chán, đáng buồn. Ông đầu tiên hiểu rằng chỉ có hoạt động,
thì một cuộc đời mới có ý vị và đáng sống, chỉ sự hoạt động mới làm cho con
người ta trở nên có giá trị và giúp ích cho mọi người.
Đời
ông đã sống, tuy có thất bại trong công việc làm ăn, nhưng vẫn là một cuộc đời
đầy đủ muôn phần. Ông chết đi chúng ta mất một người đáng trọng, đáng kính, mất
một cái "nghị lực hoạt động" là sự đáng quý nhất trong đời bây giờ.
Chúng
ta lại mất một nhà văn và một nhà báo nữa. Những công việc ông đã làm trong văn
chương và báo giới, chúng tôi không cần nhắc lại. Chúng tôi chỉ nói rằng ông là
người An-nam đầu tiên đã đoán biết cái sức mạnh vô cùng của báo chí, cái sức
mạnh vô cùng của chữ quốc ngữ – đã dùng hai cái lợi khí đó để truyền bá tư
tưởng mới cho đồng bào.
Chúng
ta lại nên biết nữa rằng, tuy có nhiều sự cám dỗ mãnh liệt, mà ông vẫn trung
thành với nghề nghiệp cho đến tận bây giờ.
Một
sự như thế cũng đáng để cho ta phải nên phục ông rồi.
Huống
chi thất bại mà không ngã lòng, có tuổi mà không chán nản, ông thực đáng làm
gương cho bọn thiếu niên ta nữa.
Ông
mất đi đó là một tin buồn chung cho mọi người biết nghĩ.
Chúng
tôi ngậm ngùi thương tiếc kính viếng ông, và xin có lời trân trọng chia buồn
cùng tang quyến.
Tự
Lực văn đoàn
Bài
này chắc Tứ Ly viết, vì Tứ Ly là người chế giễu ông Vĩnh nhiều nhất, nhưng cũng
hiểu ông Vĩnh sâu xa nhất, Tứ Ly đã nhận diện được những nét chính trong tư
tưởng và hành động của Nguyễn Văn Vĩnh:
-
Thành công không phải là mục đích cuộc đời của Nguyễn Văn Vĩnh.
-
Đời
ông là hoạt động cho đến cùng, còn kết quả không quan trọng.
-
Ông là người Việt đầu tiên hiểu rằng cuộc đời an nhàn của các cụ, là đáng chán,
đáng buồn.
-
Ông là người Việt đầu tiên hiểu rằng chỉ có hoạt động, mới làm cho con người có
giá trị.
-
Ông là người Việt đầu tiên đã nhìn thấy sức mạnh vô cùng của báo chí, của
chữ quốc ngữ. và đã dùng hai lợi khí đó để truyền bá tư tưởng mới cho đồng
bào.
-
Thất
bại mà không ngã lòng, có tuổi mà không chán nản, ông thực đáng làm gương cho
bọn thiếu niên.
Ngoài
Tứ Ly, mấy ai thấy rõ Nguyễn Văn Vĩnh như thế? Những nhận định này đã có và sẽ
có trong những bài viết của Tứ Ly, như một thứ chân lý sống và tranh đấu cho
tuổi trẻ. Tứ Ly hiểu Nguyễn Văn Vĩnh một cách sâu sắc hơn Thanh Lãng rất nhiều,
bởi Thanh Lãng chỉ đưa ra được những lời tôn vinh huê dạng và rỗng nghiã.
Về
việc chế giễu Tản Đà, Thanh Lãng cũng viết những câu thái quá:
"Nhưng
chẳng hiểu tại sao Phong Hóa lại như có thù riêng gì với thi sĩ Tản Đà! Trong suốt
mấy tháng cuối năm 32 đầu năm 33, chẳng mấy số báo mà Phong Hóa buông tha nhà
thơ sông Đà núi Tản" (trang 616). "Họ chửi ông đủ
điều, họ làm thơ họa vận để rêu ruốc ông" (trang 617), rồi Thanh Lãng
chép lại bài thơ Tứ Ly họa thơ Tản Đà để "rêu ruốc". Sự thật thì Tản
Đà làm thơ mắng mỏ Phong Hóa trước, rồi Tứ Ly mới họa lại! (Phong Hóa số 29).
Khi
bàn về thơ mới cũng lại moi tội Phong Hóa:
"Phong
Hóa đánh thơ cũ bằng cách đánh thẳng vào Tản Đà được coi là linh hồn, là hiện
thân của thơ cũ. Hầu như chẳng có mấy số mà Phong Hóa không có bài chế diễu nhà
thơ sông Đà núi Tản, mà chế diễu một cách tàn nhẫn". (trang 670).
Việc
Tản Đà tôi đã nói trong bài trước rồi, chỉ xin nhắc lại: Tản Đà không giận mà
còn có vẻ khuyến khích việc chế giễu này, đôi khi thấy lâu lâu "nó"
không trêu mình cũng buồn, nên thi sĩ làm thơ khiêu khích "nó" trước,
để "nó" trả lời cho vui.
Lối
viết của Thanh Lãng rất một chiều: thấy Nhất Linh bị buộc tội "bốc"
người nhà, bị đánh hội đồng vì đã viết bài giới thiệu thơ Thế Lữ, Thanh Lãng cũng
nện thêm. Hoặc ông không nhắc gì đến vụ Thạch Lam bị Phan Trần Chúc đăng tin úp
mở đổ tội "ăn cắp cravate bị cảnh sát bắt", vụ này ầm ĩ lên, khiến
Hội Nhà báo phải họp "đại hội đồng" để hòa giải cuộc bút chiến giữa
Tân Việt Nam (Phan Trần Chúc) và Ngày Nay (Thạch Lam và Thế Lữ); hội đồng tuyên
bố Phan Trần Chúc có lỗi, có cả biên bản của Trần Huy Liệu và Nguyễn Trọng Trạc
(Ngày Nay số 83, 31-10-37).
Vậy
việc bút chiến là đặc tính chung của báo chí thời đó, có lẽ cũng để bán báo
nữa. Khi họ cãi nhau thì bên tám lạng bên nửa cân, chẳng ai chịu thua ai cả.
Nhưng Thanh Lãng chỉ chăm chú bới lông tìm lỗi của Phong Hóa.
Không
phân biệt thể loại văn chương
Thanh
Lãng viết một câu rất đáng chú ý:
"Nhưng
điều đáng chú ý là sự ra đời của mấy truyện như Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng,
Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan, Tôi kéo xe của Tam Lang. Từ cách xây dựng
truyện đến cách đặt vấn đề, cách mô tả tâm lý các truyện mà nhất là lời văn dễ
dãi, linh động; ba tác phẩm này như vạch ra một vạch lớn phân đôi hai thế hệ
trước (13-32) và thế hệ sau (32-45)" (trang 625)
Như
vậy, Thanh Lãng coi ba tác phẩm Hồn bướm mơ tiên, tiểu thuyết (1932), Kép
Tư Bền, truyện ngắn (1935) và Tôi kéo xe, phóng sự (1932, in 1935)
đều là truyện cả, bởi vì ông không phân biệt được các thể loại khác nhau
và các nhà văn khác nhau.
Tam
Lang viết phóng sự, phóng sự thuộc loại tài liệu sống của nhà báo. Còn truyện
ngắn và tiểu thuyết là sản phẩm của nhà văn. Vậy không thể coi cả ba
thể văn này đều là truyện được.
Phóng
sự có thể sống động rất hay, nhưng chưa phải là cái hay của một tiểu thuyết,
bởi vì nhà phóng sự chưa quán xuyến được mặt hậu của chữ nghiã, tức là chưa
liên lạc được chữ nghiã với tư tưởng nằm sau chữ nghiã, nói rõ hơn: nhà phóng
sự chỉ mô tả những gì xảy ra, nhà văn qua những sự việc mô tả, nói lên những bộ
mặt khác của xã hội và con người. Thạch Lam cũng bắt đầu bằng viết phóng sự.
Trường hợp điển hình là Vũ Trọng Phụng, ông bắt đầu bằng phóng sự, nhưng chỉ từ
khi ông viết Giông tố và nhất là kiệt tác Số đỏ, ông mới trở
thành nhà văn đích thực, nhà văn lớn. Bởi vì qua Xuân tóc đỏ và những
nhân vật khác trong truyện, ông đã vẽ nên toàn diện xã hội Việt Nam lai căng,
đạo đức giả, đồi trụy dưới thời Pháp thuộc. Tiếc rằng Thanh Lãng cũng như Phạm
Thế Ngũ, khi viết về Vũ Trọng Phụng đều không kể đến Số đỏ. Những nhà
viết phóng sự hay như Tam Lang, Trọng Lang không bao giờ vượt qua được ngưỡng
cửa nhà báo để trở thành nhà văn.
Về
nhà văn, cũng không thể so sánh Nguyễn Công Hoan với Khái Hưng, vì Nguyễn Công
Hoan là nhà văn viết truyện hiện thực đường thẳng (réalisme linéaire), nghiã là
tác phẩm không có nghiã kép, đọc đâu hiểu đấy, còn Khái Hưng là nhà văn có
nhiều tầng tư tưởng, những tác phẩm hay của ông thường ẩn ý nghiã triết học, có
thể đọc nhiều cách, mỗi cách đọc đưa đến một cách hiểu khác. Hồn bướm mơ
tiên là một kiệt tác và là tác phẩm tiểu thuyết quốc ngữ đa diện đầu tiên
của nước ta.
Khi
Thanh Lãng lấy Hồn bướm mơ tiên, Kép Tư Bền và Tôi kéo xe,
ba tác phẩm thể loại khác nhau, có giá trị nghệ thuật và tư tưởng khác nhau, để
làm mốc vạch phân đôi hai thế hệ (1912-32) và (1932-45) vì ông cho đó là
ba cuốn truyện giống nhau từ cách xây dựng truyện đến cách đặt vấn đề,
là ông chưa thấu rõ bản chất văn chương. Trong chương viết về tiểu thuyết sau
đó, ông cũng đưa tất cả những cuốn phóng sự vào mục tiểu thuyết, thậm chí với
Vũ Trọng Phụng, ông đưa hết phóng sự mà không đưa Số đỏ vào.
Vì
không phân biệt được thể loại, cho nên Thanh Lãng đã coi những mục tản mạn, tin
vặt, hài hước, cãi cọ, trên Phong Hóa là những bài phê bình, như ta sẽ thấy
dưới đây.
Không
hiểu thế nào là phê bình
Trong
chương II tựa đề Lịch sử phê bình thế hệ 1932, Thanh Lãng chia văn học
ra làm bốn khối, A, B, C, D, và ông xếp: Khối A là khối bị cho là cựu học, khối
B là Tự Lực văn đoàn, Khối C là khối đối lập, phản công Phong Hóa, và Khối D là
khối duy vật.
Theo
ông: "Văn phê bình từ 1932 đến cuối năm 1934 là văn phê bình của hai
khối A và khối B, tức phê bình của tất cả các nhà văn không thuộc nhóm Phong
Hóa với các nhà văn của khối Phong Hóa tức Tự Lực văn đoàn" (trang
645).
Vẫn
lối ngoa ngữ, ông viết: "Hầu hết các nhà văn tên tuổi của thế hệ trước
đều bị khối Phong Hóa chế diễu, toàn bộ các báo, ngoại trừ báo Phong Hóa, đều
bị khối Phong Hóa bêu xấu" (trang 645).
Vì
ông không phân biệt được các thể loại khác nhau cho nên ông đã đưa Tự Lực
văn đoàn vào khối phê bình B, và vào phần Lịch sử phê bình.
Nhưng
Tự Lực văn đoàn làm gì có phê bình? Thỉnh thoảng Khái Hưng, Nhất Linh viết bài
tựa sách, đâu có thể gọi là phê bình? Ông khen "Thế Lữ viết truyện hay,
soạn kịch cũng khéo, phê bình có tài" (trang 645). Nhưng Thế Lữ chỉ
làm đạo diễn và diễn viên chứ có viết kịch bao giờ đâu? Thế Lữ giữ mục điểm
sách, điểm báo chung với Thạch Lam trên Phong Hóa, hai người này thân nhau,
Thạch Lam cũng hay viết tào lao, còn Thế Lữ vì xấu tính, hay moi những nhà thơ
cùng trang lứa với ông như Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông, Nguyễn Vỹ… ra chỉ
trích và thường tìm sách dở để chê bai, thì đâu có thể gọi là phê bình?
Nhưng
đáng ngại hơn là luận điệu xuyên tạc của Thanh Lãng:
"Lập
trường [của Tự Lực] không phải là cái thứ lập trường hòa hoãn, nước đôi.
Họ muốn tiến tới bất cứ giá nào, dầu phải tàn nhẫn, phải đập phá, phải chém
giết. Mà thực họ đã tàn nhẫn với tất cả cái gì mà họ coi là cũ, họ đập phá hết
tất cả cái gì mà họ cho là ngáng trở bước đi tới của họ, và lắm khi họ chẳng
ngại đổ máu để giật phần thắng lợi." (trang 648).
Thật
lạ lùng cái giọng "máu me" của vị linh mục khi viết về một văn đoàn!
Với một tiền đề như vậy, tất nhiên ta đã thấy rõ quan niệm của Thanh Lãng về Tự
Lực.
Ông
muốn kể tội họ "gây gổ và tuyên chiến với các nhà văn lão thành",
nhưng vì vẫn không phân biệt được thể loại và giá trị các tác phẩm, nên ông
viết:
"Trong
những mục hoặc như mục Mực Tầu Giấy Bản hoặc như Từ Nhỏ đến Nhớn, hoặc như Bàn
Ngang, hoặc như Từ Cao đến Thấp hoặc như Giòng nước ngược, hoặc như Cuộc Điểm
Báo, thật là nơi dụng võ thường xuyên của các cây bút như Tứ Ly, như Nhị Linh,
Tam Linh, Tứ Linh tức Nhất Linh, như Tú Mỡ, như Thạch Lam, như Lê Ta tức Thế
Lữ.
Chẳng
có một số Phong Hóa nào mà chẳng có một vài nhà văn, nhất là các nhà văn thuộc
thế hệ trước, chẳng bị đem ra chế diễu. Lối phê bình của Phong Hóa qua các mục
nói trên, về các nhà văn đàn anh, thường là lối phê bình châm chọc, chế diễu,
thường thuộc đời tư hơn là lập trường văn nghệ."
(trang 648-649)
Ông
lầm, không ai coi các mục ông kê khai trên đây là phê bình cả, đó chỉ là
những mục thường thức, mục đích chính là tóm tắt những thông tin trong tuần,
nói phiếm, bàn ngang, có khi kể chuyện ngồi lê đôi mách, thường thấy trên các
báo, thỉnh thoảng cãi cọ, bút chiến, cốt lấp đầy chỗ trống, để giải trí và câu
độc giả, cả thơ trào phúng của Tú Mỡ cũng vậy.
Còn
Mực tầu giấy bản là tập hồi ký Khái Hưng viết về những năm học chữ Nho
của mình, ký tên Nhị Linh, không ăn nhằm gì đến chuyện phê bình.
Về
phê bình, Khái Hưng viết rất rõ trong bài Cùng ông Nguyễn Công Hoan:
"Tôi
thưa ngay cùng ông rằng tôi không phải là một nhà phê bình. Về tiểu thuyết thì
đừng nói phê bình nữa, đến ngồi bàn tán xuông với anh em bạn thân, tôi cũng
không từng dám khen tác phẩm này, chê tác phẩm kia. Là vì tôi cũng viết tiểu
thuyết, viết tiểu thuyết như ông, như Nhất Linh, như Lan Khai, như cô Đoàn Tâm
Đan, như ông Hồ Biểu Chánh. Tội lắm kia, mình khen thì anh em cho là khen mát,
mà mình chê thì họ lại cho là ghen tỵ, nhất đối với một tác phẩm đã may mắn
được công chúng hoan nghênh" (Phong Hóa số 177, 6-3-1936).
Võ
Phiến không được sáng suốt như thế, ông đã viết bộ Văn Học miền Nam, nói
xấu nhiều người nên bị Nguyễn Văn Trung, trên báo Khởi Hành "bắt" rút
bộ Văn Học miền Nam về!
Rồi
Thanh Lãng lại nhầm tuồng cổ với phê bình khi ông chứng minh Tự
Lực đã "đánh đấm" các vị tiền bối như thế nào, ông đánh vào vở Tuồng
cổ tân thời của Tứ Ly với những lời lẽ hết sức nặng nề: "Nhưng
không ở đâu Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Khắc Hiếu được mô tả một cách tồi tàn, gàn
dở, quê kệch, nhất là đê hèn như trong vở tuồng "Tuồng cổ tân thời"
(Phong Hóa số 38, 39, 40, 41, 42)." Không thích cười là quyền của ông
nhưng gán những chữ tồi tàn, gàn dở, quê kệch, đê hèn để bảo Tuồng cổ
tân thời mô tả Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Khắc Hiếu là quá tệ, bởi vì
một giáo sư văn chương đánh giá sai một tác phẩm đã là kém rồi, bằng những chữ
quá trớn như vậy là rất đáng ngại.
Sau
khi "tiêu diệt" vở kịch Tuồng cổ tân thời của Tứ Ly, ông kê
khai một danh sách dài các bài "chửi" trên Phong Hóa, với lời giới
thiệu:
"Để
thêm tài liệu ta có thể tìm đọc những bài chửi Dương Bá Trạc (Phong Hóa số
120), chửi Nguyễn Tiến Lãng (Phong Hóa số 105, 137) chửi ông Lê Diễm ở báo Tân
Thiều niên (Phong Hóa số 112, chửi Thái Phỉ ở Ngọ Báo (Phong Hóa, số 110), chửi
Nguyễn Khắc Hiếu, v.v." (trang 653). Cái
danh sách này kéo dài từ trang 653 đến trang 655. Chúng ta vẫn đang ở trong
phần Lịch sử phê bình thế hệ 1932.
Trong
phần thứ ba ông dành cho khối C, tức là khối phản công Phong Hóa, lần này
"đầy đủ" hơn, tức là ông dành toàn diện 8 trang sách khổ lớn từ 655
đến trang 663; vừa ghi danh sách vừa trích dẫn cẩn thận những đoạn các báo này
"chửi" Phong Hóa, mà ông cho là đích đáng lắm. Chúng ta vẫn đang ở
trong phần Lịch sử phê bình thế hệ 1932.
Không
hiểu tại sao giáo sư Thanh Lãng lại mất thì giờ làm công việc này, thay vì tìm
ghi danh sách những số báo có truyện ngắn, truyện dài, kịch, thơ, xã luận… có
giá trị trên Phong Hóa, để độc giả dễ dàng tìm biết mà đọc, thì ông lại chỉ ghi
danh sách những bài "chửi", chỉ cho học trò đọc những chỗ chửi.
Hàng
trăm truyện ngắn của Khái Hưng chưa ai ghi lại đầy đủ, sao ông không làm việc
ấy?
Thực
chưa từng thấy ai coi phê bình văn học là những lời "chửi" như
vậy, và lại có thể có một lối viết văn học sử nào kỳ quặc như thế cả.
Nhưng
tệ hại nhất là ông cho rằng Phong Hóa bị đóng cửa vì có nhiều tờ báo mới ra
đời, họ "liên hiệp lại để phản công Phong Hóa. Phải chăng vì vậy mà
Phong Hóa phải chết để đầu thai dưới một tên khác "Ngày Nay"?"
(trang 656). Lời độc này là giọt nước tràn ly, chứng tỏ khi thực dân bắt Phong
Hóa phải đóng cửa, ông sửa lại là Phong Hóa bị báo chí phản công đánh
chết. Vô tình hay hữu ý, ông đã nhắm mắt vỗ tay hành động của thực dân, vì ông
căm thù văn chương trào phúng như các giáo sĩ thời trung cổ?
Tú
Mỡ và sự vu khống Nguyễn Tường Tam
Tự
Lực văn đoàn không những chỉ bị bôi nhọ trong sách giáo khoa đại học của Thanh
Lãng ở miền Nam, mà sự vu khống Nhất Linh còn được xuất cảng ra ngoài.
Có
người cho rằng Nhất Linh hâm mộ Hitler. Một trong những người tung tin đó là Tú
Mỡ.
Việc
này khá trầm trọng, không thể bỏ qua.
Trước
hết, chúng tôi xin lưu ý độc giả đến cái dấu ấn của Tự Lực văn đoàn.
Tự
Lực văn đoàn in dấu ấn này lần đầu tiên trên Phong Hóa số 56 (21-7-1933),
nhưng không giải thích gì cả, từ Phong Hóa số 89 (16-3-34) trở đi, dấu ấn được
in trên tựa báo Phong Hóa.
Đến
Phong Hóa số 87 (2-3-34), trong mục Cuộc điểm báo và điểm sách mùa xuân
của Nhất-Nhị-Linh (Nhất Linh và Khái Hưng), hai ông phản đối bìa cuốn sách Tuổi
xuân với ngày xuân "dám" ghi bốn chữ: "Tiên phong văn
đoàn", tức là "dám" bắt chước Tự Lực văn đoàn, nhân thể kể
luôn "tội" cuốn Tân quốc dân:
"Nói
đến Tiên phong văn đoàn lại nhớ đến cuốn Tân quốc dân. Ngoài bìa có đặt một cái
dấu ấn na ná như cái dấu của Tự Lực văn đoàn: cũng chỉ có con chim và mấy ngấn
nước. Chỉ khác có một tý là con chim ở cuốn Tân quốc dân, có lòi thêm
cái đuôi. Chẳng trách thiên hạ vẫn thường nói, bắt chước lòi đuôi"[8].
Nhờ
câu này, ta mới biết: dấu ấn Tự Lực văn đoàn vẽ con chim và mấy ngấn nước.
Có
người "nhìn ra" là chim ó (diều hâu) tuy hình này không xác định chim
gì cả.
Có
kẻ tưởng đó là dấu chữ thập có móc (croix gammée) hay chữ vạn của đảng Hiller,
trong số đó có Phòng nhì Pháp, ý này giúp họ có thêm lý do hạ thấp giá trị Việt
Nam Quốc Dân Đảng.
Nhưng tệ nhất là mấy lời Tú Mỡ viết về Nhất Linh trong bài Trong bếp núc của Tự Lực văn đoàn. Bài hồi ký này được rất nhiều sách in lại, hoặc trích dịch, vì hai lý do:
-
Tú Mỡ là một trong những thành viên Tự Lực văn đoàn từ đầu.
-
Tú Mỡ đã từng nhận là rất thân với "anh Tam", nên những điều Tú Mỡ
"nhận định" về "anh Tam" sau đây, hoàn toàn tin được, ông
viết:
"Bị
lôi cuốn vào guồng Việt Nam Quốc Dân Đảng, anh Tam muốn đóng vai lãnh tụ. Tôi
thấy trước đây anh có đọc "Mein Kamf" của Hít-le và giờ đây anh muốn
bắt chước Hít-le từ y phục, cử chỉ đến đầu óc quốc xã."[9]
Ảnh
hưởng tai hại của câu này rất rộng lớn, đặc biệt trong cuốn Đại Việt,
indépendance et révolution au Việt Nam, L’échec de la troisième voie
(1938-1955) – Đại Việt, cách mạng và độc lập ở Việt Nam, Sự thất bại của
con đường thứ ba (1938-1955) của François Guillemot[10]
trong đó, tác giả đã dùng "thông tin" của Phòng nhì Pháp, phối hợp
với lời viết trên đây của Tú Mỡ, để "xác định" ba lần: Nguyễn Tường
Tam là "người sùng bái chủ nghĩa Đức quốc xã" (fervent
admirateur du nazisme)! (ở các trang 68, 78 và 90) trong quyển sử của ông.
Về
thông tin của Phòng nhì Pháp, François Guillemot dựa vào bản báo cáo của Phòng
nhì đề ngày 29-1-1949[11].
Bản báo cáo này có câu:
"Đảng
Đại Việt gồm những phần tử thân VNQDĐ ngày trước và những thành viên hoạt động
nhất là các Ô. Nguyễn Tường Tam, thời đó sùng bái chủ nghiã Đức quốc xã, hiện
lãnh đạo Việt Nam QDĐ hải ngoại ở Quảng Đông, Nguyễn Tường Long, người em vừa
mới mất ở Quảng Đông, Nguyễn Gia Trí, họa sĩ…"[12]
Những
"thông tin" này của Công an Pháp viết tháng giêng 1949, không có gì
mới cả, trừ sự sai lầm: Nguyễn Tường Tam thời đó sùng bái chủ nghiã Đức
Quốc xã, thời đó là thời nào?
Tuy
nhiên, François Guillemot đã dựa vào những "thông tin" này để đưa ra
nhận định sau đây về Nguyễn Tường Tam:
"Là
nhà văn nổi tiếng và nhà bỉnh bút có tài, tuy nhiên nhân vật phức tạp này là
người thất bại trong chính trị. Việc Công an truy lùng và trình bày ông, thời
đó, như một người "sùng bài chủ nghiã Đức quốc xã", có thể cho chúng
ta chìa khoá để hiểu sự thất bại của nhà văn về mặt ý thức hệ. Dường như, đối
với chúng ta, khúc ngoặt theo chủ nghiã quốc gia xã hội năm 1940 của ông, sẽ
như một vết sẹo trên hành trình chính trị của ông. Sự tham gia này lần theo
thời gian trở thành cơn ác mộng khó xoá. Cái "lỗi lầm tuổi trẻ" này
phát xuất, từ một trí thức không những sành sỏi mà còn thơ mộng và lý tưởng, sẽ
là một gánh nặng"[13]
Và
trong chú thích số 40, Guillemot đặt thêm câu hỏi: "Sự hòa nhập Đại
Việt Dân Chính năm 1945 trong lòng Việt Nam Quốc Dân Đảng phải chăng có mục
đích bí mật để sửa sai những bước đầu tai hại trong chính trị?"[14]
Như
vậy, theo lập luận của François Guillemot, việc Nguyễn Tường Tam "sùng bái
chủ nghiã Đức quốc xã" đã dẫn đến sự thất bại chính trị của đảng ông. Việc
"sùng bái" này, có lúc được xác định vào năm 1940, có lúc được coi là
"lỗi lầm tuổi trẻ".
Chữ
hay được người ta dùng nhất là "thời ấy" (à l’époque, cette
époque). Vậy cái thời ấy là thời nào, ta cần phải xét lại cho rõ.
Việc
mật thám Pháp không đọc Phong Hóa và Ngày Nay, còn hiểu được, nhưng tại sao sử
gia François Guillemot không kiểm chứng lại? Ông đã viết một cuốn sách lịch sử
công phu, rất có giá trị về Đại Việt-Quốc Dân Đảng, mà lại cho rằng một trong
những lãnh tụ của đảng này sùng bái chủ nghĩa Đức quốc xã, dẫn đến sự
thất bại của đảng này, chỉ qua "thông tin" lười biếng của Phòng nhì
Pháp và lời viết vu vơ của Tú Mỡ, mà không đọc trực tiếp Phong Hóa và Ngày Nay
để kiểm chứng thực hư thế nào.
Bởi
vì, dù chỉ đọc lướt qua, ta cũng có thể thấy những tranh hài hước hay những bài
viết chống Hitler, có tựa đập vào mắt. Và "cái thời đó", thời
mà phòng nhì Pháp cho rằng Nguyễn Tường Tam sùng bái Chủ nghiã Đức quốc xã, là những
thời sau đây:
1-
Năm 1934, Phong Hóa số 104 (29-6-34), trang 4, đăng bài: Hit-Le tướng công
Y-Ta-li phó hội, của Lê Ta (Thế Lữ) chế giễu Hitler đi phó hội sang Ý gặp
Mussolini, bài văn hài hước viết theo lối Đông chu liệt quốc và Tam quốc chí.
2-
Ngày Nay số 11 (7-5-35) trang 3, đăng bức ảnh Trên sân khấu Âu Châu,
giễu Tướng Hitler đóng tuồng, dưới đề: Ảnh chụp khí Hitler đang khoa đao và
hò hét như một ông tướng Tầu.
3-
Ngày Nay số 32 (1-11-36) có dịch một đoạn bài viết của Drieu de la
Rochelle trong báo Marianne, giới thiệu một thứ trường dạy cầm đầu (Une école
de chefs) trong "nước Đức mới": Kể rằng "nước Đức mới" lập
ra không biết bao nhiêu cơ quan huấn luyện thanh niên như: Thanh niên đoàn
Hitler (Jeunesse de Hitler), Tự ý lao động (Volontaires du travail), Trại tập
làm việc… để luyện cho thanh niên có thân thể cường tráng và có tinh thần kỷ
luật.
Đó
là bài duy nhất, không công kích Hitler, Ngày Nay in với dụng ý cổ động thanh
niên nên rèn luyện thân thể theo đúng cẩm nang "10 điều tâm niệm"
của Hoàng Đạo đã bắt đầu đăng trên Ngày Nay hai tháng trước, từ số 25
(3-9-1936).
4-
Ngày Nay số 53 (4-4-37) có tranh bìa ký Ritg TRAN AG (Nguyễn Gia Trí) chế giễu
Hitler và thực dân: vẽ Hitler đem hoa đến cầu hôn cô Mỵ Nương Đông Dương của
thực dân Pháp.
5-
Ngày Nay số 108 (1-5-38), trong mục Chính trị và đảng phái, Hoàng Đạo
viết bài Chủ nghĩa Phát xít, phân tích cặn kẽ đường lối chính trị
độc tài của Mussolini.
6-
Ngày Nay số 109 (8-5-38) vẫn trong mục Chính trị và đảng phái, Hoàng Đạo
viết bài Chủ nghiã quốc gia xã hội, phân tích và kết án không
nhân nhượng chủ nghiã Hitler và chính sách xâm lược của Đức quốc xã.
Hai
bài chính luận này Hoàng Đạo, lý thuyết gia Tự Lực văn đoàn, viết tháng 5-1938,
trong thời kỳ Nguyễn Tường Tam thành lập đảng Hưng Việt; sau đổi thành Đại Việt
Dân Chính.
Chủ
trương của đảng này là tiếp tục tư tưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái
Học, theo chủ nghiã duy dân của Tôn Dật Tiên, không dính dáng đến chủ nghiã
Quốc gia xã hội của Hitler. Những điều này sau sẽ đăng công khai trên các báo: Ngày
Nay kỷ nguyên mới, Việt Nam và Chính Nghiã.
7-
Ngày Nay số 154 (25-3-39), trang nhất có tranh hài hước: Cuộc bảo hộ nước
Tiệp Khắc trong trí tưởng tượng của người Annam, không ký tên, chế giễu
Hitler xâm nhập Tiệp Khắc.
8-
Ngày Nay số 167 (24-6-39), trang 12, in bài Ông Hitler đã làm những người
Anh thân Đức tỉnh ngộ, lược dịch một bài báo trên Paris Match, nói về tình
trạng một số tờ báo Anh như tờ Times trước thân Đức, bây giờ đã đổi giọng chống
Đức và một số chính khách Anh, như ông Montaga Norman, Giám đốc Quốc gia Ngân
hàng hay Hầu tước Lothian, Đại sứ Anh ở Washington, cùng một số người tai mắt
và quý tộc Anh, trước theo Đức, nay đã "tỉnh ngộ", có người đã phải
xin lỗi.
9-
Ngày Nay số 201 (2-3-40) có bài thơ trào phúng Diêm vương kén tướng của
Tú Mỡ, ví Hitler như Diêm vương, sai hung thần, ác tướng đem quân lên chinh
phục cõi trần:
"Đem
võ lực ra oai tác ác,
Cử
binh đi cướp nước tranh quyền.
Hoàn
cầu đang hưởng bình yên.
Bỗng
đâu binh lửa dấy lên đùng đùng".
Tú
Mỡ cộng tác liên tục với Phong Hóa và Ngày Nay từ những ngày đầu. Nhưng dường
như ông không đọc các bài viết và tranh chống Hitler trên hai tờ báo này. Ngày
12 tháng 8 năm 1968 ông "nhớ" và viết rằng Nguyễn Tường Tam sùng bái
Hiler![15]
Có
lẽ vì quá ngây thơ, thấy Nhất Linh đọc Mein Kamf, nên Tú Mỡ – khi phải
tìm tội Nhất Linh – đã vội gán cho bạn nhãn hiệu Hitler. Bởi Tú
Mỡ đã từng nói: "Anh Tam là người đã tạo ra Tú Mỡ vậy."[16],
nên bài hồi ký Trong bếp núc của Tự Lực văn đoàn, dù có những giai
thoại sai lầm, vẫn được người ta tin và trích dẫn, trong đó có sử gia François
Guillemot, đã đưa việc này vào cuốn sử có giá trị mà ông đã bỏ nhiều năm nghiên
cứu về Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Sự
vu khống Nhất Linh Nguyễn Tường Tam sùng bái chủ nghĩa Đức quốc xã là
một vết nhơ, không những cho Nhất Linh và Tự Lực văn đoàn mà còn cho cả các
phong trào cách mạng dân tộc nữa.
(Còn
tiếp)
Thụy
Khuê
thuykhue.free.fr
[1]
Theo chú thích của Nxb Thăng Long, khi tái bản bộ Nhà văn hiện đại ở Sài
Gòn năm 1960, trang 904.
[2]
Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập ba, Anh Phương ấn quán, Sài
Gòn, 1965, Đại Nam chụp in lại, trang 430.
[3]
Vu Gia, Nhất Linh đời văn đời người (trích), in lại trong Nhất Linh
cây bút cột trụ của Tự Lực văn đoàn, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2000,
trang 74-75.
[4]
Trương Bảo Sơn Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (in
trong cuốn Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, Thế Kỷ, Cali, 2004,
t. 69).
[5]
Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ, Ba
thế hệ của nền văn học mới (1862-1945), Nxb Trình Bày, Sài Gòn,
1967, phần Văn Học thế hệ 1932 (1932-1945), Chương I: Đặc tính chung
của thế hệ 1932 trang 589.
[6]
Thụy Khuê, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp, Nxb Văn Nghệ,
Cali, 2002, trang 128.
[7]
Thụy Khuê, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp, Nxb Văn Nghệ,
Cali, 2002, trang 160.
[8]
Cuộc điểm báo và điểm sách mùa xuân, của Nhất-Nhị-Linh (Phong Hóa số 87,
2-3-1934).
[9]
Tú Mỡ, Trong bếp núc của Tự Lực văn đoàn, Hồi ký của Tú Mỡ, Tạp chí Văn
Học, Hà Nội, số 5-6 năm 1988 và số 1 năm 1989.
[10]
Nhà xuất bản Les Indes savantes, Paris, 2012.
[11]
Bản báo cáo này lưu trữ trong hồ sơ CAOM, GGI 65492 của Haut Commissaire de
France en Indochine, Direction de la Police et de la Sureté fédérales, Secret,
Les partis nationalistes vietnamiens (Cao Uỷ Pháp ở Đông Dương, Nha Giám đốc
Cảnh sát Công an trung ương, Mật, hồ sơ Những đảng phái quốc gia Việt Nam.
[12]
"Le Đại Việt était composé d’anciens sympathisants VNQDĐ et ses membres
les plus agissants furent MM. Nguyễn Tường Tam, à l’époque fervent admirateur
du nazisme et actuellement chef du VNQDĐ d’outre-mer à Canton, Nguyễn Tường
Long, frère du précédent et récemment décédé à Canton, Nguyễn Gia Trí, artiste
peintre… " (sđd trang 68).
[13]
"Ce personnage complexe, écrivain renommé et chroniqueur de talent, a
cependant un raté dans sa vie politique. La Sureté qui le présentait à cette
époque comme "un fervent admirateur du nazisme", nous donne peut être
la clé de l’échec de l’écrivain sur le plan idéologique. Il nous semble que le
virage national-socialiste qu’il prit en 1940 resta comme une cicatrice sur son
parcours politique. Cette engagement était devenu au fil du temps comme un
mauvais rêve difficile à effacer. Cette "erreur de jeunesse" émanant
pourtant d’un intellectuel averti, mais aussi romantique et idéaliste, pesa
sans doute d’un lourd fardeau" (sđd, trang 90).
[14]
"La dissolution du ĐVDC en 1945, au sein du QDĐ a-t-elle pour objet
secret, la correction d’un début en politique plutôt compromettant?" (sđd,
trang 90).
[15]
Trong tập hồi ký Trong bếp núc của Tự Lực văn đoàn, in lại trên Tạp chí
Văn Học, Hà Nội, số 5-6 năm 1988 và số 1 năm 1989.
[16]
Cuộc Phỏng vấn các nhà văn, của Lê Thanh, Nxb Đổi Mới, Hà Nội, 1943,
trang 134-144.
Nguồn: Văn Việt