Tôi
biết nói gì về một người cha, khi ông mất, tôi mới chưa đầy ba ngày tuổi. Tôi
chưa bao giờ nhìn thấy ông, được nắm tay ông, hay như những người con may mắn
khác, được gọi ông bằng cha và được nghe ông gọi tên tôi, nhưng tôi luôn luôn
hình dung và bị ám ảnh bởi cái chết của ông, cái chết của một nhà văn nghèo,
bệnh hoạn và còn quá trẻ. Nếu tôi có được cái tài của một họa sĩ, như Picasso
chẳng hạn, vào thời kỳ blue, tôi sẽ vẽ lại cái khung cảnh ấy. Đó là một người
đàn ông gầy và cao nằm trên một cái giường tre nhỏ, trên người đắp một cái chăn
mỏng, ngực lép xẹp nhưng khuôn mặt có dáng dấp Tây phương, gò má hóp, mũi cao
và nhất là hai con mắt sâu thẳm, đầy bóng tối, khuất sâu dưới hàng lông mày
rậm, mái tóc rất đen, mềm và dầy, vài sợi tóc lõa xõa trên vầng trán cao. Tất
cả đều mờ ảo trong nền mầu xanh đậm nhạt, như sáng lên trong bóng tối. Bên cạnh
giường là hình ảnh mờ nhạt của hai người đàn bà tóc quấn khăn nhung, áo dài the
đen, một người lớn tuổi, cằm hơi vuông, mắt sâu và lông mày rậm, một người trẻ hơn
nhưng khuôn mặt phảng phất khuôn mặt người mẹ, hai người ngồi phía cuối chân
giường, hơi nghiêng về phía trước. Một người đàn bà nhỏ nhắn, tóc buông đen dài
trên áo cánh trắng, khuôn mặt nhỏ và thon, đôi mắt buồn rầu như muốn khóc, nắm
tay người đàn ông, những ngón tay dài, thon nhỏ và xanh xao. Phía trên giường
nằm mở ra một cửa sổ, có đôi chút ánh nắng chiếu vào, mầu trắng nhợt, xa hơn là
bóng những cành liễu nhỏ, rũ xuống, buông lơi mờ nhạt. Tựa đề của bức tranh:
“Cái chết cùa một nhà văn trẻ”. Tôi không thể không nghĩ tới số phận của những
nhà văn Việt nam thời đó, và có thể cho tới bây giờ. Những người làm văn chương
và nghệ thuật, những nhà báo, đã hy sinh đời mình cho lý tưởng và cái đẹp, hình
như vẫn chỉ là những người có một đời sống vật chất rất khiêm nhường trong xã
hội, phải chăng chỉ vì cái lạc thú được theo đuổi những giấc mơ của chính mình.
Còn những người thân cận, những vợ, con của những nghệ sĩ tài danh đó, hoặc là
bươn chải cho giấc mơ của chồng, cha hoặc âm thầm hy sinh và chịu đựng những cơ
cực của đời thường. Tôi nghĩ, đó chính là hình ảnh và thực tế của đời sống
Thạch Lam, cha tôi. Đó là lời phát biểu bộc phát khi tôi, như một người con
phải nói đôi điều về Thạch Lam trong buổi hội thảo Tự Lực Văn Đoàn và báo Phong
Hóa/ Ngày Nay: “Tôi không biết là tôi thương ông hay không thương ông”. Thạch
Lam, như một người cha đã thường xuyên vắng mặt, nhưng tên tuổi và những tác
phẩm để lại, cái gia tài tinh thần ít ỏi và ngắn ngủi của ông, lại ảnh hưởng
đến cuộc đời tôi biết bao, trên bẩy mươi năm ròng rã, để tôi đã là tôi ngày hôm
nay, chắc chắn không có thể xẩy ra khác được, như con đường đã được chọn lựa,
từ khi tôi ba ngày tuổi và từ khi ông từ bỏ cuộc đời này, vĩnh viễn.
Tôi
bắt đầu biết đến văn chương Thạch Lam từ một buổi học Việt văn khi tôi ở lớp đệ
thất (lớp 6 bây giờ) trường trung học Hồ Ngọc Cẩn khi mới di cư vào Nam. Tôi
còn nhớ khá rõ thầy giáo dậy Việt văn tên Hải, một hôm gọi tôi đứng lên đọc một
đoạn văn trong chương trình, một đoạn văn trích dẫn trong một truyện ngắn nào
đó của Thạch Lam. Tôi đứng lên, đọc thông suốt, không ngập ngừng, như đoạn văn
đó đã ở trong trí nhớ tôi từ lâu, lâu lắm. Đến khi tôi ngừng đọc, thầy giáo Hải
có vẻ cảm động, khen tôi đọc bài lưu loát và tình cảm. Tôi ngồi xuống, mắt đỏ
hoe. Tôi đã biết Thạch Lam là cha tôi do những lần mẹ tôi dẫn đến nhà bác Tam
(Nhất Linh) ở Hàng Bè -Hà Nội, hay những lần bà nội cho người gửi tiền đến cho
mẹ tôi, nói là tiền in sách của cha tôi. Trong suốt thời niên thiếu ở Hà Nội,
theo bậc tiểu học ở trường Hàng Than (Nguyễn Công Trứ), những đoạn văn tôi đọc
chỉ là những bài viết trong mấy tập Tân Quốc Văn hoặc Quốc Văn Giáo Khoa Thư,
tôi chưa bao giờ nhìn thấy và đọc một cuốn truyện của Thạch Lam. Có lẽ tôi còn
quá nhỏ chưa đủ hiểu biết để đọc tiểu thuyết, hoặc là vì tôi chỉ ham mê đọc
truyện kiếm hiệp hay truyện Tầu, đôi khi đọc những truyện trẻ con như Dế Mèn
Phiêu Lưu Ký hay truyện dịch ngoại quốc Tâm Hồn Cao Thượng, Vô Gia Đình… Chỉ có
một khoảng thời gian ngắn trước khi di cư vào Nam tôi mới bắt đầu tiếp xúc với
văn chương Tự Lực Văn Đoàn, chủ yếu là Khái Hưng, Thế Lữ, Nhất Linh và Trần
Tiêu. Tuyệt nhiên không có Hoàng Đạo và Thạch Lam. Thầy giáo Hải sau đó, có lẽ
biết tôi là con của Thạch Lam, nên rất ân cần và nâng đỡ tôi trong giờ Việt
văn. Tôi rất cảm động trong tình thầy trò thì ít, nhưng có lẽ tôi đã nhìn thấy
cha tôi qua sự yêu mến văn chương Thạch Lam của thầy. Tôi bắt đầu có những ý
thích về văn chương và nuôi mộng trở thành một nhà văn, như cha tôi Thạch Lam.
Nhưng viết văn không phải cứ muốn là đuợc, và ở tuổi tôi, có biết bao nhiêu
điều vui thú khác quyến rũ hơn, cộng với tính lười biếng và ham chơi, tôi không
bao giờ làm gì hơn là những bài luận văn để lấy điểm trong lớp. Về sau này, tôi
nhớ có hai lần quyết tâm theo đuổi nghiệp văn chương. Lần đầu tiên vào khoảng
năm 1957-58, khi bác Tam bỏ Đà lạt về Sài gòn làm báo Văn Hóa Ngày Nay, tôi có
cặm cụi viết một vài truyện ngắn đưa cho bác Tam đọc, một tuần sau đó, nhân một
buổi đến thăm bác, bác ký tặng tôi một số Văn Hóa Ngày Nay và nói: cháu còn trẻ
và viết văn giống Thạch Lam quá, cháu nên viết những gì riêng biệt cho
cháu thì tốt hơn. Bác Tam cũng khuyên tôi nên đọc thêm nhiều sách khác, nhưng
ông khuyên tôi không nên đọc cuốn Bướm Trắng của ông vì tôi còn quá nhỏ. Tôi đã
không có cái can đảm để cong lưng viết thêm vì không thấy hứng thú, và bay lượn
với những đường banh trên sân cỏ đã quyến rũ tôi hơn. Gần mười bẩy năm sau,
trong khi đang hành nghề y khoa, tôi lại một lần nữa cảm thấy sự thúc đẩy từ sâu
thẳm trong tâm hồn, tôi bỏ hết thì giờ và năng lực để hoạt động trong môi
trường sách báo, viết văn và làm thơ, nhưng sự kết thúc bi thảm của chiến tranh
(một điều tôi rất mơ ước) đã đẩy tôi tới một môi trường sống khác, tôi lại
không có cái can đảm như một nhân vật trong truyện Ngày Mới của Thạch Lam, tìm
thấy hạnh phúc trong một đời sống thanh đạm và giản dị, nói chung là một cuộc
sống nghèo, để theo đuổi giấc mộng văn chương..
Vào
khoảng thời gian những năm đầu di cư vào Nam, tôi đang ở tuổi thiếu niên, tuổi
mới lớn và có nhiều nhu cầu vật chất. Mẹ tôi lúc đó là một công nhân lao động ở
nha Bưu Điện, lương bổng ít ỏi chỉ đủ ăn hai bữa cơm rất thanh đạm hàng ngày.
Lúc đó, cái gia sản vật chất nhỏ bé cha tôi để lại, dù chỉ là một số lượng sách
khiêm nhường, cũng đã giúp anh tôi và tôi có được áo quần tươm tất và phương
tiện di chuyển như các bạn cùng lứa thuộc gia đình trung lưu. Đó là lúc bác Tam
(Nhất Linh) thành lập nhà xuất bản Phượng Giang và in lại một số truyện ngắn
của Thạch Lam, và cũng là thời gian tôi làm quen nhiều với những tác phẩm của
cha tôi, vì kèm theo tiền bản quyền, nhiều khi do chính tay bác Tam đưa tới,
chúng tôi cũng nhận được một số sách để giữ hoặc tặng bạn bè. Không thể nói là
tôi sống trong cái bóng của cha tôi, nhưng quả thật những truyện ngắn ông viết
đã ảnh hưởng nhiều trong cuộc đời tôi. Không phải là thường xuyên, nhưng những
gì ông viết ra, bất chợt nhắc nhở tôi trong những tình huống đặc biệt, từ đó
tôi tập sống làm một người lương thiện, biết thương yêu những người nghèo khó,
những hoàn cảnh khốn cùng. Tôi cố gắng trong cư xử hòa thuận, tôn trọng nhân
phẩm mọi người và hiểu rằng đôi khi một hành động nhỏ không suy nghĩ có thể gây
ra những tai hại lớn lao và khốc liệt cho người khác. Tôi cũng học tập và tin
tưởng qua những điều ông viết, là một đời sống thanh đạm và giản dị là
căn bản của hạnh phúc, rằng tiền bạc chỉ là những ảo tưởng phù du. Nhưng than
ôi, đối với đời sống và quan niệm thực tế thời tôi lớn lên, và nhất là sau này
khi phải lưu lạc nơi đất Mỹ, những suy nghĩ và hành xử của tôi trong xã hội chỉ
làm tôi là một người đứng bên lề. Dĩ nhiên, để đối phó với những khó khăn của
cuộc sống, tôi phải hòa mình sống như mọi người. Tôi cũng đã có nhiều lần nghĩ
những điều không tốt đẹp, có những hành động và cư xử có thể làm tổn thương
người khác, cũng tranh đua với đời. Mỗi lần như thế, nghĩ đến danh tiếng của
cha tôi, nhớ đến những bầy tỏ về tính nhân bản trong các truyện ngắn của ông,
đêm nằm nhìn lên trần nhà, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ và khổ sở.
Đã có rất nhiều lần trong đời, tôi rất bất mãn và ngượng nghịu trong xã giao đời thường, khi được giới thiệu: “Đây là anh/ông Giang, con út nhà văn Thạch Lam”. Lời giới thiệu đó đã làm tôi rất khó chịu và rất khó đối xử , vì tôi bị chụp ngay vào đầu cái vòng kim cang của cha tôi, tôi không còn là tôi nữa, những ý tưởng của tôi đã bị điều kiện hóa. Tôi không biết phải ứng xử ra sao để phù hợp với “con út của nhà văn Thạch Lam”. Đôi khi, những người bạn văn nghệ bàn về cái hay cái đẹp của văn chương Thạch Lam, mặc dù tôi rất thích văn chương ông, nhưng mặc cảm về liên hệ cha con đã khiến tôi, hoặc im lặng, hoặc lảng tránh. Tôi, đôi khi chỉ muốn là con của một người bình thường nào đó, không có tiếng tăm và được yêu mến như Thạch Lam. Bây giờ, đã hơn bẩy mươi tuổi đầu, khi đọc lại những tác phẩm của Thạch Lam, tôi thưởng thức với cảm xúc khách quan của một độc giả, tôi rất hãnh diện khi có người nhắc tới tôi là con của nhà văn Thạch Lam, trong Tự Lực Văn Đoàn, một nhà văn tôi cũng rất yêu quý vì văn tài của ông. Thực tế, dù chấp nhận hay từ chối, tôi đã là con của Thạch Lam. Cũng chẳng còn bao lâu nữa, tôi sẽ có dịp gặp lại mẹ tôi và Thạch Lam, lúc đó có thể tôi sẽ được nắm tay ông và nhìn vào đôi mắt sâu thẳm của ông để gọi hai tiếng: Cha ơi. Hai tiếng ngắn ngủi đã bao nhiêu năm tôi vẫn hằng mong ước.
NGUYỄN TƯỜNG GIANG
21.8.2013