Wednesday, September 30, 2020

1776. TRẦN HUIỀN ÂN 5 bài thơ trích từ tập RỪNG CAO (2007)

 

Chân dung Trần Huiền Ân - Đỗ Toàn vẽ (1973)

THÁNG CHẠP

 

Tháng chạp đầy sân hoa cúc nở

Như vườn Lão Phố trải vàng tươi

Bâng khuâng nghe chút gì thương nhớ

Ký ức long lanh những nụ cười

 

Tháng chạp mưa bay mờ dáng núi

Cánh cò bé bỏng giữa đồng xanh

Đường quê áo vải hoen màu bụi

Ai hát nghêu ngao khúc độc hành

 

Tháng chạp phương đông trời đổi gió

Hong bàn tay nhỏ giữa bao la

Mênh mang thế sự tình trăm họ

Gạn lấy cho nhau chút đậm đà

 

Tháng chạp hồn nhiên như cỏ dại

Trăng sao. Nắng sớm với sương chiều

Người xưa chợt thoáng quay nhìn lại

Đủ ấm lòng ta bóng tịch liêu...

 

(1999)


 

SÔNG XƯA

 

Ta trở lại dòng sông xưa Đà Lãng

Hai triền xanh xanh bờ cát chiêm bao

Chiếc bè tre chập chờn trên nắng sáng

Nước trong ngần thác trắng gọi mây cao

 

Bao ký ức thời thanh xuân thức dậy

Tóc người bay rợp mát buổi trưa vàng

Con sóc nhỏ nép bên hồn lau sậy

Sợ nhún mình sẽ động bước sang ngang!

 

Thật bất chợt người cất lên tiếng hát

Trời chao nghiêng đồi núi cũng chao nghiêng

Hoa ngưng nở trái rừng ngưng ngậm hạt

Lũ chim cùng ngưng vỗ cánh ngàn thiêng

 

Nhớ buổi ấy lòng ta đầy mộng ảo

Nữa mai sau người áo đỏ khăn vành

Lối cỏ dại là con đường phương thảo

Nhịp cầu tre là nét vẽ đan thanh…

 

Rồi khôn lớn, rồi vào đời nhập cuộc

Người say mê tầng cao rộng trời mây

Đâu tiếng hát lọc qua màu sông nước

Đâu nụ cười thơm xỏa tóc trầm bay?

 

Ta cũng vậy, xa làng quê bé nhỏ

Có gì vui chăng, khói bụi phố phường?

Đời chật chội chen đèn xanh đèn đỏ

Vầng trăng không lơ lửng giấc khuya sương!

 

Và mỗi độ tin xuân chừng thấp thoáng

Ta trở về với Đà Lãng sông xưa

Hong trẻ lại thời thanh xuân dĩ vãng

Tóc người bay vàng nắng rắc tơ mưa…

 

(2011)


 

QUA BẾN TANG CÀN

 

Em cứ tưởng như thuở nào trở lại

Dòng sông sâu mờ khuất lũy tre làng

Con thuyền nhỏ bên kia bờ dầu dãi

Người xưa đâu? Ai hát Độ Tang Càn *

 

Độ Tang Càn… Độ Tang Càn…

Giọng nười nổi trôi trên cánh gió

Ào ào nước cuốn dưới cầu

Trúc đào se se lòng môi đỏ

Mười lăm năm bây giờ gặp nhau

 

Mười lăm năm tha phương lưu lạc

Tang Càn thác trắng mây cao

Em đứng lặng giữa bãi cồn ngơ ngác

Lối về nhà cũ hướng nào?

 

Em hỏi lá cành, lá cành xào xạc

Em hỏi con chim, con chim vù bay

Chợt nghe mơ hồ trong gió thoảng

Hồi chuông chánh ngọ vơi đầy…

 

Xanh xanh một màu xa thẳm

Chân trời chiều bụi xóa nhòa

Độ Tang Càn… Độ Tang Càn…

Có phải cây rừng thương đời phiêu lãng

Tiết xuân dồn nở bốn mùa hoa?

 

(2011)

(*) Độ Tang Càn: Một bài thơ tứ tuyệt của Giả Đảo (khoảng 793-865) đời Trung Đường, tâm sự một người tha hương khi đi qua sông Tang Càn về cố quận.


 

THƠ VIẾT BUỔI CHIỀU THU PHÂN

 

Chiều nay vợ đi vắng con đi vắng

Thu phân lất phất mưa buồn

Một ve củ tỏi một chén hột mít

Một mình ta ngồi nhắm sương sương

 

Tuổi tác bộn rồi đô xuống dốc

Sương sương không biết xỉn hồi nào

Ta thấy hai bên hai vầng nhật nguyệt

Dưới chân đất rộng trên đầu trời cao

 

Nhịp đôi guốc cùn nghêu ngao ta hát

Bài ca người thủy thủ trên đảo hoang

Ôi gió biển mặn gan mát phổi

Chung quanh ta đầy châu báu bạc vàng

 

Trắc trắc bằng bằng sắp hàng chữ nghĩa

Này niêm này đối này vần

Bẻ đôi luật Đường chẻ tư lục bát

Hỏi rằng giá trị mấy đồng cân?

 

Ta không phải là nhà văn nhà vẻ

Ta không phải là nhà thẩn nhà thơ

Gạt phăng trắc bằng ta làm thi sĩ

Ngốc nghếch giữa đời – Dại dột ngu ngơ

 

Xa rồi cố nhân.. em A em Z

Xa rồi bằng hữu... anh X anh Y

Vẫn trong lòng ta thị thường bất diệt

Vẫn trong lòng ta thiên tải nhất thì

 

Kính chào cuộc đời – các hiền sĩ tiểu tử

Kính chào cuộc đời – các ti tiện đại nhân

Rồi cũng phải nghe hồ xang xế xự

Qua sông Nại Hà nước đục hay trong?

 

Trời cao trên đầu không che riêng ai

Đất rộng dưới chân không chở riêng ai

Hai vầng nhật nguyệt không soi sáng riêng ai

Thì có nề chi mưa nắng đường dài...

 

(2005)


 

ĐÍNH CHÍNH VỀ TỪ HẢI

 

“Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra”

(NGUYỄN DU – TRUYỆN KIỀU)

 

Và nước mắt Kiều nương từng giọt nhỏ

Thấm vào tim Từ bỗng khẽ lay mình

Dần dần tỉnh, bốn phương nhìn bỡ ngỡ

Rồi ngoan hiền đứng dậy giữa quân binh

 

Bàn tay thép phủi qua lần giáp mão

Từ cúi đầu đi dưới bóng cờ bay

Giờ thực sự là hàng thần lơ láo

Bữa cơm mong lặng lẽ nuốt qua ngày

 

Từ ngồi đó trơ trơ bày tượng gỗ

Đâu tượng đồng trên bến nước chiều xưa?

Ngắm một chút mây trôi ngoài cửa sổ

Trông vuông trời xanh gẫm nắng cùng mưa

 

Hồ Tôn Hiến, vị trọng thần thao lược

Đỉnh mũ cao thờ chúa trải bao triều

Đai ngọc nặng tay áo dài tha thướt

Răng khít hàm môi mím giọng thân yêu

 

Ngày hai buổi gần lưng không đối mặt

Chẳng thương nhau chéo áo cũng lơ là

Vui nào được, buồn phiền e quá ngặt

Xa gươm đàn nên bạc tóc vàng da

 

Lời Tổng đốc bên tai hoài nhắc nhở

Y cẩm đôn mà riêng cách đứng ngồi

Hãy biết phận khéo liệu điều ăn ở

Đừng tưởng lầm còn được tiếng xưng tôi

 

Vâng, một tiếng xưng tôi Từ đã gởi

Theo Kiều nương trôi giạt vết rong bèo

Hồn cây cỏ mỗi khuya ùn gió nổi

Chợt giật mình nghe ngựa hí quân reo

 

(Tưởng niệm thi hào NGUYỄN DU 1766-1820)


TRẦN HUIỀN ÂN