Thế giới tiểu thuyết của Nhật
Tiến (sinh ngày 24-8-1936 tại Hà-Nội) có hai đặc điểm chung: một thế giới của
những con người bất hạnh và một không gian của nhân phẩm, con người! Tác giả của
chúng là một con người đầy lòng nhân ái và ông muốn mọi người chia xẻ cái nhìn
của ông! Trước 1975, ông đã xuất bản 19 tác phẩm gồm 11 tiểu thuyết hoặc truyện
dài: Những Người Áo Trắng (1959), Những Vì Sao Lạc (1960), Thềm Hoang (1961), Mây Hoàng Hôn (1962), Chuyện
Bé Phượng (1964), Vách Đá Cheo Leo
(1965), Tay Ngọc (1968), Giấc Ngủ Chập Chờn (1969), Đóa Hồng Gai, Lá Chúc Thư (1969), Quê Nhà Yêu Dấu (1970); ba tập truyện ngắn:
Ánh Sáng Công Viên (1963), Giọt Lệ Đen (1968) và Tặng Phẩm Của Dòng Sông; một tiểu thuyết
kịch: Người Kéo Màn (1962); một tiểu
thuyết dưới hình thức nhật ký: Chim Hót
Trong Lồng (1966, đăng Văn số 1, 1-1-1964), một hồi ký viết cho thiếu
nhi: Thuở Mơ Làm Văn Sĩ (1973, tb
Westminster CA: Huyền Trân, 2013) và ba
truyện cho thiếu nhi mỗi truyện từ 30 đến 40 trang: Đường Lên Núi Thiên Mã, Quà Giáng Sinh (1970), Theo Gió Ngàn Bay (1970), Săn Trong Thành Phố, Lá Chúc Thư.
Giai đoạn đầu tác phẩm ông do các nhà Phượng Giang, Đời Nay và Ngày Nay của Tự-Lực
văn-đoàn xuất bản, về sau do nhà xuất bản Huyền Trân (1959-) của ông và nhà văn
phu nhân Phương Khanh. Ông từng làm chủ bút tạp chí Thiếu Nhi (1971-1975) do nhà Khai Trí xuất-bản và cộng tác với các
tạp-chí Văn-Hóa Ngày Nay, Tân Phong, Đông Phương, Văn, Bách Khoa, Văn Học,… Nhà
văn Nhật Tiến từng là Phó Chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Việt-Nam và là Hội
viên Hội Đồng Văn Hoa Giao Dục Việt Nam Cộng Hòa (nhiệm kỳ II, 1974).
Nhà văn của tuổi thơ bất hạnh
Nhật Tiến khởi đầu sự nghiệp
viết văn với những đứa trẻ mồ côi trong cô nhi viện, một thế giới trầm lặng, có
thể nhàm chán đơn điệu đối với những người ở ngoài, bên cạnh những bà Phước,
nhưng qua ngòi bút của Nhật Tiến, người đọc khám phá con người, tâm lý, hoàn cảnh,
nếp sống của những đứa trẻ mồ côi, những học sinh nội trú và cả những vị tu
hành. Đó là Những Người Áo Trắng , Những
Vì Sao Lạc, Tay Ngọc, Chuyện Bé Phượng, Chim Hót Trong Lồng,...
Những Người Áo Trắng là chuyện của Quỳnh, một nữ tu trẻ. Từ thân
phận mồ côi, được thương giúp, Quỳnh đã trở nên nữ tu để thương lại những đứa
trẻ cùng phần số hẩm hiu. Quỳnh đã đưa lên trang giấy thế giới đó. Thể loại bút
ký đưa người đọc đến với những đứa trẻ, đến với một thế giới đằng sau bức tường
kín cổng, ngoài kia là cuộc đời, là sự sống; trong nầy là một sức sống khác, sức
sống tinh thần. Con đường đưa Quỳnh đến với đời sống tu hành đã phải qua nhiều
chặng đường. Nàng đã nhìn thấy những đứa bạn chỉ vì muốn thoát ly đã phải chết
như Hoà, chịu nghiệt ngã như Liễu. Đã theo đường tu hành, nhưng tim nàng đã có
lúc xúc cảm mạnh vì tình yêu dù đơn phương với một sinh viên đeo kính gặp ở vườn
hoa - tình yêu ở Nhật Tiến nói chung có thể mãnh liệt trong lòng nhân vật chứ
tác giả không chi tiết dài dòng! Và khi đã tận hiến cuộc đời cho Chúa và những
đứa trẻ cùng số phận, nàng cũng đã phải chịu sự đố kỵ đôi khi nghiệt ngả của một
số đồng tu. Chỉ vì nàng thương trẻ, qua Phượng, qua Lucie, với một tình đồng cảm.
Những Vì Sao Lạc rọi ánh sáng từ nhân vào cuộc đời những đứa
trẻ và thanh thiếu niên vì hoàn cảnh trở nên mồ côi, và cũng vì đó đã có những
hành động xấu đối với xã hội bình thường. Chuyện của Khánh, mẹ chết vì bom đạn,
bố tự tử vì thất vọng người vợ tục huyền, anh em đã phải sống nhờ cơm chùa, và
khi muốn tự lập thì em bệnh nặng không tiền đi khám bác sĩ; đường cùng dẫn đến
trộm tiền người quen để phải bị cái án "du thủ, du thực, ba tháng tù"
(tr. 166). Khánh vào tù nhưng lòng nhẹ nhàng khi thấy em Mai tìm được tình
thương nơi hai người bạn của Khánh. "Lòng tôi trở nên nhẹ nhàng và can đảm.
Ba tháng tù sẽ rửa sạch cho tôi tội lỗi mà tôi phải trốn tránh. Tôi sẽ có cơ hội
để làm lại cuộc đời. Mộng tưởng của tôi vẫn là mong muốn được dự phần vào guồng
máy khổng lồ của xã hội. Mồ hôi của tôi sẽ đổi lấy những buổi chiều có gió mát
dẫn em Mai đi chơi ở trên đường có hoa xoan tây rụng đỏ. Mai sẽ lớn lên như một
con chim có linh hồn trong sáng..." (tr. 166). Trong tiểu thuyết này, tình
người được đề cao, cao hơn những thói thường tình, như Khánh đối với dì Tự, biết
dì ghẻ ngoại tình với người làm của bố, biết em Mai là hậu quả của ngoại tình -
tức không phải con của bố Khánh, anh vẫn thương: "Trong cái tang đau đớn
này, dì mất chồng cũng khốn khổ như tôi mất cha. Tôi thấy thương dì hơn là giận.
(...). Sự cô đơn của người đàn bà góa và đứa con thơ ngây cho tôi nỗi xúc động
. Tôi không thể ghét dì mà còn tràn ngập lòng thương. Tôi tin rằng nếu linh hồn
ba tôi còn lẩn quẩn ở đây, chắc ông có cùng ý nghĩ như tôi" (tr. 90,
97).
Chuyện Bé Phượng (1964) là chuyện một xã hội thu nhỏ trong một
viện mồ côi, những đứa trẻ mang tên Phượng, Alice, Dung, Cúc,... "Con bé
Dung khôn ngoan gian giảo, biết nịnh các soeur khi cần nịnh, biết nhường nhịn
lũ trẻ khi cần thiết phải nhường, những điều gì làm lợi và vui cho nó thì dù có
phải tàn nhẫn để đánh đổi lấy, nó cũng không từ" (tr. 14). Cũng đạo đức giả,
cũng ăn cướp cơm chim, cũng ích kỷ độc ác, v.v. như xã hội người lớn. Bé Cúc
đóng vai ăn cắp vặt có "lý do", có "quyền" vì nó chỉ lấy của
người dư thừa: "Ừ tao ăn cắp thì đã làm sao, tao không lấy của của mày
(Phương), tao lấy của chúng nó, chúng nó thiếu gì" (tr. 128). Phượng được
các soeur thương, nhưng cô có tâm hồn, có suy nghĩ, lúc nào cũng nghĩ đến Chúa
và sự cứu rỗi. Lớn hơn là các chị Quỳnh, Giang, Thu, Thanh... và những tranh chấp.
Mẹ Félicité phải ra đi để rồi được Quỳnh viết thư xin mẹ trở về viện để dìu dắt
lũ trẻ. "Bởi vậy con xin mẹ hãy nhân danh những sự cứu rỗi, vẫn thường là
con đường của Chúa đã vạch ra, mà trở lại viện cô nhi hướng dẫn dìu dắt và bảo
ban chúng con... Vì mẹ là kẻ sáng suốt,
vì mẹ là kẻ đã thực sự nhìn vào cuộc sống khốn khổ của chúng con, thực sự thông
cảm nỗi chua xót của những đứa mồ côi..." (tr. 199). Chuyện trẻ con, trẻ mồ
côi, đời sống trong một viện mồ côi nhưng nhiều ý nghĩa có thể áp dụng cho cuộc
đời!
Chim Hót Trong Lồng thêm một câu chuyện về những đứa trẻ mồ côi
và nội trú trường Nhà Trắng với các bà sơ, một đề tài quen thuộc với Nhật Tiến.
Nhưng ở đây tác giả cho thấy con người là nạn nhân của nhau và sự vươn lên của
những kẻ thấp hèn không dễ. 14 lá thư và những trang nhật ký của một cô bé tên
Hạnh mẹ gửi nội trú trường các Soeur. Những lời lẽ ngây thơ chân chất của người
con viết cho người mẹ, thật cảm động sự ngây thơ của cô bé khi nghe người khác
kể lại mẹ làm nghề điếm: "Má làm nghề điếm phải không má. Chú con Hằng nói
chuyện với nó thế. Con hỏi điếm là gì thì nó cũng không biết. Vì chú nó chỉ nói
thế thôi. Có thật không má? Sở điếm của má có to không? Má làm chức gì trong ấy?
Mà sở điếm thì buôn gì hở má?..." (1). Mẹ bệnh nặng phải nằm nhà thương, Hạnh
về nhà bà Tuyết bạn mẹ cùng nghề, ngây thơ trách mẹ "Tại sao má bắt con ở
chung với đồ đĩ như thế" (Sđd, tr. 71). Mẹ chết, hết người để gửi thư, Hạnh
viết nhật ký để "nói" với mẹ và cầu xin "Lạy Chúa. Xin Chúa hãy
vì má, hãy vì nỗi lòng đớn đau và tinh khiết của má, mà đưa má về nơi thanh cao
như lúc này con đang thành tâm tha thiết nguyện cầu cho má..." sau khi nghe
lời sơ Félicité cắt nghĩa "Má có linh hồn. Linh hồn của má sẽ được tới gần
chân Chúa" (tr. 98-99). Câu chuyện với nhiều cơn mưa dài, lạnh, lá rụng
nhiều mà tiếng chuông như gọi hồn cũng nhiều; mưa và lạnh những lúc đi dạo Tết
cũng như những buổi hiếm hoi được gặp mẹ và cuối cùng lúc đám tang mẹ!
Đến Tay Ngọc, ảnh hưởng Thiên Chúa giáo đậm đà hơn nữa. Qua những bức
thư của Hạnh, một nữ sinh lưu trú gửi cho Mẹ Bề trên, trong đó nàng kể lại những
sinh hoạt của viện mồ côi đồng thời ghi lại những suy nghĩ về tương lai và chứng
tỏ một niềm tin mãnh liệt nơi đấng thiêng liêng: "Chúa chẳng để sự đe dọa
nào có thể làm lung lạc đức tin ấy nơi Chúa. Rồi từ đó, nếu ai ai cũng giữ được
lòng thánh thiện, mọi vết nhơ được xóa bỏ, mọi tội lỗi được dung tha, mọi điều
khổ sở sẽ được hàn gắn, và nhân loại sẽ tạo được địa vị trong sáng ban đầu".
Lòng tin làm nền cho quan niệm sống và cư xử ở đời!
Mây Hoàng Hôn (xuất bản năm 1962 nhưng viết xong từ 1958) kể chuyện cuộc
đời buồn nản của Đỗ, một nhà văn trẻ bị bệnh lao phổi, vào nằm điều trị ở một bệnh
viện Thiên Chúa giáo, đem lòng yêu bà Tâm, một bà phước trẻ đẹp. Mối tình đơn
sơ, tột đỉnh cũng chỉ là cảnh "Đỗ kéo hai bàn tay mềm mại của bà về phía
ngực mình. - Tâm ơi... Tâm tha lỗi cho tôi" (tr. 78). Vì tình yêu như thế
là tội lỗi, bà phước Tâm xin đổi đi nơi khác và chết trẻ, để lại tập nhật ký,
bà Madeleine gửi cho Đỗ, chàng khóc đến hết nước mắt rồi tìm đến bên mộ bà
"cúi xuống vuốt mãi tấm bia trắng để cảm thấy mình gần quá với những dòng
chữ cuối cùng còn ghi lại di tích của con người bạc mệnh". Một chuyện tình
đẹp nhưng bất khả thi, Nhật Tiến kết thúc đơn giản thay vì lèo lái câu chuyện
éo le theo thị hiếu.
Không khí tiểu thuyết của
Nhật Tiến vừa kể luôn có bóng dáng các nữ tu và một số tín lý đạo Thiên Chúa
nhưng thiển nghĩ mục đích của Nhật Tiến là phổ biến và đề cao lòng nhân ái,
tình thương người, kêu gọi xóa bỏ ích kỷ trong mọi trường hợp, ngay cả khi yêu.
Nhật Tiến theo đạo Phật nhưng đã viết một phần ba tác phẩm về thế giới đạo
Thiên Chúa một cách thuần đạo như Thụy An Hoàng Dân thời tiền chiến, trong khi
nhà thơ Hàn Mặc Tử tuy có đạo nhưng thi ca ông chịu nhiều ảnh hưởng Phật và
Lão. Nhật Tiến đã đưa người đọc vào thế giới đạo đó từ trước khi di cư vào Nam.
Mặt khác, thời văn học miền Nam này, nhiều nhà văn đã viết cho tuổi thiếu niên,
ngoài Nhật Tiến còn có Nhã Ca, Duyên Anh,... nhưng ông khác hai nhà văn sau, tiểu
thuyết của ông còn nhắm độc giả trưởng thành hơn, vì ông luôn nêu lên một vấn-đề nào đó không thể không suy nghĩ và tìm giải
pháp!
Nhà văn xã hội
Chiến tranh khiến cho người
nghèo càng nghèo khó hơn, càng thêm trẻ bụi đời, mồ côi, Nhật Tiến ghi lại
trong Giấc Ngủ Chập Chờn, Giọt Lệ Đen,
Quê Nhà Yêu Dấu,... Nhân vật của Nhật Tiến rời mái ấm cô nhi, trường các dì
phước, trở thành những người nghèo khó vật chất cũng như tinh thần. Thềm Hoang, Giải văn chương toàn quốc
1962, viết về một thế giới người nghèo ở Xóm Cỏ, một xóm cận biên ở thủ đô
Sài-Gòn mà cũng có thể ở một nơi khác. "Dạo ấy dân xóm Cỏ làm đủ mọi nghề
của một tầng lớp thấp kém" (2). Nơi đó có đủ mọi hạng người, đĩ điếm, đạp
xích lô, thông cầu tiêu, bán hàng rong, ăn xin, v.v. Một sống chung với những
thói hư tật xấu, với lòng ngay và tình đùm bọc khi hoạn nạn. Một mối tình vô vọng
nhưng chân thật của bác Tốn mù hát rong xin ăn với cô Huệ gái giang hồ:
"Cô Huệ ơi... Nếu cô lấy tôi thì tôi xây nhà gạch hai tầng / Tôi mua ô tô
cho cô ngự, mua váy đầm cho cô thay". Nhưng cô Huệ sẽ chết thảm, bác Tốn
chung tình tự đứng ra lo cho đứa con lai có với lính Tây lê dương. U Tám cũng chết buồn thảm, mụ Nết thì trở thành
điên cuồng vì con cháu. Những thằng Ích, cái Ngoan, cái Hòn,... lêu lỗng. Chuyện
tình đơn sơ dễ tính của Hai Hào đạp xích lô với Đào con Phó Ngữ. Năm Trà qua
Lào làm ăn trở về mất vợ mất con, mẹ điên, hắn lên cơn đốt nhà không ngờ cháy
tan rụi cả xóm! Cơn mưa to ở cuối truyện phải chăng đã đến như hy vọng quét sạch
những tàn tích của tội lỗi lẫn khó nghèo? Xóm Cỏ sống động dưới ngòi bút Nhật
Tiến, tình người, nếp sống linh hoạt không ngừng biến cố, diễn tiến. Khi nói đến
những vấn-đề xã hội là đã ngầm chứa đòi
hỏi công bằng, Nhật Tiến làm kẻ quan sát và ông tỏ ra có tài trong công việc
này, cả rành tâm lý. Tả sự cô độc của bác Tốn mù, một lần bác ôm đàn ngồi ở bực
cửa hát chờ cô Huệ đi ngang qua: "Bóng tối vây quanh như nỗi cô độc của
bác trong sự mù lòa" (tr. 28). Lúc khác bác nghêu ngao hát cho mọi người
nghe cười cho vui. "Tiếng cười của họ khiến bác nghĩ rằng mình không cô độc"
(tr. 29). Tiếng cười của một nhân vật khác, dượng Tám, thời tán u Tám thì
"tiếng cười lỗ mãng và ngay thẳng. Vì thế u tìm thấy ở dượng cái vẻ gì gọi
là chất phác, đáng yêu" (tr. 33). Nhưng khi đã về với nhau thì chỉ có tiếng
hét, la mắng, vòi tiền, lừa gạt! Cảnh lão Phó Ngữ gây với Đào, con gái lão, đã
dám thất thân với Hai Hào đạp xích lô, rồi đến bàn chuyện đám cưới, cũng như những
cảnh đú đởn tình từ của đôi nhân tình này, là những bức tranh thật linh động!
Tập Ánh Sáng Công Viên gồm 8 truyện ngắn viết về những mảnh đời, những
chuyện tâm tình, những cảnh đời ngang trái
(bị giam vì tình nghi chính trị, cảnh đòi nợ, cảnh gia đình êm ấm trong
xóm nhỏ,...). Nói chung tác giả tỏ nhiều thiện chí, muốn con người lưu tâm đến
những tệ nạn xã hội hoặc hậu quả của chiến tranh,... trong khi nhiều nhà văn đồng
thời với ông chạy theo siêu hình hay những
giải pháp không tưởng!
Giọt Lệ Đen tả một trong nhiều thảm cảnh của thời chiến. Hai anh em
mồ côi, Tư Híp và thằng Út sống với nhau nên khi Tư Híp đi trình diện nhập ngũ
thì đã phải đem thằng Út theo, may có Hiên làm nhà bếp thương anh em đã giúp giữ
thằng Út trong khi Tư Híp phải đi hành quân xa. Một tình yêu nhẹ nhàng đến với
anh em Tư Híp và kết không bi đát trong khi người đọc chờ đợi cái phải đến bi
đát của chiến tranh. Tác giả kết thúc với hy vọng, đứa em leo lên ụ đất nhìn
theo đoàn quân lên đường bụi mờ mịt! Một truyện ngắn khác, Kẻ Nổi Dậy là chuyện
tâm lý, chuyện anh Ba Sinh, một anh chồng yếu đuối chỉ biết ăn bám vợ, nghi vợ
làm điếm nuôi cả nhà mà không dám hỏi. Ra vẻ có ý chí, nhưng không đủ mạnh để
thay đổi tình thế, ngay cả việc dạy dỗ đứa con duy nhất.
Nhật Tiến cũng viết về xã hội
của giới văn nghệ sĩ, với Người Kéo Màn
(1962) và ghi là "tiểu thuyết-kịch". Nếu Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc
Khoan đem triết lý vào kịch thì Nhật Tiến đem thế-giới tiểu thuyết vào kịch. Phải
chăng Nhật Tiến có mục đích giáo dục, xã hội, do đó đã thử nghiệm thể loại này?
Không hẳn là một vở kịch để diễn viên trình bày, cũng không hẳn là một tiểu
thuyết về thế-giới sân-khấu-về-khuya - cũng là thế-giới con người với đủ tài và
tật, thích hào nhoáng, ít tác động, nhiều lý luận tư duy. Hạnh phúc ở đây thật
mỏng manh. Người đọc và nhân vật được tác giả mời tham gia vào trò chơi, mà
cũng không thể không tham gia. Nói đến sân khấu là nói đến đạo diễn, diễn viên,
những thần tượng của một thế-giới. Nhật Tiến đưa người đọc và cả người xem vào
trong hậu trường, nơi đó mặt trái buồn nôn được phơi bày. "Tà áo của
nàng hất tung lại phía đằng sau. Hắn thấy một vệt sáng chiếu vào khoảng mù mịt
đang ngự trị trong lòng mình" (tr. 95). Tác giả vở kịch (không phải
tác giả Nhật Tiến) thú nhận: "Cái đau đớn nhất của anh là anh không biết
phải hành động thế nào cho hợp lý cả. Không dám sống thực, do đó tự thấy
là bịp bợm mà vẫn phải viết kịch,..." (tr. 13) để rồi đi đến chỗ cô độc
đớn đau, người vợ đã không chung thủy. Những nhân vật lão kéo màn, người thiếu
nữ trinh trắng, người nghệ sĩ thổi clarinette, đứa bé,... chỉ là những cái cớ
cho người kéo màn - không hẳn là tác giả, Nhật Tiến, nói đến định mệnh. Các
nhân vật đầy mâu thuẫn, cả tác giả Nhật Tiến, khiến có kịch tính! Màn đã kéo,
những thần tượng gãy đổ, những sự thực đắng cay,... Nhật Tiến đi con đường ngược
với Bertolt Brecht là người muốn diệt hấp lực của truyện kể ở kịch, chối bỏ sự
thật, diễn viên diễn xuất và mời gọi người xem suy nghĩ về tấn kịch được trình
bày thay vì để lịch sử thâu tóm hết!
Hướng về dân tộc và tương lai
Cả sự nghiệp viết văn, Nhật
Tiến luôn tin tưởng nơi con người, dù đó là đứa trẻ mồ côi, trẻ đánh giày, người
đạp xích lô, hay một nữ tu, một trí thức, nhà văn,... Nhân vật của ông dù tuổi
đời, hoàn cảnh, địa vị xã hội khác nhau nhưng tất cả đều có một niềm tin hoặc lạc
quan nơi tình người và những giá trị nhân bản. Tâm hồn nhân ái của Nhật Tiến hướng
thượng, tin ở đấng toàn năng sáng tạo vũ trụ hoặc có liên hệ nhân quả với con
người ở trần thế. Niềm tin này mãnh liệt, bền vững. Với một cái nhìn tinh đời,
hiểu biết nhưng không tàn độc.
Nhật Tiến có một ngôn ngữ
trong sáng, rõ rệt, như tiếp thừa văn phong của Tự-Lực văn-đoàn - các tác phẩm
đầu của Nhật Tiến được các nhà Phượng Giang, Đời Nay và Ngày Nay của Tự-Lực
văn-đoàn xuất bản và ông có nhiều truyện đăng trên giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay. Một lòng chân thành, với
cái nhìn tinh tế, thâu suốt. Với ngôn ngữ đó, một lối hành văn đó, dù để thả hồn
nhung nhớ một thời ấu thơ hay biện hộ quan điểm xã hội cấp tiến của nhà văn.
Văn Nhật Tiến hiền, kết thúc vui, lạc quan hoặc tránh nói đến cái bi đát thường
dễ xảy ra, và ở những cảnh tả phụ nữ, tác giả tránh đi sâu vào chi tiết sắc đẹp
thể chất, hình như người nữ "hấp dẫn" nhất dưới ngòi bút của ông là
chị Sinh trong truyện Kẻ Nổi Dậy ("cả một nửa người trắng như sữa",
"sức nóng như muốn làm nổ tung bộ ngực đầy đặn căng lên như hai cái bình sứ",
"bộ ngực của chị dính sát vào những khoảng áo ướt sũng, căng tròn như hai
cái cóng sứ"). Trong các tác phẩm đã xuất bản của Nhật Tiến, người đọc tìm
thấy những vấn-đề lớn nhỏ của xã hội Việt
Nam, của dân tộc Việt Nam, nhưng sẽ không tìm thấy dấu vết của những trào lưu
thời thượng như hiện sinh, Tiểu thuyết mới, cả những phân-tâm mà Võ Phiến,
Dương Nghiễm Mậu, Duy Lam đã thử nghiệm. Nhật Tiến khởi nghiệp với những trẻ mồ
côi, nói lên tấm lòng của ông đối với những đưa trẻ bất hạnh, trong cái bất hạnh
chung! Giới văn-nghệ cũng được ông hơn một lần đưa vào tác-phẩm như nhân-vật
Tân và Vũ trong Vách Đá Cheo Leo. Những bước tư tưởng của Nhật Tiến chứng
tỏ thêm một điều rằng nghệ thuật phải đi một nhịp với thời đại, và nếu được vậy
nghệ thuật mới có thể sống lâu!
Tạp chí Hành Trình năm 1964 đã làm một cuộc
"Trưng cầu ý kiến bạn đọc về những tác phẩm văn học được nhiều người ưa
thích nhất trong khoảng 10 năm trở lại đây (1954-1964)" dự tính sẽ đăng
trong số đặc biệt Nhìn lại 10 năm văn học miền Nam, nhưng chưa kịp ra thì báo
ngưng xuất bản. Chủ-nhiệm Nguyễn Văn Trung mới đây thu thập những bài chưa in,
cả những thư viết tay lập thành một "Hồ
Sơ Về Tạp Chí 'Hành Trình'" (3), trong đó ông công bố danh sách các
tác phẩm được ưa thích nhất, về tiểu thuyết có 21 tác phẩm thì Nhật Tiến đã có
4 tác phẩm được chọn, 2 được xếp hàng đầu là Mây Hoàng Hôn và Thềm Hoang,
tiểu thuyết kịch Người Kéo Màn hạng
7, và Những Người Áo Trắng thứ 11. Tưởng
cũng cần nói ở đây là độc-giả của tạp chí Hành
Trình phần lớn là sinh viên và trí thức miền Nam lúc bấy giờ!
Nhật Tiến thời trẻ năng nổ,
hăng hái, hội viên rồi phó chủ tịch Văn Bút, phê bình sách, viết tổng kết văn
nghệ, tình cảnh nhà văn, v.v. Ông tin nhà văn có sứ mạng đối với tập thể, tin ở
vai trò nhân chứng. Lúc nào ông cũng tin tưởng liên hệ vững chắc giữa người viết
với người đọc. Sáng tác là để được đọc, viết là đến với tha nhân. Trong một phỏng vấn của Mai Thảo trên tạp chí Văn hải ngoại (4), Nhật Tiến tự nhận
mình là một nhà giáo hơn là một nhà văn. Thời ông, Võ Hồng cũng là một nhà giáo viết văn, sáng tác từ vị thế và kinh
nghiệm của một nhà giáo, trong khi Nhật Tiến cũng hành nghề nhà giáo nhưng
trong văn chương ông tự khoác thêm cho mình sứ mạng giáo-dục, như kẻ sĩ ngày
xưa. Nghĩa là không làm chính trị theo nghĩa đảng phái, chế độ hay chủ nghĩa.
Chính ông có lần thú nhận thời viết Thềm
Hoang (1958-1961), ông đã có cái nhìn hạn hẹp khi nghĩ rằng "công
việc cải tạo xã hội không thuộc vào trách nhiệm của người cầm bút, nó thuộc về
lãnh vực của những chính trị gia hay những nhà lãnh đạo đương quyền..."
(4). Các tác phẩm của ông đã chứng minh điều đó, rằng nhà văn Nhật Tiến có một
sứ điệp và những ước vọng chân thành! Những thị phi, chụp mũ đã và sẽ rơi vào
quên lãng của dư luận, nhưng tác phẩm và ý tưởng, chân tình của ông sẽ còn sống
lâu hơn! Nhật Tiến thuộc lớp nhà văn làm văn hóa với quan niệm văn hóa như là một
phương tiện chứng minh sự hiện hữu cao quý của con người trong lịch sử. Thế giới
tiểu thuyết của Nhật Tiến là cánh cửa mở rộng chân trời để con người sống với
hy vọng, sống xứng đáng với đồng loại và lịch sử!
[Nhà văn Nhật Tiến mất tại Irwine, Nam California ngày
14-9-2020 không lâu sau khi phu nhân là nhà văn Phương Khanh qua đời, ngày
26-8-2020].
NGUYỄN VY KHANH
Chú-thích
1- Nhật Tiến. Chim Hót Trong Lồng (San Jose CA: Ngàn Lau tb, 1984), tr. 47.
2- Nhật Tiến. Thềm Hoang (Westminster CA: Văn Nghệ tb, 1989), tr. 23.
3- "Hồ Sơ Về Tạp Chí 'Hành
Trình'" 1964-65 (polycopie) (Montréal: Nam
Sơn, 2000), tr. 31-33.
4- Văn CA, số 6, 12-1982.