THÁNG CHẠP
Tháng chạp đầy
sân hoa cúc nở
Như vườn Lão
Phố trải vàng tươi
Bâng khuâng
nghe chút gì thương nhớ
Ký ức long lanh
những nụ cười
Tháng chạp mưa
bay mờ dáng núi
Cánh cò bé bỏng
giữa đồng xanh
Đường quê áo
vải hoen màu bụi
Ai hát nghêu
ngao khúc độc hành
Tháng chạp
phương đông trời đổi gió
Hong bàn tay
nhỏ giữa bao la
Mênh mang thế
sự tình trăm họ
Gạn lấy cho
nhau chút đậm đà
Tháng chạp hồn
nhiên như cỏ dại
Trăng sao. Nắng
sớm với sương chiều
Người xưa chợt
thoáng quay nhìn lại
Đủ ấm lòng ta
bóng tịch liêu...
(1999)
SÔNG XƯA
Ta trở lại dòng sông xưa Đà Lãng
Hai triền xanh xanh bờ cát chiêm bao
Chiếc bè tre chập chờn trên nắng
sáng
Nước trong ngần thác trắng gọi mây
cao
Bao ký ức thời thanh xuân thức dậy
Tóc người bay rợp mát buổi trưa vàng
Con sóc nhỏ nép bên hồn lau sậy
Sợ nhún mình sẽ động bước sang
ngang!
Thật bất chợt người cất lên tiếng
hát
Trời chao nghiêng đồi núi cũng chao
nghiêng
Hoa ngưng nở trái rừng ngưng ngậm
hạt
Lũ chim cùng ngưng vỗ cánh ngàn
thiêng
Nhớ buổi ấy lòng ta đầy mộng ảo
Nữa mai sau người áo đỏ khăn vành
Lối cỏ dại là con đường phương thảo
Nhịp cầu tre là nét vẽ đan thanh…
Rồi khôn lớn, rồi vào đời nhập cuộc
Người say mê tầng cao rộng trời mây
Đâu tiếng hát lọc qua màu sông nước
Đâu nụ cười thơm xỏa tóc trầm bay?
Ta cũng vậy, xa làng quê bé nhỏ
Có gì vui chăng, khói bụi phố
phường?
Đời chật chội chen đèn xanh đèn đỏ
Vầng trăng không lơ lửng giấc khuya
sương!
Và mỗi độ tin xuân chừng thấp thoáng
Ta trở về với Đà Lãng sông xưa
Hong trẻ lại thời thanh xuân dĩ vãng
Tóc người bay vàng nắng rắc tơ mưa…
(2011)
QUA BẾN TANG CÀN
Em cứ tưởng như thuở nào trở lại
Dòng sông sâu mờ khuất lũy tre làng
Con thuyền nhỏ bên kia bờ dầu dãi
Người xưa đâu? Ai hát Độ Tang Càn *
Độ
Tang Càn… Độ Tang Càn…
Giọng nười nổi trôi trên cánh gió
Ào ào nước cuốn dưới cầu
Trúc đào se se lòng môi đỏ
Mười lăm năm bây giờ gặp nhau
Mười lăm năm tha phương lưu lạc
Tang Càn thác trắng mây cao
Em đứng lặng giữa bãi cồn ngơ ngác
Lối về nhà cũ hướng nào?
Em hỏi lá cành, lá cành xào xạc
Em hỏi con chim, con chim vù bay
Chợt nghe mơ hồ trong gió thoảng
Hồi chuông chánh ngọ vơi đầy…
Xanh xanh một màu xa thẳm
Chân trời chiều bụi xóa nhòa
Độ
Tang Càn… Độ Tang Càn…
Có phải cây rừng thương đời phiêu
lãng
Tiết xuân dồn nở bốn mùa hoa?
(2011)
(*) Độ Tang Càn: Một bài thơ tứ tuyệt của Giả Đảo (khoảng
793-865) đời Trung Đường, tâm sự một người tha hương khi đi qua sông Tang Càn
về cố quận.
THƠ
VIẾT BUỔI CHIỀU THU PHÂN
Chiều nay vợ đi
vắng con đi vắng
Thu phân lất
phất mưa buồn
Một ve củ tỏi
một chén hột mít
Một mình ta
ngồi nhắm sương sương
Tuổi tác bộn
rồi đô xuống dốc
Sương sương
không biết xỉn hồi nào
Ta thấy hai bên
hai vầng nhật nguyệt
Dưới chân đất
rộng trên đầu trời cao
Nhịp đôi guốc
cùn nghêu ngao ta hát
Bài ca người
thủy thủ trên đảo hoang
Ôi gió biển mặn
gan mát phổi
Chung quanh ta
đầy châu báu bạc vàng
Trắc trắc bằng
bằng sắp hàng chữ nghĩa
Này niêm này
đối này vần
Bẻ đôi luật
Đường chẻ tư lục bát
Hỏi rằng giá
trị mấy đồng cân?
Ta không phải
là nhà văn nhà vẻ
Ta không phải
là nhà thẩn nhà thơ
Gạt phăng trắc
bằng ta làm thi sĩ
Ngốc nghếch
giữa đời – Dại dột ngu ngơ
Xa rồi cố
nhân.. em A em Z
Xa rồi bằng
hữu... anh X anh Y
Vẫn trong lòng
ta thị thường bất diệt
Vẫn trong lòng
ta thiên tải nhất thì
Kính chào cuộc
đời – các hiền sĩ tiểu tử
Kính chào cuộc
đời – các ti tiện đại nhân
Rồi cũng phải
nghe hồ xang xế xự
Qua sông Nại Hà
nước đục hay trong?
Trời cao trên
đầu không che riêng ai
Đất rộng dưới
chân không chở riêng ai
Hai vầng nhật
nguyệt không soi sáng riêng ai
Thì có nề chi
mưa nắng đường dài...
(2005)
ĐÍNH CHÍNH VỀ TỪ HẢI
“Nàng
vừa phục xuống Từ liền ngã ra”
(NGUYỄN DU – TRUYỆN KIỀU)
Và nước mắt Kiều nương từng giọt nhỏ
Thấm vào tim Từ bỗng khẽ lay mình
Dần dần tỉnh, bốn phương nhìn bỡ ngỡ
Rồi ngoan hiền đứng dậy giữa quân
binh
Bàn tay thép phủi qua lần giáp mão
Từ cúi đầu đi dưới bóng cờ bay
Giờ thực sự là hàng thần lơ láo
Bữa cơm mong lặng lẽ nuốt qua ngày
Từ ngồi đó trơ trơ bày tượng gỗ
Đâu tượng đồng trên bến nước chiều
xưa?
Ngắm một chút mây trôi ngoài cửa sổ
Trông vuông trời xanh gẫm nắng cùng
mưa
Hồ Tôn Hiến, vị trọng thần thao lược
Đỉnh mũ cao thờ chúa trải bao triều
Đai ngọc nặng tay áo dài tha thướt
Răng khít hàm môi mím giọng thân yêu
Ngày hai buổi gần lưng không đối mặt
Chẳng thương nhau chéo áo cũng lơ là
Vui nào được, buồn phiền e quá ngặt
Xa gươm đàn nên bạc tóc vàng da
Lời Tổng đốc bên tai hoài nhắc nhở
Y cẩm đôn mà riêng cách đứng ngồi
Hãy biết phận khéo liệu điều ăn ở
Đừng tưởng lầm còn được tiếng xưng
tôi
Vâng, một tiếng xưng tôi Từ đã gởi
Theo Kiều nương trôi giạt vết rong
bèo
Hồn cây cỏ mỗi khuya ùn gió nổi
Chợt giật mình nghe ngựa hí quân reo
(Tưởng
niệm thi hào NGUYỄN DU 1766-1820)
TRẦN HUIỀN ÂN