Tên thật là Émile Salomon
Wilhelm Herzog, lấy bút danh André Maurois khi viết tác phẩm đầu
tiên: " Sự im lặng của đại tá Bramble "( Les Silences du colonel Bramble ) năm
1918. Bút danh này trở thành tên chính thức của ông kể từ năm 1947 bằng một nghị
định của Tổng thống Pháp. Ông được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp ( Académie française ) năm
1938.
André Maurois
để
lại hơn 100 tác phẩm thuộc đủ mọi thể loại: Nhiều tiểu thuyết tâm lý ( Bernard Quesnay, Climats – có
người dịch là Tâm cảnh
-, Terre promise – Đất hứa – Les
Roses de septembre – Những đóa hồng tháng chín -) có cuốn gần với truyện vừa
và truyện ngắn, có khi có hơi hướng truyện giả tưởng ( Le peseur d’âmes – Người cân linh hồn -, La machine à lire les pensées – Máy đọc tư tưởng - .
Có những tác phẩm nghiên cứu, khảo luận ( Un art de vivre – Một nghệ thuật sống -, Sept visages de l’amour – Bảy khuôn mặt tình yêu –
Au commencement était
l’action – Khởi đầu là hành động…) Ông
còn là nhà viết sử với các
cuốn Histoire de l’Angleterre ( Lịch sử nước Anh ), Histoire des Etats-Unis ( Lịch
sử Hoa Kỳ ), Histoire de France
( Lịch sử nước Pháp ). Ông nổi tiếng nhất với một
loạt tác phẩm viết tiểu
sử các văn nghệ sĩ (
Shelley, Byron, Victor Hugo, George Sand, Balzac, Tourgueniev, Voltaire,
Chateaubriand, Marcel Proust ), các chính trị gia (
Disraeli, Lyautey ), và cả nhà khoa học ( Alexandre Flemming )…
Độc giả Việt Nam đã biết đến Ông với bản dịch ( của Nguyễn Hiến Lê ) các tác phẩm “Thư
gởi người đàn bà không quen biết” ( Lettre à une inconnue ) và nhất là “Thư ngỏ gửi
tuổi đôi mươi” ( Lettre ouverte à un jeune homme sur la conduite de la vie ), là tác
phẩm Ông viết ở tuổi 80, trong đó ông giải đáp mọi thắc mắc của thanh niên về nhiều
vấn đề: quan niệm sống, tu dưỡng, hôn nhân, việc làm, viết văn, tiêu khiển, tình
yêu, tín ngưỡng…
Ông cũng chính là người đã dịch bài thơ IF nổi tiếng của
Rudyard Kipling ra tiếng Pháp với
nhan đề Tu seras un homme, mon
fils.
Truyện ngắn của André Maurois là một bộ phận có vị trí quan
trọng trong sự nghiệp sáng tác của Ông. Đó là những tác phẩm văn chương có giá trị,
mang đầy đủ, trọn vẹn tính đa dạng và phong cách, khuynh hướng của nhà văn. André
Maurois thường đơn giản hoá những vấn đề éo le, phức tạp, được kể với giọng văn
giản dị, tự nhiên. Kiểu kết thúc câu truyện cũng rất độc đáo với một tình huống
bất ngờ, thường trái với sự chờ đợi của người đọc.
Một số truyện nổi tiếng của Ông là Người tù trở về ( Le
retour du prisonnier ), Hoa violet ngày thứ tư ( Les violettes du mercredi ) rất
được tán thưởng.
Bonnivet hơn tôi khoảng năm, sáu tuổi gì đó, Maufras nói,
nhưng con đường sự nghiệp của ông ta chói lọi và nhanh chóng đến nỗi lúc nào
tôi cũng xem ông như ông chủ hơn là bạn.
Tôi chịu ơn ông nhiều lắm. Chính ông đã gọi tôi đến làm việc tại văn phòng của
ông lúc ông lên làm bộ trưởng Bộ Công chánh, rồi, khi bộ này giải thể, cũng chính ông ta đã khéo léo “xếp “ tôi vào
Toà Thị chính.
Khi trở lại chính quyền, ông nắm Bộ Thuộc Địa, lúc này tôi đang có một nhiệm sở dễ chịu ở Paris nên xin ông cứ để tôi yên ở lại đó.
Quan hệ giữa hai chúng tôi vẫn thân thiết và hai gia đình vẫn thường mời nhau đến
nhà ăn cơm.Bà Nelly Bonnivet là một phụ nữ trạc tứ tuần, còn xinh đẹp, được chồng
cưng chiều, tỏ ra là một phu nhân bộ trưởng hoàn hảo. Còn tôi cũng đã lập gia
đình mười năm rồi và sống hạnh phúc với Madeleine.
Vào đầu tháng sáu, vợ chồng Bonnivet mời chúng tôi ăn tối
tại một nhà hàng trong “ Rừng “ (2). Chúng tôi có sáu người, buổi tối thật vui
vẻ, đến nửa đêm vẫn chưa muốn chia tay. Bonnivet, người đã lâng lâng, ngỏ ý muốn
đi Hội chợ Neuilly. Khi còn nắm quyền, ông thích đóng vai quốc trưởng Haroun-
al - Raschid (3) để được nghe mọi người trầm trồ khi ông ấy đi qua : “ Kìa,
ngài Bonnivet đấy! “
Ba cặp vợ chồng đã quá xuân cố tìm mà không ra cái
hương vị trẻ trung trong những trò chơi con trẻ, thật ra chẳng vui vẻ gì. Chúng
tôi chơi nhiều trò xổ số và trúng giải những chiếc bánh, những con thuyền bằng
thuỷ tinh và những con vật nặn từ bột mì. Ba người đàn ông đã bắn trúng những
con tàu quay, những vỏ trứng trôi lờ đờ trên mặt nước. Sau đó chúng tôi đi tới
chỗ chiếc tàu hoả chạy vòng tròn, có lúc lộ ra ngoài trời, có lúc chui vào
trong tấm bạt như chui vào đường hầm. Nelly Bonnivet đề nghị lên tàu chơi. Madeleine
có vẻ như thấy trò chơi chẳng hào hứng gì và những chiếc đệm ghế không mấy sạch
sẽ, nhưng không muốn mọi người mất vui, thế là chúng tôi đến mua vé. Trong lúc
chen chúc để lên tàu, nhóm chúng tôi bị cắt làm hai. Chỉ có mình tôi cùng toa với
Nelly Bonnivet.
Chiếc tàu nhỏ quay rất nhanh và vòng quay thiết kế làm
sao mà hành khách trên toa cứ ngã nhào vào nhau. Ngay khúc cua đầu tiên, bà
Bonnivet đã suýt ngã vào lòng tôi. Đúng vào lúc này, tấm bạt đã dìm chúng tôi
vào bóng tối và tôi hoàn toàn không thể giải thích với anh chuyện gì đã xảy ra
trong vài giây sau đó. Đôi khi người ta có những hành động mà ý thức không kiểm
soát được. Tôi chỉ có thể nói được rằng Nelly gần như nằm dài trên đùi tôi và
tôi đã vuốt ve bà ấy như một anh lính mới hai mươi vuốt ve cô gái mà anh đã dẫn
đi hội chợ. Vẫn không ý thức được mình đang làm gì, tôi tìm đôi môi bà ấy, và
không bị cưỡng lại, hai đôi môi gặp nhau, nhằm lúc con tàu chui ra vùng ánh
sáng. Như có sự thoả hiệp, chúng tôi vội buông nhau ra ngay và nhìn nhau, choáng
váng, sững sờ.
Tôi còn nhớ là lúc đó tôi đã cố tìm hiểu xem khuôn mặt
bà Nelly Bonnivet biểu lộ điều gì. Bà vuốt lại mái tóc, chăm chú nhìn tôi không
nói gì. Cái giây phút ngượng ngùng đó trôi qua nhanh thôi. Tàu dừng lại, chúng
tôi gặp lại trên sân Bonnivet, Madeleine, và hai người cùng đi kia.
-
Trò chơi này quá trẻ con đối với chúng ta,
Bonnivet mệt mỏi nói, thôi đã đến giờ chúng ta về đi ngủ.
Madeleine tán thành và chúng tôi quay lại Cửa Maillot
(4) và từ biệt nhau. Khi hôn tay bà Nelly, tôi nhìn vào mắt bà, bà vẫn nói cười
vui vẻ với Madeleine, không để lộ một dấu hiệu nào.
Tôi không thể nào ngủ được. Sự việc bất ngờ xảy đến làm
xáo động cuộc sống bình lặng lâu nay của tôi. Tôi chưa bao giờ là kẻ hay theo
đuổi phụ nữ, từ khi lấy vợ lại càng không. Tôi rất mực yêu thương Madeleine và
chúng tôi hoàn toàn tin tưởng nhau. Còn đối với Bonnivet thì tôi vẫn yêu quý và
biết ơn. Vậy mà ma quỷ xui khiến sao mà tôi cứ nôn nóng muốn gặp lại Nelly, muốn
biết cái nhìn của bà ấy khi chúng tôi rời nhau có ý nghĩa gì. Sửng sốt? Hận
thù? Anh biết đấy, con người dù khiêm tốn nhất cũng giấu trong lòng đôi chút
kiêu ngạo. Tôi tưởng tượng một ham muốn kín đáo bỗng trỗi dậy trong giờ khắc ngẫu
nhiên. Nằm trên giường sát cạnh giường tôi, Madeleine vẫn thở đều một cách nhẹ nhõm.
Sáng hôm sau, tôi bận nhiều việc, không có thì giờ nghĩ
đến câu chuyện kia nữa. Hôm sau nữa, có ai gọi tôi qua điện thoại. Bộ Thuộc địa
gọi ông đấy. Ông giữ máy, Ngài bộ trưởng muốn nói chuyện với ông.
Tôi chợt thấy ớn lạnh. Chưa bao giờ Bonnivet đích thân gọi điện thoại. Mời mọc hay trả lời
gì cũng thông qua hai bà vợ của chúng tôi. Chỉ có thể là chuyện ngu ngốc hôm
trước thôi.
“Allô, giọng Bonnivet đột ngột vang lên. À, anh đó hả,
Maufras? Anh có thể đến văn phòng tôi được không? Vâng, cần lắm. Tôi sẽ trực tiếp
giải thích với anh sau. Vậy nhé, đến ngay nhé. Cám ơn.”
Tôi gác máy. Vậy là Nelly thuộc hạng đàn bà đáng ghê tởm
đi cám dỗ đàn ông (vâng tôi thề là đêm hôm ấy bà đã cố tình ngã vào lòng tôi)
rồi sau đó lại than thở với chồng: “Anh à, anh tin tưởng Bernard là nhầm rồi.
Hắn không phải là bạn như anh nghĩ đâu..”Thật là loại đàn bà đáng ghét!
Trong khi đang tìm kiếm tắc xi để đi tới chỗ Bonnivet,
tôi tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Đấu súng chăng? Tôi cũng muốn như vậy,
ít ra đây cũng là một giải pháp đơn giản, tuy nhiên từ khi chiến tranh kết
thúc, không ai đánh nhau kiểu này nữa. Không, chắc hẳn Bonnivet sẽ mắng tôi
không tiếc lời và tuyên bố mọi quan hên giữa chúng tôi coi như hết rồi. Thế là
kết thúc một tình bạn cao quý, sự nghiệp của tôi cũng đi đời vì Bonnivet là người
có quyền lực. Ai cũng nói ông ta sắp lên làm Thủ tướng. Và tôi sẽ giải thích với
Madeleine thế nào đây về sự đoạn giao khó hiểu này.
Những ý nghĩ đó, và nhiều ý nghĩ khác bi thảm hơn cứ đè
nén tôi trên đường đi tới văn phòng bộ trưởng. Có khi tôi chợt hiểu rằng tự sát
là lối thoát cho tất cả những ai rơi vào tình huống quá khó khăn cho lòng dũng
cảm của họ.
Tôi phải chờ lâu ở phòng đợi đầy người đến cầu cạnh và
những người phụ trách đón khách. Tim tôi đập lúc nhanh lúc chậm. Tôi ngắm nhìn
bức tranh có cảnh những người Việt Nam vào mùa thu hoạch. Cuối cùng, tôi nghe gọi
tên và tôi đứng lên. Cửa phòng Bonnivet mở ra ngay trước mặt tôi. Liệu có nên để
ông ta nói trước? Hay ngược lại, chính mình tính trước bằng cách tự thú hết mọi
tội lỗi?
Chính ông ta đã đứng lên và bắt tay tôi. Tôi rất ngạc
nhiên về sự đón tiếp ân cần này. Hay là ông ta quá thông minh để hiểu rằng sự
việc là do ngẫu nhiên và vô tình thôi.
- Trước hết, ông ấy nói, tôi xin lỗi vì đã
gọi anh vội vã như vậy, nhưng anh biết là mọi việc cần được quyết định ngay.
Chuyện là thế này. Anh biết đấy, Nelly và tôi sẽ phải đi sang Tây Phi vào tháng
tới. Với tôi đây là chuyến đi làm việc, còn với Nelly thì đi là để du lịch và
khám phá. Tôi quyết định là mang theo ngoài các nhân viên của Bộ còn có vài nhà
báo bởi vì là người Pháp họ phải biết đến lãnh thổ nước mình nữa chứ. Cho đến
nay, tôi vẫn chưa nghĩ đến việc nói với anh về chuyện này vì anh không phải là
viên chức của Bộ, cũng không phải là nhà báo, vả lại anh còn công việc của anh
nữa chứ. Thế nhưng tối hôm qua Nelly đã nói với tôi là chuyến đi này gần như là
trùng với thời gian nghỉ hè của anh. Anh và chị nhà sẽ là những người đồng hành
thân thiết và dễ chịu hơn đoàn tuỳ tùng của tôi, và có thể chuyến đi thăm Châu
Phi trong hoàn cảnh hiếm hoi này có thể khiến anh thích thú chăng. Bởi vậy, nếu
anh đồng ý, gia đình anh sẽ cùng đi với vợ chồng tôi. Có điều là tôi cần biết
quyết định của anh ngay để văn phòng kịp lập danh sách và chương trình.
Tôi cám ơn ông và xin ông vài giờ để bàn với vợ. Đầu
tiên tôi cũng thấy thích thú. Nhưng khi còn lại một mình, tôi hình dung hết mọi
phiền toái và tệ hại. Một âm mưu tình ái trước đôi mắt đầy cảnh giác của
Madeleine trong thời gian tôi là khách của Bonnivet. Đành rằng, Nelly đẹp nhưng
tôi đã phán xét bà ta một cách nghiêm khắc. Trong bữa ăn trưa, tôi đã thuật lại
lời mời và tất nhiên không nói rõ vì đâu mà có lời mời đó và cùng với cô ấy tìm
cách từ chối sao cho khỏi bất lịch sự. Cô ấy chẳng khó khăn gì mà không tưởng
tượng ra những lời hẹn từ trước và vì thế chúng tôi không đi châu Phi được.
Tôi biết là từ đó, Nelly Bonnivet nhắc đến tới không những
có ý giễu cợt mà còn cả thù hận. Ông bạn tôi là Lambert Leclerc có lần trước mặt
bà nhắc đến tên tôi như là một ứng viên cho chức Quận trưởng Quận Seine. Bà ấy
bĩu môi: Maufras ấy à. Ông nghĩ gì vậy ? Anh ta dễ thương đấy nhưng không có
chút nghị lực. Đó là một con người không biết mình muốn gì.
Bonnivet trả lời: “Nelly nói đúng đấy.” và tôi đã
không được bổ nhiệm.
___________________________
(1) Neuilly:
tức Neuilly-sur-Seine, ngoại ô của thủ đô Paris, gần Rừng Boulogne ( Bois de Boulogne ), công viên lớn ở
Paris, nơi người dân ưa tới dạo chơi. Mùa hè ở Neuilly thường tổ chức Hội chợ rất
lớn.
(2) Rừng,
tức là Bois de Boulogne.
(3) Haroun-al-Raschid,
vua của Vương quốc Bagdad ( Irak ngày nay ), thường vi hành để lắng nghe dư luận
nhân dân.
(4) Cửa
Maillot, Porte de Maillot, cửa đi vào Rừng Boulogne.
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
Tháng 9/2020
từ nguyên bản tiếng Pháp
La foire de Neuilly.