5-
Nhất Linh và Phong Hóa
Phong
Hóa số 14, ra ngày 22-9-1932, được coi là tờ báo đầu tiên của Tự Lực văn đoàn.
Tuy nhiên sự thay đổi, như ta đã thấy trong chương Khái Hưng và Phong Hóa,
bắt đầu từ trước.
Ngay
từ số 11 (25-8- 32), Phong Hóa đã đổi dạng từ tạp chí sang nhật trình, theo
kiểu Phong Hóa số 14 (22-9-32): Bỏ tranh bià, in 4 trang lớn, giá 8 xu. Trang
nhất đăng bài quảng cáo sau đây:
"Một
sự cải cách lớn của báo Phong Hóa
Phong
Hóa tuần báo tạm ra 4 trang giá bán 0p.03 [3 xu][1]
để đủ thời giờ dự định một cuộc hoán cải rất lớn lao.
Vài
tuần nữa tờ báo Phong Hóa sẽ được vừa lòng độc giả về hết các phương diện văn
chương, mỹ thuật, tư tưởng.
Xin
độc giả vững tâm chờ đợi. Phong Hóa tuần báo sẽ không phụ tấm lòng yêu mến của
độc giả."
Tiếp
tục quảng cáo như thế trên số 12 (1-9-1932). Số 13 (8-9-1932), in thêm khẩu
hiệu: Một cuộc hoán cải lớn lao trong báo Phong Hóa! Một sự lạ trong làng
báo! Một cái mới!
Và
có lời Kính cáo độc giả: Báo Phong Hóa tạm nghỉ một kỳ (15-9) để có
đủ thời giờ sửa soạn số ngày 22 Septembre.
Ngày
22-9-1932, Phong Hóa số 14 ra đời.
Chấm
dứt thời kỳ độc diễn của Khái Hưng. Nhất Linh xuất hiện với nhiều ngòi bút mới.
Ê-kíp làm việc trong một tháng để hoàn thành số ra mắt.
Những
thành viên của Tự Lực văn đoàn đều có mặt trên số 14 này: Nhất Linh, Khái Hưng,
Nguyễn Gia Trí, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Tú Mỡ, trừ Thế Lữ, đến sau.
Từ
số 14 (22-9-1932) đến số 20 (4-11-1932), trong hai tháng, qua 8 số báo hàng
tuần, Phong Hóa đã, từng bước, từng bước, dấn thân vào việc cải tiến xã hội,
chối bỏ cái cũ, cái hủ lậu để bước vào thời đại mới, xây dựng nền văn chương
quốc ngữ, hiện đại hóa tiểu thuyết ở miền Bắc, mà Hồn bướm mơ tiên là
tác phẩm khởi đầu.
Sự
đổi mới của Phong Hóa
Phong
Hóa số 14, khổ nhật trình, 8 trang, giá 7 xu[2].
Trang nhất, trên đầu báo đề hai địa chỉ: Toà soạn: 25 Boulevard Henri d’Orléans
[nay là Phùng Hưng] và Trị sự: 1 Boulevard Carnot; cùng với tên ba người:
Fondateur Directeur politique: Nguyễn Xuân Mai. Directeur: Nguyễn Tường Tam.
Administrateur gérant: Phạm Hữu Ninh. (Sáng lập và Giám đốc chính trị: Nguyễn
Xuân Mai. Giám đốc: Nguyễn Tường Tam. Quản lý Trị sự: Phạm Hữu Ninh).
Nguyễn
Tường Tam đổi mới tờ báo từ hình thức đến nội dung: phong phú, hấp dẫn, nhiều
hý họa và minh họa. Ông đã thực hiện được ý định muốn có một tờ báo như tờ Le
Rire (Tiếng Cười) của Pháp[3].
Nguyễn
Tường Tam có hai em hậu thuẫn: Nguyễn Tường Long, làm tham tá lục sự ở trong
Nam, ra Bắc, xuất hiện trên số 14, ký tên Tứ Ly và Tòng Lương [Tường Long nói
lái], Thạch Lam, con thứ sáu trong gia đình Nguyễn Tường, góp mặt trên số đầu
với một truyện rất ngắn, ký tên TL [Tường Lân viết tắt]. Tú Mỡ, quen Nhất Linh
vì làm cùng sở tài chính từ cuối năm 1923, được mời phụ trách mục thơ trào
phúng trên báo cùng với Bán Than (Khái Hưng).
Từ
trước đến nay, người ta vẫn tưởng: Nhất Linh mua lại tờ Phong Hóa của Phạm Hữu
Ninh, và có sự gián đoạn lớn giữa tờ báo của ông Ninh và tờ Phong Hóa. Nhưng
không phải vậy, Phong Hóa từ số 1 đến số 14 là sự liên tục về mặt quản trị và
biên tập, như chúng tôi đã trình bày trong những chương trước: hai hạt nhân đầu
của Tự Lực văn đoàn là Khái Hưng và Nguyễn Gia Trí, làm Phong Hóa với sự trợ
giúp phương tiện của hai ông Nguyễn Xuân Mai và Phạm Hữu Ninh. Khi nhận được
tiền di tặng của Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên, từ số 11, Phong Hóa mới thông
báo cùng độc giả dự định đổi mới, qua hai số chuyển tiếp 12 và 13, Phong Hóa
hoàn toàn đổi mới từ số 14.
Nhất
Linh tổ chức lại tờ báo, phát triển những mục mà Khái Hưng đã tạo ra từ số 1,
mời thêm người viết, mở rộng những mục cũ, tạo mục mới, xác định đường hướng
của tờ báo, dùng hý họa và văn chương tấn công vào thành trì cổ hủ và lạc hậu
của đạo Nho và sự thối nát của guồng máy thuộc địa. Sau khi Phong Hóa bị đóng
cửa ở số 190, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí mở thêm mặt trận tranh đấu chính trị:
đòi hỏi tự do dân chủ, trên báo Ngày Nay, kể từ số 16 (12-7-1936).
Nhất
Linh cải tiến Phong Hóa
Nhất
Linh cải tiến Phong Hóa bằng cách: Phát triển những mục cũ do Khái Hưng đặt ra
và thêm vào những mục mới:
-
Bài
xã luận có từ số 1, luôn luôn ký trên Trần Khánh Giư. Đó là bài chính,
dài, ở trang đầu, dùng nhiều thể loại khác nhau, chủ đề khác nhau, coi như
văn bản "chỉ đạo" của chủ bút; từ số 11, bài xã luận này được thu gọn
lại, in ở cột báo đầu cùng, bên trái.
Từ
số 14 trở đi, trở thành bài viết ngắn, in nghiêng, mục đích cổ vũ hay
giải thích chủ trương, chủ đề của số báo, do Nhị Linh (Khái Hưng), Nhất Linh,
và Tứ Ly (Hoàng Đạo) phụ trách.
-
Mục Thực hay hư, có từ số 2, chưa ký tên. Từ số 3 trở đi ký những tên
khác nhau của Khái Hưng, như Nghịch Nhĩ Đào Đình Dù, Sào Phủ, Hứa Do, Tô Tô
Phôn[4].
Đến
số 14, Nhất Linh chia mục này thành ba mục: Từ nhỏ đến lớn (nói về
việc), Từ cao đến thấp (nói về người) (sau sẽ chập làm một, lấy tên Người
và Việc) và Bàn ngang (nói ngược). Ba mục này giao cho Tứ Ly (Hoàng
Đạo) phụ trách.
-
Mục Tin nước Nam và thế giới có từ số 1, không ký tên. Đến số 14 đổi
thành Những việc chính cần biết trong tuần lễ này, số đầu do Thiện Căn
viết, đây là bút hiệu của Hoàng Tích Chu. Sở dĩ Nhất Linh, Khái Hưng mời Hoàng
Tích Chu bởi vì ông là một trong những nhà báo tân tiến đầu tiên của Việt Nam,
đã đi Pháp hai lần, học nghề báo, trước Nhất Linh. Với chủ trương thay đổi văn
chương quốc ngữ, Phong Hóa cần Hoàng Tích Chu. Chẳng may Hoàng Tích Chu mất sớm
(25-1-1933) ở tuổi 36, nên ông chỉ viết cho Phong Hóa có hai vở kịch và một bài
phóng sự, nhưng ông đã để lại dấu ấn sâu đậm. Chúng tôi sẽ trở lại với Hoàng
Tích Chu trong một chương sau.
-
Mục Hài văn có từ Phong Hóa số 1, do Khái Hưng viết, ký Quần Đệ Tử từ số
1 tới số 7; số 8 ký Bán Than; số 9 ký Bi Thời Khách. Từ số 10, đổi tên thành Nụ
Cười, vẫn do Khái Hưng viết, ký tên Lão Ôn; số 11 và 12 ký tên Nhà Nho; số
13 ký tên Ba Phải. Đặc biệt trong số 6, có bài thơ phỏng Chinh Phụ Ngâm: Lời
than của chị em dưới sóm [xóm] của Quần Đệ Tử, rất hay.
Từ
số 14, mục Hài văn đổi thành Vui… Cười… do nhiều người viết, đôi
khi cả độc giả cũng tham dự.
-
Mục Khoa học có từ số 1.
-
Mục Văn đàn có từ số 1 do Khái Hưng viết dưới những bút hiệu khác nhau,
như: Phong Hóa, Đào Thiện Ngôn, Kỳ Hoa, Thảo Thượng Phong, Ngô Đình Chiên, Trần
Lang và TKH (Trần Khái Hưng), chuyên dịch thơ, dịch văn và sáng tác.
Kể
từ số 14, Văn đàn đổi thành Văn học, vẫn do Khái Hưng phụ trách
dưới bút hiệu Văn Lực.
Ngoài
ra, Nhất Linh đưa thêm vào hai mục mới:
-
Giòng nước ngược, thơ trào phúng, do Tú Mỡ phụ trách, thỉnh thoảng có
thơ của Bán Than (Khái Hưng).
-
Mục Những hạt đậu dọn, do Nhát Giao [Dao] Cạo (Khái Hưng) nhặt sạn chữ
nghiã trên các báo khác.
Phong
Hóa số 14 có những bài sau đây:
Xã
luận: Biết dân quê… của Nguyễn Đông Sơn (Nhất Linh), nội dung bênh vực
dân quê. Mục Văn Học có bài tiểu luận bàn về thi ca, tựa đề Thơ của
Văn Lực (Khái Hưng). Mục Khoa học có bài Giống tôm ở nhờ của Văn
Ký. Mục Những việc chính cần biết trong tuần lễ này của Thiện Căn (Hoàng
Tích Chu).
Phần
hý họa gồm có: Tranh Người An Nam mình kinh doanh của Đông
Sơn. Tranh Mồm mép hàng giầy của Tô, với nhân vật hình dạng giống Lý
Toét, nhưng chưa đề tên. Tranh Giậy khôn của Nal, [có khi ký Nul (Số
Không) hay Tú Nuy (tạm dịch là Truổng Cời)]. Tranh Nhà giáo quen tay của
Tứ Ly. Ba tranh Trong vườn bách thú, Một ngài nhãng trí, Hai
ngài nhãng trí, và tranh minh họa truyện ngắn Kong-Ko Đai-Jin của
Khái Hưng đều ký tên Mac. Truyện hài hước bằng tranh Ông Hàn đi săn… Ông Hàn
kể truyện, không ký tên. Tranh Ông Nguyễn Khắc Hiếu với việc đời,
của Tứ Ly giễu Tản Đà say rượu, đi kèm với bài thơ: Trời đầy Nguyễn Khắc
Hiếu của Bán Than.
Phần
sáng tác gồm có: Truyện ngắn Nùng Chi Lan của Tòng Lương
(Tường Long nói lái). Mục Văn vui có truyện Lệ Hồng quyên sinh
của T.L (Tường Lân). Truyện ngắn Kong-Ko Đai-Jin của Trần Khánh Giư
(Khái Hưng). Truyện trinh thám: Giết chồng… báo thù chồng của Ngô Tâm Tư
(Nhất Linh). Mục Giòng nước ngược với ba bài thơ Tự thuật, Kiệu bay,
Thi lấy được của Tú Mỡ và bài Phụ nữ với quần vợt của Bán Than.
Phong
Hóa 14 là số ra mắt, Tự Lực văn đoàn muốn "phô trương lực lượng" với
số tranh hài hước kỷ lục, bài viết phong phú, chủ đích giới thiệu các ngòi bút
mới và trình bày hai yếu tố hài hước và văn chương như cốt lõi
của tờ báo.
Phong
Hóa số 15 (29-9-1932), có chủ đề đả phá sự sầu thảm với ba sự
kiện đáng chú ý:
-
Lần đầu tiên Trần Khánh Giư ký T. Khái Hưng. Nguyễn Tường Tam vẫn
ký Ngô Tâm Tư.
-
Lần đầu tiên có tên Việt Sinh, bút hiệu của Thạch Lam trên Phong Hóa.
-
Lần đầu tiên có hình Lý Toét trên báo, ở đầu mục Vui Cười, ký DS (Đông
Sơn).
Bài
xã luận: Sầu thảm nhiều rồi của Việt Sinh, công kích lối văn lâm ly đẫm
nước mắt đang thịnh hành thời đó, như Tuyết Hồng lệ sử, Tố Tâm, v.v. Tranh hài
hước Một đám ma vui, trên trang nhất, của Đông Sơn, đưa tiễn những tác
phẩm sầu thảm, hậu thuẫn cho bài của Việt Sinh. Tứ Ly trong mục Từ cao đến
thấp chế giễu chuyện cô gái Bắc Ninh lên Hà Nội tự tử, Bán Than phụ họa với
bài thơ Nước Hồ Gươm trong Giòng nước ngược châm biếm chuyện tự
hủy mình. Khi một "chủ đề" được đưa ra, ở đây là "văn chương sầu
thảm" và bị "đánh hội đồng" như thế thì "khổ chủ" khó
ngóc đầu lên được, đó là chiến thuật của Nhất Linh trên Phong Hóa: một khi đề
đã ra rồi, anh em mặc sức tấn công bằng tranh và lời.
Phần
sáng tác có truyện ngắn Tiếng chó sủa của Ngô Tâm Tư, chuyện
hai vợ chồng đào của, lối viết còn khá thô sơ. Truyện ngắn Đi Nam Kỳ của
T.K.G. (Khái Hưng) do Tứ Ly minh họa, cũng chưa có gì mới. Nhưng truyện ngắn
Cái thù ba mươi năm, của T. Khái Hưng, bút hiệu này lần đầu tiên
ra mắt độc giả, đã xác định một phong cách truyện ngắn có cấu trúc chặt chẽ,
ngôn ngữ điêu luyện.
Phong
Hóa số 16 (6-10-1932): Bút hiệu Nhất Linh xuất hiện lần đầu, dưới bài
tiểu luận Nam nữ bình quyền và bài thơ Điệu thơ cụt. Nhưng truyện
ngắn vẫn ký Ngô Tâm Tư.
Trong
số này có bài xã luận Tinh thần khủng hoảng của Tòng Lương (Tường Long)
nói về vấn đề thanh niên bị khủng hoảng tinh thần vì muốn bỏ cái cũ mà chưa thu
thập được cái mới.
Bài
tiểu luận Nam nữ bình quyền của Nhất Linh, nhìn cái tựa, ta tưởng Nhất
Linh bênh vực phụ nữ, hóa ra không. Theo ông, người chồng (hống hách), thật ra
chỉ là Giám quốc bù nhìn. Chị em mới thực nắm chức Thủ tướng, ông viết: "bọn
đàn ông có quyền bao nhiêu cũng vẫn chưa đủ đàn áp được cái thân liễu yếu, chỉ
nhờ cái "yếu" ấy mà sức mạnh vô song". Có thể do kinh nghiệm
gia đình chăng? Mẹ và vợ ông đều là những "thủ tướng". Nhưng không
phải gia đình nào người đàn bà cũng làm thủ tướng! Bài này đi đôi với hý họa Nam
nữ bình quyền, vẽ người đàn ông đánh phấn, không ký tên, chắc cũng của Nhất
Linh.
Truyện
ngắn Cái hoa chanh của Ngô Tâm Tư hay hơn truyện Tiếng chó sủa trong
số 15.
Và
truyện ngắn Sóng gió Đồ Sơn của T. Khái Hưng đã thấp thoáng không khí
lãng mạn Tự Lực văn đoàn.
Cũng
trên Phong Hóa số 16, lần đầu Nguyễn Tường Cẩm, anh Nhất Linh, viết bài Thomas
Bata, nhà đóng giầy trứ danh mới từ trần.
Phong
Hóa số 17 (13-10-1932) có tranh Đồng tử quân của Đông Sơn, vẽ
một đội quân đồng tử (cùng chết) cầm ống thuốc phiện thay súng xông trận cảm
tử. Có truyện ngắn Tiếng gọi cõi âm của Ngô Tâm Tư, do Cô Tô minh họa và
truyện ngắn Cái thống đời Tống của T. Khái Hưng do Tứ Ly minh họa.
Đặc
biệt là bài Để còn hỏi ông nghè Nguyễn Mạnh Tường của Văn Lực (Khái
Hưng), tác giả hỏi ý kiến ông tiến sĩ văn chương về việc đổi mới văn chương
quốc ngữ, có nên lấy chữ Hán hay chữ Pháp làm mẫu, theo lối Ronsard, thế Kỷ
XVI, đã cải cách thi ca Pháp, và Corneille, Racine, Molière, thế Kỷ XVII, chấn
chỉnh bi kịch và hài kịch, đều lấy văn Hy La làm mẫu không?
Phong
Hóa số 18 (20-10-1932) có truyện Tình tuyệt vọng của Khái Hưng
do Tứ Ly minh họa, và bài thơ Tình tuyệt vọng Khái Hưng dịch Arvers. Với
bài thơ này, Khái Hưng đã nổi tiếng trên văn đàn, trong nhiều thập niên, vì
tính cách lạng mạn "mới" không than khóc, phù hợp với tâm trạng thanh
niên nam nữ lúc bấy giờ.
Đặc
biệt có bài Trường Mỹ thuật Đông Pháp, không ký tên, nhưng chắc của Nhất
Linh. Bài này cho biết nhiều nét về trường Mỹ Thuật Đông Dương trong những ngày
đầu, mà chỉ Nhất Linh, đã từng học qua, mới có thể viết được. Đây là bài đầu
tiên viết về trường Mỹ thuật trên Phong Hóa. Chúng tôi sẽ trở lại với trường Mỹ
thuật Đông Dương, trong một chương khác.
Bài
Bàn về quốc văn của Nguyễn Mạnh Tường trả lời bài Văn Lực đã đăng trong
số 17, có nhiều ý kiến rất hay, chúng tôi cũng sẽ trở lại với Nguyễn Mạnh Tường
trong một kỳ tới.
Trong
số 18 này, lần đầu tiên có truyện ngắn Cái bánh ngọt của Trần Tiêu, em
ruột Khái Hưng, và cũng là lần đầu tiên có tranh của Trần Quang Trân, ký Ngạc
Mai.
Phong
Hóa số 19 (27-10-32), có bài xã luận Tiếng cười của Nguyễn
Tường Cẩm, anh ruột Nhất Linh, là bài viết thứ hai của ông, rồi ngừng. Có tranh
Ấy họ đá… nhau, chế giễu cảnh đá banh của Tứ Ly. Ba Ếch xuất hiện lần
đầu trong truyện Ba Ếch đi xe hoả. Có truyện ngắn Ada Kwaben của
Khái Hưng, vở hài kịch D.P.T.M.N.T.U.T.A.H.T.T.H. hay là hội Ausecourfem
của H.T.C. (Hoàng Tích Chu), cùng bài Nguyễn Mạnh Tường trả lời Văn Lực (Khái
Hưng).
Phong
Hóa số 20 (4-11-1932), tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất hiện
lần đầu trên Phong Hóa, mở một kỷ nguyên mới: Tự Lực văn đoàn đã hoàn tất giai
đoạn hình thành để bước sang giai đoạn phát triển. Từ nay Phong Hóa trở thành
tờ báo lớn nhất đất Bắc, có ảnh hưởng không nhỏ đến phong cách văn chương và sự
đổi mới xã hội ở trong nước.
Những
họa sĩ vẽ tranh hài hước
Về
tranh, từ Phong Hóa số 4 đến số 12, ngoài vài tranh không ký tên, số nào cũng
có tranh ký tên H.bat. Rồi từ số 13 trở đi, xuất hiện nhiều tên khác. Phải
chăng tất cả những tranh đó đều của Nguyễn Gia Trí?
Tuy
nhiên, Phong Hóa có tranh bìa ký tên Đông Sơn chữ Hán từ số 2 và số 3, có một
hý họa ký tên Đông Sơn chữ quốc ngữ, mà trên nguyên tắc, lúc đó Nhất Linh chưa
"vào", vậy ai vẽ? Nguyễn Gia Trí hay Nhất Linh? Nếu là tên chung của
hai người thì lúc nào trở thành tên riêng của Nhất Linh?
Phong
Hóa số 14, trên trang nhất, có hý họa "Người An Nam mình kinh doanh"
ký tên Đông Sơn, vẽ một chiếc xe hàng khốn khổ, chất lèn hành khách và hàng hóa
đồ đạc lên tới mui xe. Tranh này được coi là của Nhất Linh.
Khi
làm Phong Hóa, ban đầu chắc Nhất Linh chỉ có chủ đích dùng tranh hài hước để
giải trí và thu hút độc giả, chế giễu những cái cổ hủ của nhà nho, những cái
lỗi thời trong phong tục (chủ trương này bị nhiều người hiểu lầm và đánh giá
sai). Nhưng dần dần, tranh và văn hài sẽ chuyển sang chống chế độ quan trường
thối nát. Trên Phong Hóa số 150 (24-5-1935) Tứ Ly trong mục "Những cuộc
điều tra phỏng vấn không tiền khoáng hậu – Đi xem mũ cánh chuồn, đã phỏng
vấn giả tưởng Tổng đốc Vi Văn Định, sau đó bị đóng cửa ba tháng. Từ đó, tranh
biếm họa trên Phong Hóa thẳng thừng ra mặt chống thực dân mà Nguyễn Gia Trí là
"thủ phạm" chính.
Nguyễn
Cát Tường là người vào Phong Hóa rất sớm, đã vẽ trên Phong Hóa từ số 13
(8-9-1932), ký tên A.S. Lemur[5]
có thể vì còn là học trò, không được quyền vẽ báo và ký tên như một họa sĩ
chuyên nghiệp. Sự kiện này giải thích tại sao Nguyễn Gia Trí trong thời gian từ
1932 đến 1936, thường vẽ tranh không ký tên, hoặc ký tên lung tung, không giữ
tên nào rõ ràng và lâu dài. Nguyễn Cát Tường chỉ trở lại Phong Hóa từ số 27
(23-12-1932).
Bắt
đầu từ Phong Hóa số 18 (20-10-1932), có tranh của Trần Quang Trân ký Ngym.
Tiếp
đến các họa sĩ Trần Bình Lộc, Nguyễn Tường Lân (hoạ sĩ, trùng tên với Thạch
Lam), Trần Văn Cẩn, Lưu Văn Sìn, v.v.
Trên
số 1, Khái Hưng chưa chủ trương đem tranh hài hước vào Phong Hóa. Phải đến khi
Nhất Linh xuất hiện, hý họa mới thực sự trở thành phong cách thể hiện đời sống,
phê bình xã hội và lôi cuốn độc giả. Từ số 14 đến số 20, Nhất Linh, Nguyễn Gia
Trí, và Tứ Ly là ba họa sĩ chính đảm nhiệm các bức hý họa và minh họa trên
Phong Hóa, tạo thành một "lực lượng" chống phá thành trì cổ hủ,
phụ họa với ba ngòi bút châm biếm và hài hước: Tứ Ly, Tú Mỡ và Bán Than (Khái
Hưng).
"Lực
lượng" này đã được Thạch Lam thống kê trên Phong Hóa 154 (20-9-1935), số
kỷ niệm ba năm Phong Hóa như sau: Từ số 14 đến số 154, Phong Hóa ra được 139 số
báo, 2224 trang; với 1.390 tranh hoạt kê; 832 tranh minh họa; tổng cộng 2224
tranh.
Tại
sao Phong Hóa lại có thể "sản xuất" ra một lượng tranh hùng hậu như
thế? Là do thế này: Giám đốc Phong Hóa Nguyễn Tường Tam, học trường Mỹ Thuật
Đông Dương khoá đầu (1925) cùng với: Nam Sơn, Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Mai
Thứ, Lê Văn Đệ… được hơn một năm thì bỏ; nhưng ông vẫn được coi là họa sĩ
"toàn diện": Ông ở trong danh sách ban giám khảo chấm giải cho phòng
triển lãm 1935, cùng với: giáo sư Tardieu, các hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, Lê Phổ,
Nguyễn Nam Sơn, Trần Quang Trân, Trần Văn Cẩn, Trần Bình Lộc, v.v. (Phong Hóa
số 13, 22-2-1935). Thế Lữ, cũng học Mỹ Thuật, nhưng chắc chỉ theo lớp dự bị thi
vào trường, rồi bỏ, nên không có tên trong danh sách sinh viên[6].
Hoàng
Đạo không học trường Mỹ Thuật, nhưng vẽ rất hay. Thạch Lam không vẽ nhưng yêu
hội họa, sau ông phụ trách mục mỹ thuật trên Phong Hóa Ngày Nay. Khái Hưng, Tú
Mỡ đều biết vẽ cả. Cho nên ngoài hai "họa sĩ chính quy" Nguyễn Gia
Trí và Nhất Linh, các thành viên khác của Tự Lực văn đoàn đều là "họa sĩ
nghiệp dư", rồi họa sĩ ở ngoài cũng vẽ tranh gửi đăng hoặc dự thi hội họa
Phong Hóa, chưa kể các họa sĩ khác được chính thức mời vào.
Nhất
Linh vẽ ký tên Đông Sơn, Hoàng Đạo ký tên Tứ Ly và Nguyễn Gia Trí không ký tên,
hoặc ký nhiều tên: Tô (tên chó Tây) , Cô Tô (cô chó Tây), LTô, Nal, Nul (Số Không),
Hoth, Mac, Mạc, Daladin (của Aladin), Tú Nuy [Truổng cời] và nhiều tên khác
nữa, trước khi lấy tên "chính thức" là Rigt nghiã là Gia Trí
Cười (gt ri viết ngược) hay Lẽ phải (Right).
Bút
hiệu Đông Sơn, có từ Phong Hóa số 2 bằng chữ Hán trên tranh bìa. Đến số 3, có
tranh Đông Sơn ký chữ quốc ngữ, chắc do Nguyễn Gia Trí đặt ra vì lúc đó Nhất
Linh chưa vào. Tôi tạm đoán: hai người cùng ký tên Đông Sơn trong một thời
gian, sau đó tên này mới tách ra thành tên riêng của Nhất Linh.
Bút
hiệu Đông Sơn, ký dưới bức tranh hài hước Người Annam mình kinh
doanh, in trên trang nhất số 14, vẽ một chiếc xe hàng, bánh xe vá chằng
chịt, lèn hành khách, hàng hóa, đồ đạc, như cá hộp, có người lăn xuống đất, bị
người khác nôn mửa lên mặt. Trong số hành khách ngồi chen chúc trên mui có hình
(giống như) Lý Toét. Bên đường có cột cây số giống hệt mộ bia. Chuyến xe hàng
ghi chạy đường Hà Nội – Chín Suối, có 25 chỗ ngồi nhất định.
Đây
là bức tranh đầu tiên, tiêu biểu cho thể loại hài hước trên Phong Hóa: Mô tả
cảnh lầm than của dân tộc mình dưới ách thực dân, và tự giễu cái nghèo, cái bon
chen, ham sống, sống tủi nhục của kiếp người nô lệ.
Vẫn
trên Phong Hóa số 14, trang 3, có hai tranh: Mồm mép hàng giầy, ký Tô,
vẽ người bán giầy có khuôn mặt và bộ dạng giống Lý Toét. Bên cạnh
có bức tranh Giậy khôn ký Nul, vẽ cảnh một thằng nhỏ bị xe cán đứt đôi,
một ông nhà quê, cầm dù giống Lý Toét đi qua, cúi xuống mắng: Lần sau có đi
nên cẩn thận!
Số
15,
có tranh Một đám ma vui… của Đông Sơn, đưa tiễn những thứ u buồn sầu
não, đang làm chủ tình hình lúc bấy giờ. Dẫn đầu là hàng kèn trống và lá cờ
hiệu: Sầu thảm nhiều rồi, đằng sau là những người đi đưa ma và
một rừng phướn ghi tên những tác phẩm, những chủ trương, những con người sầu
não, phải tống táng đi, như: Sợi tơ lòng, Nho phong, Giọt lệ phòng văn, Tân
sầu Nguyễn Tiến Lãng, Một tụi chán đời, Duyên nợ phù sinh…
Tóm
lại, Nho Phong cũng bị cha đẻ Nhất Linh đem ra đưa đám, như những tác
phẩm cổ lỗ sĩ khác.
Trên
đầu mục Vui cười lần đầu tiên có chân dung Lý Toét, ký DS (Đông Sơn).
Bức
hý họa Trên xe điện, không ký tên, mô tả cảnh người mình ngồi tàu điện:
khạc nhổ, vén quần gãi sồn sột, nói oang oang, cãi lộn, nôn mửa… ở dưới ghi: Không
nên như những người này.
Số
16, vẽ tiếp hai tranh Những chỗ ngồi trên xe điện, ký LTô, tranh bên
trái: một người phụ nữ có tuổi bước vào toa tàu, không ai nhường chỗ. Bức tranh
bên phải, cũng cảnh ấy, nhưng một thiếu nữ trẻ đẹp bước vào, các cậu tranh nhau
xun xoe: Mời cô ngồi, mời cô ngồi đây! Bức tranh Cũng tắm bể ký
Hoth, cực kỳ châm biếm. Một bức tranh khác, không ký tên, vẽ ông Lý đi qua hàng
nước, cô hàng mời: Mời ông vào sơi nước chanh nước đá. Ông Lý (lễ phép):
Tôi không dám mời cô sơi.
Tóm
lại, tranh hài hước trên Phong Hóa, thời kỳ đầu, mang tính mua vui, tự trào và
giáo dục. Phanh phui đời sống xã hội dưới chế độ thuộc địa, chế giễu sự quê
mùa, dốt nát, khốn khổ của dân ta, chịu phận dân tộc bị trị, hoang mang và lạc
lõng không theo kịp đời sống mới.
Tranh
và thơ chế giễu Tản Đà
Phong
Hóa số 14, trang 4, có ba tranh hai hước, nhưng đáng chú ý là tranh của Tứ Ly: Ông
Nguyễn Khắc Hiếu với việc đời, vẽ Tản Đà có râu, say rượu ngất ngư bên đống
chai không. Lại có bài thơ Trời đầy Nguyễn Khắc Hiếu của Bán Than (Khái
Hưng) phụ họa, như sau:
Trong
phòng khách cụ Trời
Cậu
nhỏ dâng văn bôi
Sẩy
tay đánh rơi vỡ:
Nguyễn
Khắc Hiếu ra đời!
Từ
khi Hiếu xuất thế
Vẫn
nhớ cảnh thiên tiên.
Bữa
cơm thường phải rượu
Nhưng
túi lại rỗng tiền.
Rượu
ngon thức nhắm ngon,
Giọng
văn lại càng giòn:
Khối
tình con, tình lớn
Giấc
mộng lớn, mộng con.
Thích
chí nằm ngâm nga
Tiếng
động vang Ngân hà.
Trời
hỏi: "ai ngâm thế?"
Muôn
tâu, ấy Tản Đà
Trời
nổi trận lôi đình
Rằng:
"cái thằng tiên ranh
Ta
đầy xuống hạ giới
Để
hắn chịu nhục hình
Ai
ngờ hắn vẫn nhàn
Ngày
tháng ngâm thơ tràn
Các
ngươi ai có cách
Bắt
hắn phải gian nan"
Chư
tiên đồng thanh nói:
"Tội
nặng nhất trần phàm
Là
bắt anh Khắc-Hiếu
Làm
chủ báo An-Nam"
Bán
Than
Sự
chế giễu Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu trên Phong Hóa có vẻ như được Tản Đà khuyến
khích. Tứ Ly kể lại câu chuyện sau[7]:
Trên
Phong Hóa số 14, Tứ Ly vẽ bức tranh Ông Nguyễn Khắc Hiếu với việc đời
giễu Nguyễn Khắc Hiếu say rượu, có râu. Mấy hôm sau Tản Đà đến toà soạn
chơi, mày râu nhẵn nhụi, Tứ Ly chột dạ, bèn đăng lời Cải chính trên
Phong Hóa số 15: "Trong số báo trước (số 14) Phong Hóa có đăng hình ông
Nguyễn Khắc Hiếu, lỡ nét bút thành vẽ nhà thi sĩ có râu. Vậy cái lỗi, vẽ rắn
thêm chân ấy, bản báo xin cam chịu với ông Lý Bạch thời nay. Lại xin các cô
"tình nhân không quen biết" của ông Hiếu cứ vui lòng mà viết thư trả
lời về Hàng Bông cho ổng: ổng chẳng có râu đâu, các cô đừng sợ sệt". Nhưng,
vẫn theo lời Tứ Ly kể tiếp: Một buổi tiếp chuyện ông Hiếu, thấy ông nói
rằng: Một tờ báo hay cải chính là tờ báo hư!" làm chàng càng chột dạ,
sợ ổng lại để râu, mình lại phải cải chính, cứ thế mãi, thì còn gì "giá
trị" tờ Phong Hóa!
Phong
Hóa số 16, Trong mục Giòng nước ngược, đề tài Cảm thu, lại
có bài Điệu thơ cụt ký Nhất Linh và bài Cảm thu ký Bán
Than. Chúng ta nên để ý đến bài Điệu thơ cụt, vì đây là lần đầu tiên bút
hiệu Nhất Linh xuất hiện trên mặt báo và bài này còn được ghi là Thơ mới
(khác với bài Cảm thu của Bán Than là thơ cũ, làm theo thể thất
ngôn bát cú) có âm điệu gần như thơ tự do. Chúng ta cũng nên biết lúc đó Thơ
mới vừa ra đời, được giới thiệu lần đầu ở ngoài Bắc, trên báo Phong Hóa
Xuân đầu tiên, số 31 (24-1-1933). Vậy bài Điệu thơ cụt của Nhất Linh là
một bài Thơ mới, mới nhất, bài đầu tiên hết của Tự Lực văn đoàn:
Lũ
khỉ trong bách thú
Nhớ
rừng xưa kêu rú
Nhà
văn cảm thu về
Dặn
[Rặn] dăm bài tuyệt cú
Cán
bút đương ngậm ngùi
Tưởng
tuyết rơi tơi bời!
Ai
ngờ trời nắng gắt,
Chẩy
mồ hôi!
Lại
toan tả đàn nhạn,
Trong
sương bay tán loạn
Sẩy
nghe tiếng còi tầu,
Nguồn
thơ cạn!
Nhạn
tuyết không có rồi,
May
còn lá ngô rơi,
Ai
ngờ ngoài đường cái,
Cây
xanh tươi!
Muốn
cảm thu một chút,
Hay
đâu hứng đã cụt
Nghĩ
mãi không ra văn,
Đành
dừng bút!
Nhất
Linh
Bán
Than cũng phụ họa Nhất Linh, với bài Cảm thu, dưới đây:
Ô
kià đã quá nửa thu rồi
Cảm
tác nay xin có mấy lời
Một
rặng cây xanh hun gió nóng
Hai
bàn tay trắng đổ mồ hôi
Nào
đâu mặt tuyết ngô đồng rụng
Chỉ
thấy bên đường đám cỏ tươi
Trai
gái quanh hồ cười khúc khích
Sầu
riêng thi sĩ lệ đầy vơi.
Bán
Than
Cả
hai bài đều nhại tuyệt tác Cảm thu của Tản Đà mà chúng ta đều thuộc
lòng: Từ vào thu đến nay, gió thu hiu hắt, sương thu lạnh, trăng thu bạch,
khói thu xây thành, lá thu rơi rụng đầu ghềnh, sông thu đưa nhánh bao ngành
biệt ly, nhạn về én lại bay đi, đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm, lá sen tàn
tạ trong đầm, nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa…
Nhưng
ta thấy: Khái Hưng vẫn ký Bán Than, bút hiệu dùng trong mục Giòng nước ngược
với Tú Mỡ, bởi vì Khái Hưng, tuy kém Tản Đà 7 tuổi, nhưng là bạn của Tản Đà
từ nhiều năm trước, không cần giữ lễ.
Nhất
Linh, kém Tản Đà 17 tuổi, cho nên tuy chế nhạo Tản Đà, nhưng vẫn kính nể bậc
đàn anh, ông đã ký cái tên đẹp nhất: Nhất Linh, lần đầu trình làng dưới
bài thơ mới đầu tiên của ông, một cách gián tiếp tôn vinh Tản Đà: Sự tế
nhị và nhã độ của Nhất Linh nằm ở chỗ đó.
Tứ
Ly cũng vậy, tuy chế giễu Tản Đà, nhưng vẫn sợ ổng (chơi khăm). Tứ Ly coi Tản
Đà là Lý Bạch thời nay: còn có danh hiệu nào cao quý hơn!
Cho
nên dù bị chế giễu bao nhiêu, Tản Đà không bao giờ giận Tự Lực văn đoàn.
Khi
Tản Đà túng thiếu, Khái Hưng Nhất Linh đã mời ông cộng tác, dịch thơ Đường và
khi Tản Đà mất ngày 7-6-1939, Ngày Nay số 165 (10-6-1939) thông tin: Tản Đà
tạ thế. Mở sổ quyên giúp gia đình thi sĩ. Ngày Nay số 166 (17-6-1939) số
báo tiễn biệt Tản Đà, Khái Hưng viết bài Cái duyên của Tản Đà, một trong
những bài tiễn đưa hay nhất, của một người bạn gần 20 năm quen biết, gần gũi,
hiểu và yêu thi sĩ, với những lời lẽ hết sức chân thành cảm động.
Rất
nhiều người không hiểu ý nghiã cái cười trên Phong Hóa Ngày Nay, nên có những
lời buộc tội phiến diện, đôi khi khiếm nhã, như trường hợp Thanh Lãng, chúng
tôi sẽ nói tới sau.
Phan
Khôi là người đầu tiên viết bài bênh vực tiếng cười, trên Phong Hoá, trong mục
Văn học, trong bài Cái địa vị khôi hài trên văn đàn, ông viết:
"Người
mình hình như chưa hiểu đến cái hay của sự khôi hài là dường nào, cũng chưa
hiểu đến cái ích lợi của văn khôi hài và người có tài khôi hài ra sao. (…)
Nhưng phải biết rằng ai có tài thông minh tuyệt thế thì mới nói được câu chuyện
diễu có duyên hay là làm được bài văn bông lơn có duyên, chớ phải dễ dầu gì đâu
mà khinh thị.(…) Văn khôi hài nó thường làm cho cảm động người ta một cách rất
mạnh mà người ta không biết. Giả như ông mỗ có cái tật xấu gì đó, có kẻ làm bài
hài văn, ám chỉ mà công kích cái tật xấu ấy của ông, trong lúc ông mỗ đọc đến,
ông phải tức cười nôn ruột mà không giận được, rồi có lẽ lần lần tự nhiên ông
mỗ bỏ cái tật xấu ấy đi bao giờ mà ông không hay. Đó mới thật là một bài hài
văn hay đó, và cái công dụng của nó là như thế."
(Phong Hoá số 26, 16-12-1932)
Phan
Khôi đã nói rõ công dụng của tiếng cười và giá trị "giáo dục" của
tiếng cười.
Ta
nên phân biệt tính cách trào phúng trên Phong Hóa làm hai loại, với hai đối
tượng khác nhau: trào phúng phỉ báng sự nô lệ Pháp, chế giễu các quan trường
bồi Tây, tố cáo sự đán áp của chính quyền thực dân: đó là trào phúng cách
mạng.
Còn
sự chọc cười những cố tật của các nhà văn nhà báo "cổ" như cụ Hoàng
Tăng Bí, Tản Đà, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố… hay chế giễu sự
gàn, bướng trong "lý luận Phan Khôi" của Tứ Ly, là lối khôi hài Phan
Khôi vừa kể ở trên, không thể coi là phạm thượng. Đó là trào phúng sửa sai.
Chúng
ta cũng đừng quên: Khái Hưng là bạn thân của Phan Khôi, gặp nhau ở nhiều điểm,
nhất là ở chủ trương chống nho giáo, đổi mới ngôn ngữ và giải phóng phụ nữ.
Khái Hưng là người đã giới thiệu Phan Khôi và thơ mới sớm nhất trên Phong Hóa.
Đến những ngày thật căng thẳng trong tháng 7 năm 1946, Phan Khôi ra Hà Nội,
không ở nhà con, mà bị Việt Minh bắt tại 80 Quan Thánh, nhà Khái Hưng.
(Còn
tiếp)
Thụy
Khuê
thuykhue.free.fr
[1]
0p03 là 0 piastre 03, hay 0 đồng 03, tức 3 xu.
[2]
In ở nhà in Lê Cường do Nguyễn Tường Tam quản lý. Tên nhà in Lê Cường chỉ xuất
hiện một lần duy nhất, từ số 15, lại trở về với tên nhà in Moderne.
[3]
Le Rire (Tiếng Cười) (1894-1971) là báo trào phúng ra hàng tuần, biếm họa những
nhân vật trong chính trường, những giai nhân tài tử nổi tiếng và in tác phẩm
của các nhà văn trẻ.
[4]
Mục Thực hay hư ký tên Nghịch Nhĩ Đào Đình Dù từ số 3 đến số 6; số 7 ký
Sào Phủ; số 8 và số 9 ký Hứa Do; số 10 ký Nghịch Nhĩ; số 11, ký Hứa Do; số 12
ký Tô Tô Phôn, số 13, ký Nghịch Nhĩ; những bút hiệu này đều có giọng văn, lối
viết và tư tưởng của Khái Hưng.
[5]
AS Le Mur (Artist Student Le Mur) là dịch tên Tường sang tiếng Pháp và đề thêm
AS là sinh viên mỹ thuật.
[6]
Thời đó muốn thi vào trường Mỹ Thuật Đông Dương, thường phải học một năm dự bị,
và phải qua kỳ thi tuyển. Theo Đặng Hữu Thụ, trường Mỹ thuật Đông Dương có hai
ban: Kiến trúc và Hội họa. Muốn thi vào ban Kiến trúc, thí sinh phải có bằng
Cao đẳng tiểu học Pháp Việt (tức là bằng Thành chung hay bằng Trung học), còn
thí sinh thi vào ban Hội họa, không bắt buộc phải có văn bằng gì. (Đặng Hữu
Thụ, Làng Hành Thiện thời Tây học cho đến năm 1954, Quyển Thượng, tác
giả tự xuất bản, Melun, Pháp, 1999, trang 146 và 151).
[7]
Trong mục Từ cao đến thấp, trên báo PH số 18 (20-10-1932).
Nguồn: Văn Việt