Không
có nhiều tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của Félix Arvers
(1806 – 1850). Sách văn học sử Pháp ( Collection littéraire
LAGARDE & MICHARD , XIXe siècle ) không hề nhắc đến Ông. Từ điển
Hachette giới thiệu rất nhiều nhà văn, nhà thơ thuộc nhiều thời đại cũng không
ghi tên Ông. Larousse thì chỉ nói vắn tắt : “ Thi sĩ Pháp, nổi tiếng với
bài Sonnet bắt đầu bằng câu : Mon âme a son secret, ma vie a son mystère”. Một
tư liệu khác có vẻ cụ thể hơn cũng chỉ ghi vẻn
vẹn đôi dòng ngắn ngủi :
“Félix
Arvers là tác giả nhiều vở kịch khá thành công. Tác phẩm của Ông đã
bị lãng quên, ngoại trừ tập thơ Mes heures perdues ( Những
giờ khắc hoài phí ).”
(
Félix Arvers fut l’auteur d’un grand nombre de pièces de théâtre qui connurent
un grand succès. Son œuvre fut oubliée à l’exception de son recueil de poèmes “
Mes heures perdues.”)
Tập
thơ Mes heures perdues xuất bản năm 1833, thời điểm mà tên
tuổi các nhà thơ thuộc trường phái lãng mạn Pháp đã rực
sáng, từ Lamartine với Méditationspoétiques (
1820 ), Victor Hugo với Les Odes ( 1822 ), Les
Orientales ( 1829 ), Lesfeuilles d’automne ( 1831
), Alfred de Vigny với Poèmes antiques et modernes (
1826 – 1835 ), cho đến Alfred de Musset với Premières poésies (
1835 ) …
Không
rõ tập thơ dày mỏng thế nào, chỉ thấy còn lưu truyền một vài bài,
trong đó một số bài viết tặng bằng hữu, hoặc có ghi tên ( À Alfred Tattet
, À Alfred de Musset ), hoặc viết tắt hay giấu tên ( À mon ami *** , Sonnet à
mon ami R. ), để bày tỏ quan điểm về nghệ thuật,
về thi ca...
Và
tất nhiên hơi thở của dòng thơ trữ tình, bi thương của thời đại
phả đầy trong thơ Arvers. Ông không ngần ngại nói rõ khát vọng kiếm tìm
hạnh phúc của mình, dù đấy chỉ là thứ hạnh phúc bình dị của “
chút tình tri kỷ ” :
J'abandonnais
l'amour à la jeunesse ardente
Je
voulais une amie, une âme confidente,
Òu
cacher mes chagrins, qu'elle seule aurait lus ;
Le
ciel m'a donné plus que je n'osais prétendre ;
L’amitié,
par le temps, a pris un nom plus tendre,
Et
l'amour arriva qu'on ne l'attendait plus.
(
Sonnet à mon ami R. )
Thuở thanh
xuân tôi từ bỏ tình yêu
Chỉ mong
tìm mối tri âm đồng cảm
Người
thấu hiểu nỗi lòng tôi sầu muộn
Trời
đã cho tôi nhiều hơn tôi muốn
Với
thời gian tình bạn ngọt ngào hơn
Và
tình yêu đến khi không còn chờ đợi.
hoặc
là thứ hạnh phúc gia đình với vợ đẹp, con ngoan, với bạn bè, láng
giềng thân thuộc để sớm hôm hàn huyên tâm sự :
J'avais
toujours rêvé le bonheur en ménage,
Comme
un port òu le cœur, trop longtemps agité,
Vient
trouver, à la fin d'un long pèlerinage,
Un
dernier jour de calme et de sérénité.
(
Sonnet à mon ami R. )
Tôi
hằng mơ hạnh phúc một mái ấm
Cho
con tim xao động cõi đi về
Tìm
bến đỗ giữa thanh bình, an lạc.
Thế nhưng
hạnh phúc đâu dễ tìm vì tình yêu đâu dễ gặp. Trước sau vẫn
chỉ là “ người tình trong mơ ” bởi người chợt đến, chợt đi, không ước hẹn,
ta trở về, thui thủi một mình ta.
…
Rien n'a signalé sa venue,
Elle
est passée , humble, inconnue,
Sans
laisser trace de ses pas.
Depuis
lors, triste et monotone,
Chaque
jour commence et finit :
Rien
ne m’émeut, rien ne m’étonne,
Comme
un dernier rayon d'automne
J'aperçois
mon front qui jaunit.
Et
loin de tous, quand le mystère
De
l'avenir s'est refermé,
Je
fuis, exilé volontaire !
-
Il n'est qu'un bonheur sur la terre,
Celui
d'aimer et d’être aimé.
(
À mon ami *** ).
Nàng
đến, không gì báo hiệu
Nàng
đi, lặng lẽ, khiêm nhường,
Chẳng
dấu vết gì để lại
Bước
chân hờ hững trên đường.
Từ đấy,
u sầu, lặng lẽ,
Tháng
ngày chợt đến, chợt đi,
Không
còn ngạc nhiên, cảm xúc,
Thấy
vầng trán mình âm u
Tựa
như tia nắng vàng thu.
Và
khi không còn mong đợi
Cánh
cửa tương lai khép rồi
Như
kẻ lưu đày tự nguyện
Tôi
xa lánh hết mọi ngườ
Hạnh
phúc duy nhất ở đời
Yêu
và được yêu – thế thôi.
Những
bài thơ như thế này chưa đủ để làm nên tên tuổi của tác
giả và đều đã bị lãng quên. Trong toàn bộ tập thơ, duy nhất một
bài được biết đến và chỉ cần bài này là đủ làm cho tác giả nổi
tiếng, như cách nói của từ điển Larousse nêu trên. Độc
giả Việt Nam biết đến Arvers cũng chỉ qua bài Sonnet này ,
trước tiên thông qua bản dịch của một nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Bản dịch, với nhan đề Tình tuyệt vọng, thành công đến nỗi nhiều
người cho rằng nó còn hay hơn cả nguyên tác có tên đơn giản là SONNET,
hoặc là SONNET D’ARVERS như người ta thường gọi.
Nguyên
tác bài thơ như sau :
SONNET D ‘ARVERS
Mon
âme a son secret, ma vie a son mystère
Un
amour éternel en un moment conçu :
Le
mal est sans espoir, aussi j’ai dû le taire,
Et
celle qui l’a fait n’en a jamais rien su.
Hélas
! j’aurais passé près d’elle inaperçu,
Toujours
à ses côtés, et pourtant solitaire,
Et
j’aurais jusqu’au bout fait mon temps sur la terre,
N’osant
rien demander et n’ayant rien reçu.
Pour
elle, quoique Dieu l’ait faite douce et tendre
Elle
ira son chemin, distraite, et sans entendre
Ce
murmure d’amour élevé sur ses pas;
À
l’austère devoir, pieusement fidèle,
Elle
dira, lisant ces vers tout remplis d’elle :
“
Quelle est donc cette femme ?” et ne comprendra pas.
Sống
và sáng tác vào nửa đầu thế kỷ XIX, thời kỳ rực rỡ nhất của
trường phái lãng mạn trong nền thi ca Pháp, vốn chuộng sự tự do thoải
mái đến độ buông thả trong nội dung và hình thức, Arvers lại chọn
Sonnet, một thể thơ đòi hỏi nhiều ràng buộc về hình thức. Mỗi bài
Sonnet chỉ có 14 câu, bao gồm 2 khổ thơ bốn câu ( quatrain ) và 2
khổ thơ ba câu ( tercet ). Mỗi câu gồm 12 âm tiết ( syllabe ). Cách gieo
vần cũng phải theo quy định chặt chẽ : Nếu ở các khổ bốn
câu có thể dùng các loại vần thông dụng ( vần chéo : ABAB, hoặc vần ôm :
ABBA ) thì các khổ ba câu phải gieo vần liền 2 khổ theo kiểu CCD /
EED hoặc CCD / EDE.
Mon
âme a son secret, ma vie a son mystère.
Lòng
tôi giấu một nỗi niềm tâm sự
Đời
tôi đầy chuyện thầm kín riêng tây.
Đây
rồi cái “tôi”( le “moi” ) quen thuộc của trường phái lãng mạn, cái tôi mạnh dạn
và thẳng thắn, không ngại ngần úp mở, không rào đón quanh co, được nhấn mạnh
bởi cách dùng một loạt các tính từ sở hữu và đại từ nhân
xưng ở ngôi thứ nhất. Và ở đây cái tôi gắn liền với
khái niệm khổ đau : “Le mal est sans espoir…”, “ Hélas !”, “ solitaire…”.
Le
mal est sans espoir, aussi j’ai dû le taire
Et
celle qui l’a fait n’en a jamais rien su.
(
Nỗi đau chừng vô vọng
Đành
câm nín mà thôi
Sao
người làm tôi khổ
Vô
tình quá người ơi !)
Nỗi
đau không nói được, xin mượn ngòi bút để thổ lộ can trường, bởi,
nói như Alfred de Musset, một người bạn thơ của Arvers :
Les
plus désespérés sont les chants les plus beaux
Et
j’en sais d’immortels qui sont de purs sanglots.
Nuit
de Mai ( Đêm tháng năm )
(
Lời tuyệt vọng là lời ca đẹp nhất
Vang
vọng mãi tiếng nức nở thảm sầu ).
Điều
bi thảm hơn là nỗi đau đó chừng như đeo đẳng suốt cả cuộc đời chàng trai
si tình.
Un
amour éternel en un moment conçu.
(
Tình chớm nở vội vàng trong thoáng chốc
Mà
tưởng chừng như đã kết ngàn năm.)
Hẳn
là chàng gặp gỡ đã từ lâu. Hẳn là chàng đau khổ đã từ lâu
.Bởi nàng nào đâu hay biết gì ( elle n’en a jamais rien su) . Và hơn
thế nữa, suốt quãng đời còn lại cũng hoàn toàn vô vọng, “dù gặp nhau cúi
mặt bước mà thôi “ :
Et
j’aurai jusqu’au bout fait mon temps sur la terre
N’osant
rien demander et n’ayant rien reçu
(
Tôi vẫn đi tiếp con đường phía trước
Không
dám cầu xin, chẳng nhận được gì.)
Không
dám. Dù chỉ một lần. Phải chăng vì chàng quá nhút nhát, e thẹn ? Không,
chỉ vì Trời đã sinh ra nàng đoan trang quá, hiền hậu quá, hãy để nàng
thủy chung, hãy để nàng chu toàn bổn phận. Cho hình ảnh nàng mãi
thánh thiện. Cho Tình Yêu thăng hoa. Và trở thành bất tử. Ít nhất là với
bài thơ này.
Vâng,
chỉ vì Trời đã sinh ra nàng đoan trang quá, hiền thục quá …
Pour
elle, QUOIQUE Dieu l’ait faite douce et tendre
Elle
ira son chemin, distraite, et sans entendre
Ce
murmure d’amour élevé sur ses pas;
Thật
đáng ngạc nhiên khi nhà thơ dùng QUOIQUE ( mặc dù ) ở đây : mặc dù
nàng đoan trang và hiền thục quá , nàng sẽ không nghe thấy tiếng
thì thầm của tình yêu ? Lẽ ra phải là PUISQUE Dieu l’a
faite douce et tendre ( bởi vì ).
Vì
nàng rất mực đoan trang
Tôi
đành câm nín để nàng thủy chung !
Nhưng
nàng là ai ?
Đọc
văn thơ, nghe âm nhạc, nhiều người vẫn có thói quen tò mò muốn biết ai là
nguyên mẫu, là nguồn cảm hứng khiến người nghệ sĩ viết nên bài thơ, bản
nhạc ấy. Trường hợp này cũng thế. Từ sau khi bài thơ được
phổ biến, bao nhiêu giấy mực đã dành cho cuộc truy tìm lai lịch người đẹp
khiến thi sĩ ôm mãi mối tình tuyệt vọng mà viết nên những dòng thơ trác tuyệt
này.
Có
ý kiến cho rằng đâychỉ là một hình ảnh phúng dụ ( allégorie ),
người đẹp chẳng hề hiện hữu, hơn nữa trong các ấn bản đầu tiên của
tập thơ, trên bài này có ghi chú “ dịch từ tiếng Ý ” ( traduit de
l’italien ) nhưng vì không ai đưa ra văn bản gốc nên giả thuyết này không
đứng vững được.
Một
ý kiến khác, dựa vào quan hệ thân tình giữa Félix Arvers và Victor Hugo,
cho rằng người đẹp bí mật này chính là … phu nhân của Victor Hugo mà Arvers đã
kín đáo nhắc đến tên Adèle bằng cách dùng các vần “ fidèle ” và “d’elle” trong
khổ thơ cuối !
Ý
kiến khác nữa - có vẻ được nhiều người đồng tình - nhắc đến tên Marie
Nodier, ái nữ của nhà văn viện sĩ Viện Hàn Lâm Pháp Charles Nodier (
1780-1844 ), người thường tổ chức những buổi bình thơ văn tại thư viện
Arsenal quy tụ nhiều thi sĩ lừng danh như Victor Hugo, Lamartine, Alfred
de Vigny, Alfred de Musset… Những lần gặp gỡ thường xuyên nơi đây đã khiến
Arvers thầm yêu trộm nhớ Marie Nodier mà không hề ngỏ ý cho đến
khi nàng sang ngang vào năm 1833 và trở thành bà Marie Mennessier –
Nodier.
Nhưng
nói cho cùng, có nhất thiết phải biết rõ về người phụ nữ đó thì
người đọc mới cảm mới thích bài thơ này không ?
CÁC BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT
Trước
khi đọc lại một số bản dịch, tưởng cũng nên thử DỊCH NGHĨA bài thơ
để từ đó có thể thấy sự sáng tạo của các dịch giả :
Mon
âme a son secret, ma vie a son mystère
Un
amour éternel en un moment conçu,
Le
mal est sans espoir, aussi j’ai dû le taire,
Et
celle qui l’a fait n’en a jamais rien su.
Tâm
hồn tôi có điều thầm kín, đời tôi có sự bí mật
Một
mối tình vĩnh cửu đã nảy sinh trong thoáng chốc,
Nỗi
đau này không hy vọng, nên tôi đành không nói ra
Và
người đã gây ra nó không hề hay biết gì
Hélas
! j'aurais passé près d'elle inaperçu,
Toujours
à ses côtés, et pourtant solitaire.
Et
j'aurais jusqu'au bout fait mon temps sur la terre,
N'osant
rien demander et n'ayant rien reçu.
Than
ôi ! tôi đi qua gần nàng mà không được nàng để ý,
Lúc
nào cũng ở bên cạnh nàng mà vẫn cứ lẻ loi.
Và
tôi vẫn sẽ đi hết đời mình trên cõi thế ,
mà
không dám cầu xin gì cũng như không nhận được gì
Pour
elle, quoique Dieu l'ait faite douce et tendre,
Elle
ira son chemin, distraite et sans entendre
Ce
murmure d'amour élevé sur ses pas.
Về phần
nàng, dù Thượng đế đã ban cho tính hiền thục và dịu dàng,
Nàng
sẽ đi con đường của mình, lơ đãng và không nghe thấy
Lời
thì thầm của tình yêu vọng lên trên bước chân đi.
A
l'austère devoir, pieusement fidèle,
Elle
dira, lisant ces vers tout remplis d'elle :
«
Quelle est donc cette femme ? » et ne comprendra pas.
Vẫn thành
tâm chung thủy với nghĩa vụ khắc khổ
Khi
đọc những dòng thơ toàn nói về nàng như thế này, nàng sẽ hỏi:
"Người
phụ nữ nào đó vậy ?" và sẽ không thể hiểu ra.
Bản dịch của Khái Hưng :
Tình tuyệt vọng
Lòng
ta chôn một khối tình
Tình
trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình
tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà
người gieo thảm như hầu không hay.
Hỡi
ôi !người đó ta đây
Sao
ta thui thủi đêm ngày chiếc thân ?
Dẫu
ta đi trọn đường trần
Chuyện
riêng dễ dám một lần hé môi
Người
dù ngọc nói, hoa cười
Nhìn
ta như thể nhìn người không quen
Đường
đời lặng lẽ bước tiên
Nào
ngờ chân đạp lên trên khối tình
Một
niềm tiết liệt đoan trinh
Xem
thơ nào biết có mình ở trong
Lạnh
lùng lòng sẽ hỏi lòng,
Người
đâu tả ở mấy dòng thơ đây ?!
Khái
Hưng hẳn không phải là nhà thơ, lại càng không phải là người dịch thơ nhưng
bỗng dưng với bản dịch tài tình bài thơ của Arvers, Ông lại được biết
đến ở một lĩnh vực khác với sự nghiệp tiểu thuyết của mình.
Thật
ra bài thơ dịch này ban đầu không xuất hiện riêng lẻ mà nằm trong truyện
ngắn TÌNH TUYỆT VỌNG của Khái Hưng. Trong truyện này người đau khổ vì yêu
là thi sĩ Văn Châu, một lần đi làm phù rể cho bạn, chàng bỗng đem lòng yêu
… vợ bạn ! “ Chàng không hiểu vì cớ gì, nhưng mới thoạt trông
thấy cô dâu là chàng đã đem lòng yêu ngay, cái yêu vô nghĩa lý, nhưng nó mạnh
mẽ vô chừng, tưởng như hai người vốn sẵn duyên kiếp từ đời nào, đã
hẹn hò cùng nhau ở kiếp nào mà đến bây giờ mới gặp gỡ.” Sau
ngày cưới đó, ngày ngày Văn Châu vẫn đến chơi nhà bạn, “ trong lòng
chôn một mối tình vô lý”. Năm năm sau, nhân một buổi tiệc đêm Noel
cùng với vợ chồng người bạn và hai người khác nữa, thi sĩ mới có cơ hội
thú nhận “ tôi phạm một tội nặng lắm “ mà bạn chàng hiểu ngay
là tội khả ái, là ái tình tuyệt vọng ! Được bạn thông cảm
an ủi “vậy thì anh cứ yêu, cứ yêu như anh đương yêu. Yêu như
thế không có tội gì hết, mà người chồng dẫu có biết cũng chỉ thương
anh chớ không ngờ vực anh đâu”, thi sĩ Văn Châu mới đọc
cho các anh các chị nghe bài đoản thi tôi dịch của Arvers ra quốc văn.
(
Nguồn : dactrung.com )
Tên
của truyện ngắn trở thành tên bài thơ. Tình tuyệt vọng – Cái nhan
đề này do Khái Hưng tự đặt, một sáng tạo đầu tiên của người dịch,
thứ sáng tạo được phép của người làm công việc chuyển ngữ một tác
phẩm văn học, lại là một sáng tạo cần thiết trong trường hợp này bởi nguyên tác
thường chỉ ghi là Sonnet d’Arvers.Có thể đây là một bài thơ thuộc
loại “ Không đề “ và nhan đề do người sau gán cho tác phẩm
chứ không phải của tác giả.( Sonnet là một thể loại thơ luật của
Pháp, Arvers là tên tác giả). Bài thơ được trích từ tuyển tập “Mes heures
perdues” ( Những giờ khắc hoài phí ), trong đó nhiều bài cũng
được viết theo thể loại Sonnet và tất cả đều có tên. Sonnet à mon ami
R… ( Đoản thi gửi bạn R… ) chẳng hạn.
Tình
tuyệt vọng _ Khái Hưng đã hiểu, đã cảm, đã chia sẻ hết cả tình
cả ý cả tâm trạng cả nỗi niềm của tác giả nên mới đặt thêm
cái nhan đề này. Và những người dịch khác, sau Ông, ( Lãng Nhân Phùng Tất
Đắc, Trần Mai Châu…), hẳn muốn làm khác đi nhưng cũng phải
viết lại như thế thôi.
Dịch
thơ Sonnet Pháp, Khái Hưng đã chọn thể thơ lục bát thuần Việt, bám sát
nguyên tác từng khổ thơ một, chỉ phát triển hai khổ ba câu cuối
thành tám câu, cho trọn bốn cặp sáu tám. Bám sát nguyên tác nhưng không
hề gò ép, khiên cưỡng, vụng về theo kiểu dịch “mot à mot”, ngược lại
rất nhiều câu dịch đúng và đủ ý mà không có vết tích của sự chuyển
ngữ :
Dẫu
ta đi trọn đường trần
Chuyện
riêng dễ dám một lần hé môi.
(
Et j’aurai jusqu’au bout fait mon temps sur la terre
N’osant
rien demander et n’ayant rien reçu. )
Đường
đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu
chân đạp lên trên khối tình.
(
Elle ira son chemin, distraite, et sans entendre
Ce
murmure d’amour élevé sur ses pas.)
Trong
toàn bài, cái không khí u uẩn, ngậm ngùi, sầu thảm được tô đậm bởi cách dùng
từ rất “đắt”
- Lòng
ta chôn một khối tình
- Mà
người gieo thảm như hầu không hay
- Sao
ta thui thủi đêm ngày chiếc thân
- Một
niềm tiết liệt đoan trinh
……
Nhịp
điệu đều đặn của thể thơ ( 2- 2- 2 … ) đột ngột bị phá
vỡ ở câu thứ ba ( 3- 3 ) như một nốt nhạc trầm chùng xuống
trong cảm xúc của người đọc, rồi trở lại cho đến cuối bài.
Lòng
ta chôn một khối tình
Tình
trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình
tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà
người gieo thảm như hầu không hay.
Biện
pháp vừa điệp âm vừa điệp ngữ ở hai câu thơ cuối khép lại bài
thơ đưa người đọc vào một nỗi bâng khuâng thương xót :
Lạnh
lùng lòng sẽ hỏi lòng
Người
đâu tả ở mấy dòng thơ đây ?!
Có
thể nói nếu không ghi chú “ nguyên tác tiếng Pháp…. “, nhiều
người không nghĩ đây là thơ dịch, nhất là khi đọc những câu :
Người
dù ngọc nói hoa cười
Hay:
Một
niềm tiết liệt đoan trinh
“Tình
tuyệt vọng” của Khái Hưng vẫn xứng đáng được nhiều yêu thích và thuộc nằm lòng
từ lúc được công bố đến nay.
Sau
Khái Hưng, một số tác giả khác cũng đã dịch cùng bài này.
Bản dịch của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc :
Tình tuyệt vọng
Nỗi
lòng kín chẳng ai hay
Mối
duyên ấp ủ từ ngày gặp nhau
Gặp
nhau một khắc tưởng đâu
Khối
tình như đã kết sâu ngàn đời!
Nghiệp
nầy khôn thoát được rồi:
Một
mình mình biết, ngỏ lời cùng ai?
Mà
ai cũng chẳng đoái hoài,
Vì
ai, ai thấu nỗi ai đau lòng!
Tưởng
rằng gần gụi chốc mòng
Vẫn
trong gang tấc , mà lòng cô liêu …
Không
xin cũng chẳng được chiều
Chiếc
thân lặng lẽ rõi theo đường đời…
Nàng
thì hiền dịu tính trời
Thờ ơ
đâu nghĩ đến lời yêu đương !
Đi
về, giữ mực đoan trang,
Vô
tình gieo lụy trên đường ái ân.
Thơ
nầy riêng tặng giai nhân,
Mà
giai nhân lại mười phân hững hờ.
Hỏi
rằng :”Người đẹp trong thơ
Là
ai thế nhỉ?” đâu ngờ là ai…
Đây
cũng là một bản dịch hay. Và vẫn là thể thơ lục bát.
“
Vẽ chi
vần
điệu cao sang
một
câu lục bát
đủ
nàng
ngẩn ngơ “
(
Trần Thương Bá - Vô ngôn kinh )
Để dịch
đủ ý, Lãng Nhân phải kéo dài đến 20 câu. Khổ bốn câu đầu tiên phải
chuyển thành tám câu thơ dịch. Người đọc có thể thấy thú vị khi thấy
dịch giả tận dụng phép chơi chữ với đại từ phiếm chỉ “ai”,
rất phong phú và sâu sắc trong tiếng Việt :
…
Một mình mình biết, ngỏ lời cùng ai ?
Mà
ai cũng chẳng đoái hoài
Vì
ai, ai thấu nỗi ai đau lòng !
…
Hỏi rằng : “ Người đẹp trong thơ
Là
ai thế nhỉ ?” đâu ngờ là ai…
Bản dịch của Trần Mai Châu:
(Thơ
Pháp thế kỷ XIX, nxb Trẻ, 1996)
Tình tuyệt vọng
Võ
vàng là lá thư hoa,
Vô
duyên là mối tình ta gửi người
M.C
Lòng
trĩu nặng một mối sầu sâu kín,
Lỡ yêu
rồi đến thác vẫn vương tơ
Ta
vô vọng nên trọn đời câm nín,
Em
vô tâm nên cứ mãi ơ hờ.
Gần
gang tấc tưởng như xa ngàn dặm,
Núi
sông nào đã dựng cảnh chia ly,
Sống
cô quạnh cho hết ngày hết tháng,
Cầu
xin chi mà mong ước được gì ?
Cũng
đành thôi! dầu đôn hậu tính trời,
Em
một dạ kinh trinh tròn bổn phận;
Thanh
thản bước trên đường, không cảm nhận
Dưới
chân mình nức nở tấm lòng ai.
Đọc
thơ ta nào biết ta tưởng vọng,
Hỡi
người đâu gây chuyện khổ đau nầy.
Về bản
dịch này, dịch giả Trần Mai Châu cho biết :
“
Khi quyết định dịch bài Xon-nê này, trong óc tôi đã hiện ngay ra mấy câu :
“Lỡ yêu
rồi đến thác vẫn vương tơ …”
và
:
“
Ta vô vọng nên trọn đời câm nín,
Em
vô tâm nên mãi cứ ơ hờ …”
Tôi
dịch tiếp và chỉ sau mấy giờ đã dịch xong cả bài Xon-nê. Nhưng
đến nay, nghĩa là sau tám năm, tôi vẫn có cảm tưởng mình chưa hoàn tất bản dịch
vì câu : “ Et j’aurais passé près d’elle inaperçu “ – một câu rất đơn giản, tôi
vẫn chưa dịch được vì dịch thế nào nó cũng tương tự ( về ý nghĩa
) với những câu khác trong bài. “
(
Kiến Thức Ngày Nay – số 503 - trang 75 )
Bản dịch của Mộng Tuyết Thất tiểu muội :
U tình
Trong
một phút ôm lòng thắc mắc,
Mối
yêu đương dằng dặc khôn khuây.
Đau
thương tình khó giải bày,
Người
làm đau khổ có hay đâu nào.
Than
ôi vẫn đìu hiu lặng lẽ,
Bên
cạnh ai, ai kẻ biết cho ?
Đường
trần biết đến bao giờ
Cũng
chưa dám ngỏ ước mơ với tình.
Kiều
diễm ấy khuôn xanh biệt đãi,
Vẻ xuân
tươi ngọc nói hoa cười.
Thế mà
trên bước đường đời
Hững
hờ, chẳng chút đoái hoài ái ân !
Chất
phong phỉ ân cần trau chuốt,
Dễ mà
khi nàng đọc thơ ta
Vì
nàng thi tứ đậm đà ,
Ngẩn
ngơ nàng hỏi : “Nàng là ai đây ?”
( Dẫn
theo Huyền Viêm , Kiến thức ngày nay số 577 20/8/2006)
Một
không khí trầm mặc bi thương với nhiều từ cổ và thể thơ song
thất lục bát !
Bản dịch của HOÀI AN :
(
“Tuyển tập 7 thế kỷ thơ tình Pháp “,nxb Tổng Hợp Đồng Nai, 2003)
Lòng
ta ôm mối tình câm,
Tình
trong muôn thuở gieo mầm phút giây
Hẩm
hiu riêng chịu phận nầy,
Mà
con người ấy nào hay đâu nào.
Gần
nàng vẫn thấy xa sao
Tuy
trong gang tấc, cách nhau nghìn trùng
Ta
trên cõi thế lạnh lùng
Không
xin, cũng chẳng hòng mong nhận gì
Tính
trời hiền dịu ai bì
Đoan
trang , nàng vẫn cứ đi trên đường
Bước
chân bình thản nhịp thường
Không
nghe thấy tiếng yêu thương thì thầm
Với
nghĩa vụ luôn thành tâm,
Đọc
thư ta gửi tình thâm, hững hờ
Bảo:
Người phụ nữ trong thơ
Là
ai nhỉ ? Có bao giờ hiểu đâu.
Có
một chút gì chưa thanh thoát lắm trong câu “Đoan trang, nàng vẫn cứ đi
trên đường”, so với “đường trần”, “ đường đời “ của Khái Hưng thì thấy ngay. Và
“đọc thư ta gửi … ”, nếu chàng gửi thư thì chuyện có thể đã
khác rồi !
Bản
dịch của Yã Hạc và Trịnh Nguyên
HẬN
TÌNH MUÔN THUỞ
Hồn
tôi có một chỗ riêng,
Đời
tôi, tôi giữ một phiền, đời tôi…
Tôi
yêu, tôi lỡ yêu rồi…
Nhưng
yêu chỉ để… thì thôi, một mình.
Gần
ai, ai thấu chăng tình,
Gần
ai, ai thấy bóng mình chăng ai?
Đời
tôi lặng lẽ cứ trôi,
Có
đâu môi hé, mong gì rồi ai…
Dầu
ai, âu yếm, nhu mì
Đường
ai, ai cứ bước đi hững hờ.
Ai
đi, và vẫn thờ ơ,
Thở dài
nhè nhẹ, bơ thờ, nghe chăng?
Giờ đây,
nội trợ hoàn toàn,
Xem
thơ nào biết là Nàng cho đâu.
Xem
xong, nàng khẽ lắc đầu;
“Người
này ai há? Ai đâu vậy cà?”
Đời
tôi, tôi giữ một phiền, đời tôi … và ba câu
khác bên dưới với những dấu chấm lửng … Rồi câu cuối cùng. “Người này
ai há? Ai đâu vậy cà?”
Chừng
đó đủ thấy trong dịch thuật, nhất là dịch thơ, việc trung thành tuyệt đối
với văn bản gốc là điều cực khó – mà thực ra, có cần như thế ? Bản dịch dù
có biến dạng ít nhiều vẫn là một tác phẩm nghệ thuật với tất cả cảm
xúc và sáng tạo của người dịch.
Bản dịch của Bình Nguyên Lộc
CHUYỆN KÍN CỦA CHÀNG ARVERS
Hồn
tôi ủ kín niềm riêng,
Đời
tôi bí mật ưu phiền bên trong.
Tình
muôn thuở, cảm xong giây lát,
Mối
đau thương muốn thoát, không mong.
Nên
tôi nín lặng như không,
Ai
kia gây thảm dễ hòng có hay.
Nàng
chẳng thấy, gần nàng tôi bước.
Bên
cạnh ai tôi lướt cô đơn,
Đến
già cũng vẫn ngậm hờn
Không
gan xin xỏ, được ân huệ gì?
Dẫu
tánh tình nhu mì mềm mỏng,
Nàng
thờ ơ bước, khổng có nghe
Tiếng
lòng tôi, dậy rụt rè,
Thì
thầm dưới gót nàng đè bước lên.
Đạo
vợ hiền, trung trinh một mực,
Nàng
xem thơ bàng bạc đời nàng.
Xem
xong, ngơ ngẩn tự bàn:
“Người
đâu hờ hững cho chàng khổ đau.”
Có
vẻ như trong số các người dịch chỉ có BNL diễn rõ ý của câu “À
l’austère devoir, pieusement fidèle” (đảo ngữ để hiệp vần với câu
sau, hiểu là pieusement fidèle à l’austère devoir ) :
Đạo
vợ hiền, trung trinh một mực
Bản dịch của Vita
SECRET D’ARVERS:
CHÔN KHỐI U TÌNH
Lòng
tôi khép chặt khối tình,
Tình
giây phút cảm biến thành muôn năm.
Nhưng
mang tuyệt vọng thương tâm,
Có
yêu thôi… cũng âm thầm mà thôi.
Ai
gây lệ thảm đầy vơi,
Vô
tình đâu rõ có người sầu tây.
Cách
xa nhau mấy gang tay,
Nhưng
nàng hờ hững biết ai si tình.
Than
ôi! trọn kiếp phù sinh,
Gần
nàng, mà mãi thấy mình quạnh hiu.
Đã
không gan tỏ đôi điều,
Nàng
đâu tường, rưới ít nhiều yêu đương.
Tuy
nàng đa cảm, giàu thương,
Đường
trần nhẹ bước, không vương tơ tình.
Ái
ân đạo cả trung trinh,
Lòng
son chẳng dễ tiếng tình gió trăng.
Lời
thơ chan chứa là nàng,
Nàng
xem thờ thẫn, hỏi: “Nàng nào đây?”
Bản
dịch tình cờ tìm thấy trên mạng, không có thông tin về người dịch lẫn
xuất xứ, tuy nhiên điều này không ảnh hưởng đến giá trị của bài thơ
dịch.
Bản
nhiều người dịch. ( Dịch giả là một nhóm gồm: Nhất Linh, Bảo Sơn, Lê Đình
Gioãn, Kỳ Quan, Nhất Anh, mỗi người dịch một câu rồi ghép lại thành bài)
(Giai
phẩmVăn hoá ngày nay số Trung Thu-tập 5)
Đời
u uẩn, lòng ta u uẩn,
Tình
một giây vương hận ngàn năm
Hận
khôn rửa âm thầm cam chịu,
Người
gieo sầu đâu hiểu lòng ta
Hỡi
ơi! Ta hằng qua bên cạnh
Ai
có hay ta cô quạnh bên ai
Đường
trần dù trọn đời ta bước
Chẳng
dám xin mà có được gì đâu.
Trời
sinh ai mặc dầu hiền hậu
Đi
đường ai không thấu tình ta,
Dưới
gót ngọc, xót xa tan vỡ,
Một
mảnh tình dang dở vì ai?
Lòng
trinh chuyên đường đời lặng tiến,
Ngâm
vần thơ xao xuyến nỗi lòng
Bâng
khâng hỏi :”Ai trong thơ ấy?”
Nào
biết đâu rằng đấy là mình…
KỲ NHẤT SƠN
Mỗi
người dịch một câu rồi ghép lại thành bài.
Đừng
mong gì về chất lượng nghệ thuật của những “công trình tập thể” kiểu
này vì mỗi người chỉ cố gắng “ hoàn thành nhiệm vụ” của
mình, không ai biên tập lại. Bởi thế, ở đây thấy như thiếu
nhạc điệu, thiếu cả vần điệu. Bởi thế tác giả mới bị gán
một cách tức tưởi cái tâm trạng “ hận khôn rửa “mà không ai can thiệp. Ông
chỉ có một mối tình tuyệt vọng, tình câm nín, yêu mà không dám ngỏ, không
dám nói… chứ có dám thù hận gì ai, lại càng không dám tìm cách rửa hận bao
giờ !
Việc
nhiều người cùng dịch một bài thơ nước ngoài, kể cả khi đã có một bản
dịch thành công rồi, chắc là chẳng có hại gì mà ngược lại có
thể giúp người đọc tiếp cận với giá trị của bài thơ gốc với nhiều
cách cảm thụ khác nhau.
Và
bản dịch tiếng Anh :
MY SECRET
My
soul its secret has, my life too has its mystery,
A love eternal in a moment's space conceived;
Hopeless the evil is, I have not told its history,
And she who was the cause nor knew it nor believed.
Alas! I shall have passed close by her unperceived,
Forever at her side, and yet forever lonely,
I shall unto the end have made life's journey, only
Daring to ask for naught, and having naught received.
For her, though God has made her gentle and endearing,
She will go on her way distraught and without hearing
These murmurings of love that round her steps ascend,
Piously faithful still unto her austere duty,
Will say, when she shall read these lines full of her beauty,
"Who can this woman be?" and will not comprehend.
Translated
by Henry Wadsworth Longfellow
(
Everypoet.com )
Một
bản dịch hay, vừa sát vừa thoát, phải chăng do thuận lợi là nét tương đồng giữa
hai ngôn ngữ ?
CÁC BÀI THƠ MÔ PHỎNG
Trong
khi người đọc khắp nơi tìm cách chuyển ngữ bài thơ để giới thiệu rộng
rãi hơn với công chúng thì ngay trên đất Pháp lại có một hiện tượng thú
vị : hàng chục, hàng trăm bài thơ mô phỏng ( pastiche ) ra đời.
Có
thể chỉ là những bài đùa nghịch, không theo chủ đề của bài
thơ gốc, viết cho vui theo kiểu :
Mon
cadre a son secret, ma toile a son mystère :
Paysage
éternel en un moment conçu,
Suis-je
un pré, suis-je un bois ? Hélas ! je dois me taire,
Car
celui qui m'a fait n'en a jamais rien su.
(
… )
hoặc
là :
Ma
Ford a son secret, mes pneus ont leur mystère.
Par
un brusque freinage, en un moment conçu,
J'ai
failli déraper, aussi j'ai dû me taire :
Celle
que j'épargnai n'en a jamais rien su.
(
… )
Nhưng cũng có những bài viết nghiêm túc hơn, cũng lấy lại đề tài tình yêu vô vọng. Thú vị hơn cả là bài dưới đây của LOUIS AIGOIN, thay lời người phụ nữ để đáp lại Arvers. Tác giả đã dùng lại 14 từ cuối cùng của 14 câu của bài Sonnet d’Arvers, lối pastiche này như thế gần giống với lối họa thơ của thơ Đường hay thơ Việt :
Ami,
pourquoi me dire avec tant de mystère
Que
l'amour éternel en votre âme conçu
Est
un mal sans espoir, un secret qu'il faut taire
Et
comment supposer qu'elle n'en ait rien su ?
Non,
vous ne pouviez point passer inaperçu,
Et
vous n'auriez pas dû vous croire solitaire.
Parfois
les plus aimés font leur temps sur la terre
N'osant
rien demander et n'ayant rien reçu.
Pourtant
Dieu mit en nous un cœur sensible et tendre.
Toutes,
dans le chemin, nous trouvons doux d'entendre
Le
murmure d'amour élevé sur nos pas.
Celle
qui veut rester à son devoir fidèle
S'est
émue en lisant ces vers tout remplis d'elle :
Elle avait bien compris, mais ne le disait pas.
Tạm
dịch nghĩa :
Bạn
hỡi, sao nói với tôi một cách bí mật thế
Rằng
mối tình vĩnh cửu đã nảy sinh trong tâm hồn bạn
Là
một nỗi đau vô vọng, một điều thầm kín không nên nói ra
Và
sao lại cho rằng người phụ nữ đó không hề hay biết gì ?
Không,
bạn không thể đi qua mà nàng không thấy
Và
bạn không nên tưởng mình lẻ loi
Đôi
khi những người được thương yêu nhất đi trọn đường trần
Không
dám xin gì và không nhận được gì.
Tuy
nhiên Trời đã ban cho chúng tôi một trái tim đa cảm và hiền dịu
Tất
cả chúng tôi khi bước trên đường đều thích nghe
Tiếng
ái tình thì thầm nổi lên trên những bước đi.
Người
phụ nữ kia muốn luôn chung thủy với nghĩa vụ của mình
Đã
xúc động khi đọc những vần thơ toàn nói về nàng
Đã
hiểu rõ, nhưng nàng không nói ra đấy thôi.
Bản
dịch của Mộng Tuyết Thất tiểu muội :
RIÊNG ĐÃ HAY RỒI
Nói
chi những âm thầm thắc mắc
Bạn
ta ơi ! Sao chác sầu chi ?
Nỗi
lòng sao phải nín đi ?
Lại
ngờ “ai”chẳng biết gì cả đâu.
Thôi
thôi hãy chớ sầu vắng vẻ
Tấm
tình kia còn kẻ biết cho
Xưa
nay những kẻ yêu nhiều
Chỉ là
trộm nhớ thầm yêu với tình.
Lòng
đa cảm khuôn xanh phú thác
Phải
rằng ai mộc mạc vô tri
Đường
đời từ bước chân đi
Lòng
ân ái cũng lắm khi bàn hoàn.
Thói
băng tuyết ân cần giữ mực
Đọc
thơ ai cảm xúc vì ai
Nỗi
niềm riêng đã hay rồi
Nói
ra còn ngại những lời thị phi.
(
Dẫn theo Huyền Viêm - Kiến thức ngày nay số 577 – 20/8/2006 )
Có
những tác giả nổi tiếng nhờ khối lượng tác phẩm đồ sộ, hàng trăm
tập, hàng ngàn bài. Cũng có tác giả, ngược lại, chỉ cần một bài là tên
tuổi lưu mãi đời sau. Félix Arvers thuộc trường hợp này. Mà Khái Hưng, nói
riêng về việc dịch thơ, cũng thuộc trường hợp này.
THÂN TRỌNG SƠN