1.- BÌNH-NGUYÊN LỘC – SỰ NGHIỆP LẬP NGÔN
* Từ Tô Văn Tuấn đến Bình-nguyên Lộc
Bình-nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3
năm 1914 (giấy tờ ghi 1915), tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên
Hòa (nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện
Tân Uyên, tỉnh Bình Dương), trong một gia đình trung lưu ở đó lâu đời. (1)
Từ năm 1929 đến năm 1933 Tô Văn Tuấn học trường trung học
Pétrus Ký tại Sài Gòn. Năm 1934 thi vào ngạch thư ký hành chánh nhưng hơn một
năm sau mới được tuyển dụng. Ban đầu ông làm công chức tại Kho bạc tỉnh Thủ Dầu
Một (nay là tỉnh Bình Dương), năm 1936 thuyên chuyển và Kho bạc Sài Gòn, sau
cải danh là Tổng nha Ngân khố Sài Gòn. Năm 1944 ông xin nghỉ giả hạn không
lương vì lý do sức khỏe, và từ đó không trở lại với nghề công chức nữa.
Năm 1949 ông xuống Sài Gòn, và sống tại đây cho đến năm 1985
được xuất ngoại sang Hoa Kỳ theo chương trình đoàn tụ gia đình, định cư tại
tiểu bang California, từ trần ngày 7 tháng 3 năn 1987 vì bệnh cao huyết áp,
hưởng thọ 74 tuổi. (2)
Đọc Hồi ký Văn nghệ
của Bình-nguyên Lộc, viết khoảng đầu năm 1987, chương Ông Bà Bút Trà được biết: Năm ông 17 tuổi, đang học Pétrus Ký,
người anh họ của ông là Tô Văn Giỏi làm thư ký kế toán cho bà Tô Thị Thân vợ
một Hoa kiều giàu có, chủ nhân 20 cơ sở doanh thương, nhờ ông đi tìm cho bà
Thân một người “viết nhật trình giỏi mà
ăn lương rẻ” để lập một tờ nhựt trình. Bình-nguyên Lộc tìm đến Trương Quang
Tiền, và qua Trương Quang Tiền ông quen với ông Bút Trà. Tờ báo ra đời, bà Tô
Thị Thân sau thành Bà Bút Trà. Chính do
sự tình cờ ấy Tô Văn Tuấn đi vào văn nghiệp. (3)
Bút danh của ông, chữ Bình
viết hoa, nguyên không viết hoa, Bình và nguyên liền với nhau bằng dấu gạch nối, Lộc viết hoa, không có gạch nối với nguyên. (Bìa trong tập truyện ngắn Thầm Lặng, Thụy Hương xuất bản 1967 và trang cuối sách quảng cáo
quyển Một nàng hai chàng cũng in như
vậy). Một số bút danh khác là: Phong Ngạn, Phóng Ngang, Phóng Dọc, Tôn Dzật
Huân, Hồ Văn Huấn, Diên Quỳnh… (4)
Bình-nguyên Lộc viết văn, cũng có làm thơ, chủ trương tuần
báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến
Nghé. Ông cộng tác với nhiều tạp chí, tuần báo, nhật báo. Những năm 1960-1975,
có giai đoạn ông viết 11 truyện dài hàng ngày cho các nhật báo. Năm 1959 tiểu
thuyết Đò Dọc được giải thưởng văn
chương toàn quốc (Việt Nam Cộng Hòa). Ông được mời tham gia Ban tuyển trạch các
cuộc thi truyện ngắn (1965), hồi ký (1972) của Trung tâm Văn bút Việt Nam, và
những cuộc thi khác như thi báo Xuân Học đường của Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh
niên năm 1975… Trên bình diện nghiên cứu, bên cạnh những bài viết về lịch sử,
ngôn ngữ, dân tộc, sưu tầm chú giải cổ văn… năm 1971 “nhà văn Bình-nguyên Lộc
đã làm cho nhiều người sửng sốt với một tác phẩm đồ sộ về Nguồn
gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” (5)
Bình-nguyên Lộc còn có những buổi nói chuyện gây được cảm tình với nhiều người nghe. Ngày
27/6/1962 tại Câu lạc bộ Sĩ quan An Đông ông chọn đề tài “Danh từ địa phương của người
bình dân Miền Nam để chỉ bịnh tật” thuyết trình trước sinh viên Đại học
Quân y. Theo bài tường thuật của Nguyên Phủ: “Mặc dầu tác giả Ký thác trình
bày câu chuyện nói trên bằng một giọng dí dỏm, đôi khi trào lộng, nhà văn họ
Bình vẫn để lộ qua những lời bề ngoài có vẻ mỉa mai, nhiều thương mến đối vói
dân tộc, nhứt là đối với những người tiên phong đã phiêu lưu, mạo hiểm từ các
vùng trên tràn xuống khẩn hoang đất mới ở Miền Nam. Họ là tác giả của nhưng
danh từ nói trên, sáng tạo ra những danh từ ấy trong cảnh di cư và hỗn độn vì
điều kiện sinh hoạt mới.” (6)
Ngày chủ nhật 23/11/1969 tại thính đường trường Quốc gia Âm
nhạc Sài Gòn Bình-nguyên Lộc nói về “Truyện
ngắn, tân truyện, tiểu thuyết” do Hội Bút Việt tổ chức. Ông dẫn chứng lịch
sử văn học và giới thiệu các ý nghĩa xưa và nay của Tây, Mỹ, Tàu, Ta về truyện
ngắn, tiểu thuyết, đoản thiên, trung thiên, truyện vừa, truyện dài, tân truyện…Theo
lời thuật của nhà văn Minh Quân: “Tại
Miền Nam cón có một hình thức truyện bằng văn vần, được gọi là thơ; khi người ta nói “Tôi đọc thơ Lục Vân
Tiên” có nghĩa là người ta đọc truyện
bằng văn vần vậy . Và anh kết luận: Chúng ta phải nghiêng mình trước số đông,
cho dù số đông dùng chữ không chính xác đi chăng nữa”. (7)
Đêm 23/3/1972 , tại trường Mê Linh, trước một cử tọa hạn chế
Bình-nguyên Lộc đã trình bày một công trình dài hơi khác, sau khi cho xuất
bản quyển Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc
Việt Nam, đó là kết quả của một cuộc nghiên cứu lớn: Sự liên hệ giữa gốc tổ Việt
Nam và gốc tổ Mã Lai trên căn bản ngôn ngữ. Theo lời thuật của Thế Nhân: “Nay mai, Bình-nguyên Lộc sẽ thuyết trình
trước một cử tọa đông đảo đề tài “Một ngàn danh từ Phù Nam trong Việt ngữ
Miền Nam”… Ngày giỗ Tổ có lẽ Bình-nguyên
Lộc sẽ thuyết trình ở Miền Trung, đề
tài: “Vua Hùng đã thống nhứt và lãnh đạo tất cả bao nhiêu bộ tộc, mỗi bộ
lạc tên gì, và chính bộ lạc của vua Hùng tên gì”. Công việc của Bình-nguyên Lộc đúng hay sai, còn phải đợi quyển sách ra
đời, chớ chỉ nghe qua trong một cuộc thuyết trình thì rất khó mà kiểm soát …
dầu người trình bày đã đưa ra chứng tích chặt chẽ, người nghe cũng cứ còn ngạc
nhiên vì khoa ngôn ngữ tỉ hiệu rất là mới đối với những người không chuyên môn.
Nhưng có điều mà ai cũng cần chú ý là các nhà văn hóa của ta có làm việc và làm
việc siêng, có thể đưa ra cái gì, đúng
hay sai còn đợi tòan quốc kiểm soát, nhưng văn hóa không ngủ quên, mặc dầu cuộc
sống rất chật vật”. (8)
Cho đến nay, sự nghiệp văn chương của Bình-nguyên Lộc được
nhiều người đánh giá rất cao. Với số lượng tác phẩm đã hoàn thành tính đến ngày
31/5/1966 (9) Nguiễn Ngu Í viết: “Các bạn có thấy rằng với số lượng ấy,
Bình-nguyên Lộc xứng đáng họp cùng hai tiểu thuyết gia nổi tiếng: Lê Văn
Trương, Hồ Biểu Chánh để thành “Tam Kiệt” trong giới các nhà văn sáng tác nhiều
(Lê Văn Trương trên 200 cuốn, Hồ Biểu Chánh trên 60 cuốn). Nhưng họ Bình chúng
ta phong phú và đa dạng hơn hai bực đàn anh nhiều” (10)
Chúng tôi thiển nghĩ, và tin chắc, rằng không ai đã đọc hết
tác phẩm đã xuất bản của Bình-nguyên Lộc. Vì quá nhiều. Vì rải rác theo thời
gian, khó tìm kiếm, bị thất lạc. Những người đã đọc thì “bá nhân bá bụng bá bao
tử”, khen và chê, thích hay không thích, trăm người ngàn ý.
Chúng tôi cũng đọc được một số đáng kể tác phẩm của
Bình-nguyên Lộc, mỗi truyện đều tìm thấy một điều gì đó phát lộ hay ẩn tàng.
Nếu phải chọn lựa một hai truyện thôi, thì theo cảm tình chủ quan, mấy tác phẩm
sau đây là tiêu biểu nhất, khi nhắc tên
Bình-nguyên Lộc nhiều người nghĩ ngay đến. Chỉ xét các tác phẩm sáng
tác, không nói đến tác phẩm nghiên cứu, biên khảo (Và cả “tham luận” này cũng
xin không đề cập đến lĩnh vực khảo cứu của Bình-nguyên Lộc). Đó là hai truyện
ngắn: Rừng mắm, Ba con cáo, và cái
nhan đề Những bước lang thang trên hè phố
của gã Bình-nguyên Lộc nghe đã thich thú trước khi lật sách. Nhốt Gió cũng hay, nhưng chúng tôi không
thích bằng hai truyện kể trên, coi ngang hàng với mấy truyện khác. Tiểu thuyết
thì đầu sổ là Đò Dọc.
·
Chung quanh chuyện viết
lách
Chúng tôi muốn trích lại đôi mẩu chuyện trong dòng tâm sự
của Bình-nguyên Lộc và những điều có thể coi là quan điểm của ông về văn chương
cùng kinh nghiệm sáng tác, qua một số bài viết và trả lời phỏng vấn.
Đoạn trên có nhắc đến hồi ký Ông Bà Bút Trà, Bình-nguyên Lộc kể lại chuyện tình cờ tạo cơ hội
cho bà Tô Thị Thân thành bà chủ báo, nhận một lời khen “Cậu bé này tiến dẫn
người được việc”: “Sau đó tôi được nước
nên đi sâu vào làng báo, làng văn, và càng ngày càng đi sâu mãi, cho đến ngày
mà tôi có tác phẩm đầu tay để trình làng. Có thể nói mà không sợ sai là chính
tôi đã tạo ra bà Bút Trà. Và ngược lại chính bà Bút Trà đã tạo ra Bình-nguyên
Lộc. Duyên văn là như thế. Bà họ Tô ấy quả có công thật lớn với kẻ họ Tô là tôi
đây. Về sau, khi tôi đã thành danh, có vô số báo Sài Gòn phỏng vấn tôi, để biết
nguyên động lực nào đã thúc đẩy tôi bước vào làng văn, và vào năm nào. Với mỗi
báo tôi đều trả lời mỗi khác, khiến các anh ấy nói với nhau: “Thằng Bình-nguyên
Lộc là thằng nói dóc tổ bố, nay nói thế này, mai nói thế khác, chẳng còn biết
đâu là sự thật nữa.” Nhưng sự thật là tôi đã thành thật với tất cả mọi người.
Tại vụt thình lình các anh ấy đâm sầm vào nhà tôi rồi rút giấy, rút bút ra,
phỏng vấn ngay và bắt trả lời ngay, không cho tôi kịp nhớ gì hết một cách đích
xác, trong khi đó thì các động lực nó lại là cái gì rất đa nguyên. Trong trường
hợp làm việc hối hả, tôi chỉ còn biết nhớ cái gì, nói ra cái ấy, hôm nay trình
cái nguyên này, hôm sau trình cái nguyên khác, so lại thấy chúng nó chẳng ăn
khớp với nhau, nên các anh ấy cho rằng tôi đã nói dối. Hôm nay, nhơn dịp viết
một thứ như là hồi ký, tôi mới có đủ thì giờ để mà lội ngược thời gian thật là
xa, xa tận thời tôi 17 tuổi, và mới đi tới một cái nguyên chưa hề khai với các
bạn bao giờ hết.” (3)
Trong bài Tựa tiểu
thuyết Khi người chết có mặt của
Nguiễn Ngu Í (11), Bình-nguyên Lộc viết: “Nếu
một tiểu thuyết nói được cái gì thì tiểu thuyết ấy có giá trị về tư tưởng. Nếu
một tiểu thuyết không nói được cái gì cả, nhưng văn hay thì tiểu thuyết ấy có
giá trị về văn chương. Nếu một tiểu thuyết không nói được cái gì cả mà văn cũng
không có gì đặc sắc, nhưng hấp dẫn vô song thì tiểu thuyết ấy có giá trị về…
tiểu thuyết. Trong ba đức tính của tiểu thuyết kể trên, một tác giả ít lắm cũng
phải tạo được một cho tác phẩm mình. Tuy nhiên cái đức tính thứ ba, mà người ta
xem thường lại là đức tính cốt yếu, vì dầu sao, tiểu thuyết cũng phải là tiểu
thuyết trước cái đã, nghĩa là phải nhiều tình thiết để lôi cuốn người đọc. Cái
“lẽ có” đầu tiên và chính thị của tiểu thuyết là giải trí người đọc. Nếu chỉ
cần tư tưởng thì một đại luận nói được nhiều hơn tiểu thuyết, nếu chỉ cần văn
chương thì một tập tùy bút dài là môi trường lý tưởng cho văn chương, không cần
phải bày ra loại tiểu thuyết làm gì cho thêm rắc rối. (…) Các nhà văn, các nhà
tư tưởng hay khinh miệt loại truyện “mua vui cũng được một vài trống canh” lắm.
Nhưng giải trí người ta được một vài trống canh, lại không giúp ích à? (…) Nếu
không dạy ai được điều gì, thì giải trí thiên hạ là góp phần vào việc giúp ích
đồng loại vậy?.
Trao đổi với Nguiễn Ngu Í (khung cảnh gia đình, ánh đèn sáng
dịu, có khói thuốc tỏa mơ màng và dĩa dưa hấu đặc sản Miền Nam – chứ không phải
rút giấy rút bút ra phỏng vấn ngay bắt trả lời ngay), Bình-nguyên Lộc nói: “… Với tôi, cốt truyện mình có thể bịa được, còn các chi tiết thì không.
Nếu không phải do chính mình đã thấy, đã nghe, đã làm, thì cũng do các bạn trải
qua thuật lại. Tôi cho những chi tiết ấy làm nên giá trị tác phẩm”. (12)
Bình-nguyên Lộc lại nói đến chi tiết trong bài trả lời cuộc
phỏng vấn văn nghệ của tạp chí Bách Khoa
về truyện ngắn hay nhứt: “Vậy tôi chọn
ngay truyện Năm hạn. Năm hạn là truyện đầu tiên của tập truyện ngắn nhan
là Truyện quê do nhà Lượm lúa vàng
xuất bản hồi tiền chiến (Hà Nội 1952) … Thảm cảnh của dân quê miền châu thổ Nhĩ
Hà, tác giả [Trần Tiêu] đã đưa ra một
cách thản nhiên, lạnh lùng, nhưng hùng biện, không nói ra mà người đọc thấy
ngay, linh hoạt hơn lời phân tích sâu sắc nào cả. Nghệ thuật là ở chỗ đó: để sự
việc nói thay cho tác giả … Vậy tôi chọn truyện Năm hạn vì truyện ấy có một nội dung hay và nội dung ấy được nâng đỡ bằng một
nghệ thuật tuyệt vời … Truyện ngắn ngoại quốc… ? Theo tôi thì truyện Johnny,
người gấu của John Steinbeck là truyện
hay nhứt … Một truyện ngắn hay phải có đủ những đức tính nầy: nội dung câu
chuyện và nghệ thuật. Câu chuyện lắm khi không cần mà người đọc vẫn không thấy
chán nhờ nghệ thuật bù qua. Nghệ thuật thì gồm lối dựng truyện, cách bố trí,
hành văn và linh hồn truyện, tức là những chi tiết nhỏ, những ý nghĩ nhỏ rải
rác trong đó.” (13)
Một mặt của nội dung tờ báo do Bình-nguyên Lộc chủ trương,
tất nhiên trong đó có nội dung những bài đăng, ông đã cho in đậm trên báo Vui Sống số ra mắt: “Vui Sống không có nghĩa là cười đùa hay buông trôi
để tận hưởng cuộc đời… Vui Sống là
hòa mình với cuộc sống, để lấy thăng bằng hầu đủ can đảm mà làm việc…Vui
Sống bắt nguồn nơi thanh thản của tâm hồn
mặc dầu ta bận rộn trí óc và nhọc nhằn xác thịt…” (14)
Bình-nguyên Lộc gọi thế giới chữ nghiã của người sáng tác là
“Một thế giới tự tạo”. Ông nhắc lại câu Nhất Linh thường nói: “Cái tiểu thuyết đó
không hay, vì tác giả có sắp đặt trước, biết mình sẽ đi tới đâu”. Và đặt câu
hỏi để đi đến nhận định: “Nhất Linh nói
không hết ý chăng, vì ngỡ tôi thông minh lắm, tự hiểu rộng thêm ra? Chớ nếu chỉ
có thế, thì tôi không đồng ý với nhà văn danh tiếng đó. Tôi không tin rằng chỉ
có thế, và không tin rằng Nhất Linh lại quan niệm mơ hồ như vậy … Một tiểu
thuyết gia bắt đầu một chương sách, cũng giống hệt như anh con trai bắt đầu tỏ
tình với cô gái có nhiều cảm tình với anh ta. Cả hai, tác giả và anh con trai,
đều biết đại khái kết cuộc ra sao, cả người thứ ba là độc giả cung đoán biết
nữa, nhưng cái cuộc đời sống thật của những giây phút tỏ tình ấy, ba hạng người
trên đều mù tịt, trước khi chương sách được khởi thảo, được đọc. Cậu không biết
mình sẽ bối rối mức độ nào, tác giả cũng thế. Độc giả cũng không biết được sự
xúc động của nàng ra sao … Một cảnh trong tiểu thuyết là cả một thế giới. Thế
giới ấy, nó tự tạo lấy nó, tác giả không còn làm chủ được ngòi bút của mình nữa
và những cái bất ngờ thú vị, có giá trị như là một khám phá, đối với độc giả,
cũng là những bất ngờ của chính tác giả nữa … Ông Nhất Linh có cho tôi biết
rằng tiểu thuyết thành công độc nhứt của ông là quyển Bướm trắng. Tôi đồng ý. Nhưng tôi không đồng ý lối
giải thích của ông. Ông nói: Vì tôi không có sắp đặt gì hết, không biết câu
chuyện sẽ đi tới đâu … Lý trí của ông Nhất Linh quả có thể không sắp đặt gì cả
… Nhưng… Hẳn tiềm thức của ông Nhất Linh đã biết rằng ông phải đi tới đâu, mặc
dầu con đường đi gồ ghề, chông gai làm sao, ông thật tình không rõ …Xét về tiểu
thuyết của Alexandre Dumas, một nhà tiểu thuyết chuyên viết truyện
tình-tiết-vì-tình-tiết, nhà văn học Jacques Laurent viết: “…Xứng danh một tiểu
thuyết gia là kẻ nào đi vào một chương tiểu thuyết mới, như là một người đi vào
một giây phút sắp tới, biết rõ y sẽ làm gì, nhưng tuyệt nhiên không ngờ được y
sẽ khám phá ra cái gì …” (15)
Ông Nguyễn Nam Anh, trong một cuộc phỏng vấn đã khai thác được ở Bình-nguyên Lộc nhiều điều.
Về một tác phẩm lớn: “Một tác phẩm lớn,
theo tôi, không bắt buộc phải đề cập tới một vấn đề lớn, mà là một tác phẩm nói
được nhiều về một chuyện nhỏ. Theo tôi, Pour qui sonne le glas là một tác phẩm lớn , mặc dầu kể chuyện ra,
người nghe sẽ thấy lảng xẹt: một tay kháng chiến ngoại quốc trong cuộc nội
chiến Tây Ban Nha, được lịnh mang chất nổ đến phá sập một chiếc cầu bắc ngang
một sơn khê sâu thẳm. Đến nơi, anh ta bị kháng chiến địa phương ngăn trở, vì họ
sợ bị lộ tung tích, bởi đó là nơi an toàn của họ. Anh đặc công vừa thuyết phục,
vừa vận động và anh được họ cho hoạt động. Anh thành công, nhưng bị tử thương.
Câu chuyện chẳng có gì hết, mà ý chuyện thì cũng chỉ là một ý vặt: phá một
chiếc cầu là một chuyện quá nhỏ trong một cuộc nội chiến lớn, nhưng tác giả đã
cho ta thấy được cả toàn thể cuộc nội chiến ấy với những bi đát, những ẩn tình
trong đó.”. Về truyện ngắn Ba con cáo,
được một nhà văn cho là truyện ngắn hay nhất: “Tôi không đồng ý với người đã chọn truyện của tôi, vì theo tôi thì
truyện hay nhứt của tôi không phải là truyện đó. Nhưng phải qua một thời gian
năm bảy chục năm mới biết người đó nói đúng hay tôi nghĩ đúng … Nếu phải bỏ đi
hết chỉ giữ lại 3, thì tôi giữ Những bước lang thang trên hè phố của gã
Bình-nguyên Lộc (tạp bút), Cuống rún
chưa lìa (truyện ngắn), Tỳ vết tâm
linh (truyện dài). Tại sao? Tại chủ quan
của tôi thấy nó hay. Nhưng người khác chưa chắc đã thấy như tôi.” Được hỏi:
Nghĩ sao khi có người phân biệt hai danh từ nhà văn (l’écrivain) và kẻ dụng văn
(l’écrivant), Bình-nguyên Lộc trả lời: “…Quả
thật có hai hạng người đó. Nhưng có cái bậy nầy là Âu Mỹ và ta đều khinh miệt
hạng sau. Tại sao lại khinh miệt họ? Nếu họ không viết được những tác phẩm giá
trị thì ít ra họ cũng phục vụ chị bếp, con sen, và cả các cô ký nữa. Tôi thử
hỏi một cô ký mê tiểu thuyết ba xu không hơn cô ký mê tổ tôm hay sao chớ? Trên
đời này kẻ có tài không được phép coi rẻ kẻ kém tài … Vả lại giá trị nghệ thuật
chưa chắc đã hữu dụng bằng sách nhảm? … Tôi mến phục các nhà văn lớn, nhưng tôi
cũng mến phục các anh Ecrivant nếu họ
không có làm gì bậy bạ mà chỉ viết truyện ba xu, bán lấy tiền nuôi con. Giữa
tài với đức, đức phải hơn … Tôi loại danh từ Ecrivant ra khỏi cái vốn liếng danh từ mà tôi thường dùng, bởi vì ông tướng
không có hạ sĩ thì ông tướng ấy cũng đành nằm co … Văn chương có giúp cho đời
sống, cho dẫu rằng tác phẩm chỉ là tiếng thì thầm của một người nói với chính
mình. Người ta sẽ “điều chỉnh” tâm hồn của người ta, tình cảm của người ta, khi
tán thành hoặc đả kích mình. Như vậy cũng là giúp ích rồi …” (16)
Bình-nguyên Lộc, Nguyễn Mạnh Côn cùng nói chuyện với Viên
Linh. Viên Linh đặt câu hỏi. –Anh có bao giờ cảm thấy bị dồn vào góc không?
Bình-nguyên Lộc đáp: Có chớ. Nhưng thiếu gì ngã rẽ. Cái gì chưa tiện viết thì
sau sẽ viết. Đâu phải chỉ có vài vấn đề là hữu ích, và không viết được ngay thì chẳng còn gì để mà viết nữa. Nhân
Viên Linh hỏi về vụ Soljenytsine, Bình-nguyên Lộc từ Nga bước sang Tàu: Vậy các ông lính Tàu có ngồi chơi tạm ở Hoàng Sa thì được, mà đừng
có vào Chợ Lớn. Vào đó, các chú sẽ thấy các ông mại bản xài mỗi đêm bốn vạn
bạc, các chú thèm rồi đòi hỏi thì rắc rối cho họ Mao. Nhưng chẳng cần thấy mại
bản, chỉ cần thấy thợ Tàu Chợ Lớn ngồi đầy ở các tiệm trà, các chú cũng đã thèm
đòi hỏi được như vậy rồi. –Trong những sách đã xuất bản của anh, anh thích
cuốn nào hơn cả, vì sao? –Câu này đã có
nhiều người hỏi, tôi đã trả lời, nhưng
rồi tôi thấy là bậy cả. Tôi trả lời theo chủ quan của tôi thì không làm sao mà
đúng được. Người khác có thể thấy
đúng hơn tôi. –Anh có tin bói toán tử vi không? Số của anh là số thế nào? –Bán tín bán nghi. Số của tôi là số lận đận
về đủ các thứ việc. Tử vi nói đúng. Nhưng tử vi nói sai về bạn hữu của tôi. Vậy
tôi không thể tin về tử vi cho lắm. Vả lại tin nó thì mệt. Mình đã lận đận mà
nó cứ nhắc mãi rằng mình lận đận thì hơi thừa mà cũng chẳng an ủi mình được.
Tốt hơn là quên tử vi đi … Những vấn đề khác: -Từ năm 18 tuổi thì tôi đã gặp chông gai cho đến ngày nay. Vậy đó là con
đường thiên lý, rất dài, bao trùm cả cuộc đời tôi. Chông gai nho nhỏ, nhưng
chẳng bao giờ gặp được gì suông sẻ cả … Tôi không có tài trời cho, nên lúc bắt
đầu thì tôi phải nỗ lực nhiều lắm. Nếu có khuyên bạn trẻ điều gì thì tôi khuyên
hay nỗ lực … Tôi hơi lạc hậu. Tôi quan niệm kẻ sĩ theo lối xưa, tức là ngoài
học vấn cần có khí tiết … Nhìn học trò ngày nay thì tôi thấy rằng họ là quá
bảnh. Con trai ngày nay ở làng, quận cũng đã bảnh lắm rồi, còn nói chi các cậu
Sài Gòn. Nhưng tôi cứ nghe như là các cậu ngày nay còn thiếu, thiếu cái gì, một
cuống rốn nối liền các cậu vào truyền thống cũ, chẳng hạn. Chủ quan chăng? …
(Sinh hoạt văn học của ta) cần có một tờ báo. Tôi nói báo. Báo của anh là tạp
chí, đăng quá nhiều lý thuyết. Báo văn nghệ chỉ đăng sáng tác. Cần, để mà
thưởng thức và lấy chỗ cho tài năng mới được ra mặt … Nước Việt Nam có dầu hỏa
thì vui. Nhưng nếu chẳng có mà ruộng được mùa, tôi cũng vui y như có dầu hỏa.
Dễ tính và không kén lắm thì đỡ khổ thân. Tôi sẽ vui cho đến phút xuống mồ mả mà chẳng cần cá cặp. Tôi không bao giờ tiếc
những năm qua. Tôi luôn luôn sống với cái tuổi mà tôi đang mang. Không hối tiếc
thì vui được hoài. Tôi khỏi phải kêu như Verlaine: “Mi đã làm chi đời mi”. (17)
Bình-nguyên Lộc có vài lần nói về kinh nghiệm viết văn, Bài
trên Thời Tập mở đầu bằng mẩu chuyện
thú vị. Tác giả có người bạn làm thợ mộc. Ván mua về chỉ đúng ở bề dày và bề dài, còn chiều thứ ba thì họ cứ để
vậy. “Ông thợ mộc phải đẽo cái biên ván
không được săn sóc đó, mà ông ta đẽo theo một kỹ thuật cũng khá lạ lùng. Ông ta
cho một nhát rìu vào gỗ, rồi bỏ đó, bước tới nửa bước, cho thêm một nhát khác,
mãi cho đến lúc ông ta bước tới đầu tấm ván, thì ông ta mới dùng rìu mà róc như
ta róc mía. Tôi chẳng biết tại sao mà ông ta làm như vậy, hỏi ông ta thì ông ta
cũng giải thích chẳng được. Mà ông ta đã hành nghề từ ba mươi năm nay rồi, tức
đã giàu kinh nghiệm. Tôi tự tìm hiểu thì mới biết đâu là đâu. Đẽo gỗ theo lối
đó, tức là cưa theo kỹ thuật của thời mà nhân loại chưa biết cái cưa. Đáng lý
phải cưa chớ, nhưng ông ta chót làm thợ chuyên môn nên không biết cưa. Vậy ông
ta đẽo, đẽo róc thì đường gỗ bị đẽo sẽ đi ngay, tương đối ngay như đường cưa,
chứ đẽo cho xong một nơi rồi mới đẽo nơi khác thì bìa ván sẽ lồi lõm. Tôi thuộc
hạng thợ không biết cắt nghĩa, y như người bạn của tôi. Tôi biết viết văn thì
phải làm sao, nhưng bảo tôi phân tách kỹ thuật thì tôi làm chẳng được. Hình như
lý thuyết gia và văn nghệ sĩ là hai thứ người khác nhau: một đàng biết nói
nhưng chưa chắc làm được, một đàng biết làm, nhưng không biết trình bày cách
thức làm.”
Tuy vậy, Bình-nguyên Lộc cũng đưa ra sáu kinh nghiệm. Kinh
nghiệm thứ nhất, có lẽ là hay nhất: Không
thành nhà văn thì không có sao cả, chẳng hại cho ta mà cũng chẳng hại cho đời. Kinh
nghiệm thứ hai: Viết văn là một việc có
thể học được cho thành công nếu có người dìu dắt đúng mức, và nếu mình chịu
nghe người đó. Dĩ nhiên không kể những người tự tạo. Kinh nghiệm thứ ba: Viết văn thành công cũng không trở thành
nhà văn được, nếu ta chẳng có gì để nói ra. Có gạch, có xi măng, có ngói, nhưng
thiếu ông kiến trúc thì xây cất sao được. Kinh nghiệm thứ tư: Phải đọc tương đối hết các tác phẩm nổi danh
trong nước và ngoài nước thì mới xong. Đọc sách không phải để cóp người ta mà
để biết người ta đã tiến đến đâu, hầu mình rượt theo họ, và nhất là vượt họ,
nếu được. Kinh nghiệm thứ năm: Không
có sống thì viết tiểu thuyết ắt không thành công, sống ở đây không có nghĩa là
sống thẳng mà có thể tạm sống qua trung gian. Chẳng nên bận tâm lắm về cốt
truyện. Cốt truyện hấp dẫn chẳng bao giờ làm hạ giá tác phẩm được, và cốt
truyện khô khan chẳng bao giờ tăng giá của tác phẩm được. Người ta xét tiểu
thuyết về mặt khác mà bất kể đến cốt truyện. Kinh nghiệm thứ sáu: Tìm hứng, hình như là nỗi băn khoăn lớn của
nhiều bạn. Tôi thấy rằng có hai ngộ nhận trong việc tìm hứng. Một phái cho rằng
hứng tự nhiên mà đến, không thể tìm được. Phái khác thì quả quyết hễ tìm thì hứng
phải được gặp. Như tôi đã nói trên kia là những gì mà ta viết đều phải có sẵn
trong lòng ta. Nếu nó vắng mặt nơi lòng ta thì ta làm thế nào để tìm nó được?
Tôi thấy rằng những cái đó có sẵn đó chỉ khi nào nó gặp khí hậu hạp cho sự xuất
hiện của nó. Khí hậu đó không phải là sự nằm đó, (mà phải) nỗ lực tìm tòi…Điều Bình-nguyên Lộc
gọi là “khí hậu” có thể nói là không gian, môi trường, thời gian cần cho nhà
văn “sống” để “viết”, rộng hay hẹp, lâu
hay mau tùy mỗi trường hợp. (18)
Trong những bài “cũng
cứ là hồi ký phần nào, nhưng chỉ được hạn chế trong vòng liên hệ giữa thuật giả
và làng văn nghệ với lại làng báo mà thôi” Bình-nguyên Lộc có kể đến những
tình cảm với Nguyễn Nhược Pháp, Bàng Bá Lân, Thanh Nam…
“Mặc dầu còn trẻ như
tôi, nhưng anh ấy đã vang danh rồi. Đó là nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, tác giả
tập thơ bất hủ Ngày Xưa. Một nhà thơ
đã nổi danh mà bằng lòng làm bạn hàm thụ với một kết toán viên tối tăm của Ngân
khố Sài Gòn thì thật là chuyện hi hữu vậy. Trong thời thư từ qua lại, thì tôi
nỗ lực tập viết văn xuôi và làm thơ, thường thì là thơ hơi hơi tự do mà tôi
chạy theo Phong Hóa. Thảng hoặc vì nhiễm thơ luật, tôi cũng làm thơ luật, nhưng
sẵn sàng bất kể niêm luật, mãi cho đến già, khiến anh Bàng Bá Lân rất lấy làm
bực mình. Nhưng tôi cứ mặc kệ họ Bàng. Tôi có quyết tâm làm thơ luật hồi nào
đâu kia chớ? Tại rủi ro bị nhiễm thơ
luật, tôi buột tay viết ra hơi giống thơ luật vậy thôi, bắt bẻ tôi sao được.
Nhưng Nguyễn Nhược Pháp bỗng thình lình qua đời. Thật là quá sớm. Và tôi mất
một người bạn. Anh ấy qua đời chưa được bao lâu thì tôi có văn xuôi xuất hiện
trên mặt báo Sài Gòn. Khi đọc lại bài văn đầu tay, được in trên giấy, tôi bùi
ngùi nhớ đến người bạn vắn số, người ấy đã khuyên tôi nỗ lực. Tôi đã nỗ lực,
giờ có chút ít kết quả rồi thì người ấy lại không còn nữa, để mà thấy tôi không
phụ lòng ai.” (3)
Với Thanh Nam là chuyện cùng viết truyện dài cho nhật báo
đăng hàng ngày:
“Nhà in Sài Gòn là nơi
làm việc phản luật lao động nhất thế giới, điều đó thì ai cũng biết, nhưng sao
các tay viết lách lại chen vào đó để làm gì? Tòa soạn của một tờ hàng ngày
nghèo nhứt , vẫn không thiếu bàn. Ấy, người ngoài nghề không làm sao mà biết
được chuyện bê bối của các tay viết tiểu thuyết cho báo hàng ngày, mà kẻ này là
một. Phải chun vào nhà in, vì thợ sắp chữ họ gào họ thét, họ đòi bài, ta vào
đó, xé giấy ra từng mảnh nhỏ, viết được ba bốn giòng chữ thì nộp cho một anh
thợ để anh xếp chữ ngay, kẻo không kịp in. Ta lại viết ba bốn giòng nữa giao
cho anh thợ thứ nhì, nếu anh thợ thứ nhứt khi nãy chưa làm xong công việc. Chun
vào nhà in để được gần thợ, hầu nộp bài cho nhanh ấy mà! Dĩ nhiên là bài không
bao giờ qua tay các thư ký tòa soạn, mà các ông ấy cũng mong khỏi phải đọc bài,
vì các ông chỉ có mấy mươi phút mà phải đọc hết năm tiểu thuyết, thì quá đau
đầu. Cái chuyện nộp bài từng giòng, vào phút chót tuy ít xảy ra, nhưng vẫn có
xảy ra cho bất kỳ tay viết tiểu thuyết nào viết giúp cho nhựt báo.”
“Phần lớn các kỳ bài
của tiểu thuyết Đò Dọc tôi đều viết như vậy,
nhưng cũng không làm tròn nhiệm vụ. Tôi viết ít hơn khối lượng chữ phải nộp mỗi
ngày, và để cho đầy các ô mà nhà báo để dành cho tiểu thuyết của tôi, tôi đã
hối lộ cho thợ nhà in, nhờ họ cứ cho xuống dòng mãi. Hễ tôi chấm câu là họ phải
xuống dòng. Về sau, khi tiểu thuyết này in thành sách tôi đã quên mất mưu trá
cũ, cứ đưa báo cắt cho họ, không có bớt những lằn xuống dòng lạm phát nên nhiều
người đọc sách thường hỏi: “Quái sao cái anh tác giả này mắc chứng gì mà một
trang sách cho xuống dòng đến tám lần?”
“… Dầu sao Thanh Nam
cũng là một tiểu thuyết gia, chứ không phải chỉ là nhà văn mà thôi. Nhiều nhà
văn lỗi lạc, nhưng không viết được tiểu thuyết bao giờ, nhứt là viết cho báo
hằng ngày. Những người viết không được, không phải là những người dở đâu, tiểu
thuyết là một văn thể, y hệt như phê bình là một văn thể. Không làm được văn
thể nào đó, không có nghiã là dở. Nhưng làm được thì vẫn tốt hơn là làm không
được.Và Thanh Nam đã làm được, mà làm từng ngày cho báo hằng ngày nữa, chớ
không phải làm xong rồi mới bán cho báo hằng ngày họ in từng kỳ. Công việc nầy,
ai chưa làm cứ tưởng dễ, chớ nó rất là khó…” (3)
Bình-nguyên Lộc kể một chuyện vui: Đít Chuột. “Một hôm ông chủ
báo hằng ngày kia mời tôi viết mục Film
du jour … Tôi tìm ra được một biệt hiệu
mà tôi cho là ngộ nghĩnh. Đó là Mông Thử.
Tôi viết được một tuần lễ thì ông chủ báo ấy mời tôi vào văn phòng và
nói: Tôi xin anh đổi biệt hiệu. Tên gì mà nghe kỳ quá! Mông Thử là cái Đít
Chuột. Coi bộ xấu quá đó anh.” Bình-nguyên Lộc thầm chê ông chủ báo là dốt,
không chịu đổi và không viết cho báo ấy nữa. Về sau, nhân nói cho người cháu về
con đại thử, ông sẵn dịp giải thích nghĩa của Mông Thử. Nước Ấn Độ có quá nhiều
rắn, người nào có tiền đều nuôi một con vật tiếng Pháp gọi là mangouste, nó hơi giống con chồn nên ta
gọi là chồn rắn, có tài săn rắn, rắn
bao to cự với nó cũng không lại. Nước Tàu không có con thú này, nhưng họ cũng
có tên gọi cho nó là “mông thử”. “Kẻ viết
Phim hằng ngày cũng giống như con
chồn rắn, chuyên bắt rắn độc trong xã hội. Biết hiệu đó, ý nghĩa là như thế,
chớ không hề có đít chuột bao giờ … Ngày nay, nhớ lại câu chuyện trên đây, tôi
bật cười. Tôi cười chê tôi, chớ không còn cười chê ông chủ báo đó nữa. Tôi đã
làm quân tử… Tàu, khí khái xì xằng, chẳng có ích lợi gì cho tôi cả, mà cũng
chẳng có ích lợi gì cho ai hết … Nhưng tôi được cái an ủi nhỏ nầy là, vài người
bạn thân đã phục tôi là khí khái. Các bạn ấy cũng chỉ điên như tôi thôi, vì lũ
tôi thuở ấy còn trẻ, dễ hăng tiết vịt, chớ có khí khái con khỉ khô gì đâu chớ.
Giờ thì tôi nghĩ như vậy, chớ quả thật thuở đó tôi đã phồng mũi lên trước lời khen
của bạn hữu.” (3)
2.- BÌNH NGUYÊN LỘC GIỮA THIÊN HẠ
Trước năm 1975 chưa có một công trình nghiên cứu nào tổng
kết, hay sơ kết, văn học Miền Nam giai
đoạn 1945-1975 hay 1954-1975, vì chưa ai nghĩ lúc ấy sẽ là điểm dừng. Vậy muốn
biết lúc ấy thiên hạ nói về Bình-nguyên Lộc thế nào chỉ còn cách đọc một số bài
điểm sách và một số bài viết nhìn qua thời gian ngắn hạn, một năm, dài lắm là
mười lăm năm.
Thời
đó, việc phê bình sách cũng có phần thưa thớt, chỉ có một chuyên san là tờ Tin
Sách của Trung tâm Văn bút Việt Nam, 36 trang, ra hàng tháng, còn lại là
những bài không định kỳ, trên Bách Khoa, Văn (nghiên cứu, phê bình), Tân
Văn…Số bài điểm tác phẩm của Bình-nguyên Lộc nói chung không nhiều, xin
lược lại mấy bài sau đây.
Võ Phiến, dưới bút danh Tràng Thiên, khi đọc quyển Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam lại nói về
văn học Miền Nam: “Từ sau ngày đình
chiến, các văn nghệ sĩ ở Bắc vào đây đông đảo, như cũng có kích thích thêm phần
nào cái xu hướng muốn phô bày các phong tục, và đặc điểm địa phương ở các nhà
văn trong Nam. Họ lập ra nhưng nhà xuất bản lấy tên là Bến Nghé, là Phù Sa…Nhà văn Bình-nguyên Lộc (bút hiệu có nghĩa
là Con Nai ở Đồng) viết những truyện như Rừng Mắm, nói về công lao của tyhế hệ tiền phong
khai phá miền Hậu Giang. Phê bình truyện Đò Dọc của ông, Nguyễn Văn Xuân đại khái có nói đến sự “đứng dậy” của văn
nghệ Miền Nam, và hình như câu đó được tác giả lấy làm bằng lòng.” (19)
Khi bàn về Cá tính văn
học Miền Nam, Võ Phiến cho rằng: “Vừa
dễ dãi xuề xòa, người Việt Miền Nam vừa mau mắn họat bát. Giọng văn của các tác
giả trong Nam có một vẻ gì rất khỏe khoắn, nhanh nhẹn. Cho đến cách xây dựng
cốt truyện cũng thế. Truyện của Đồ Chiểu, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, cách
kết cấu không có gì là chặt chẽ khéo léo, không tỏ ra tốn nhiều công phu, nhưng
bao giờ cũng linh động. Ở những tác giả lớp sau như Bình-nguyên Lộc và Sơn Nam,
kỹ thuật đã điêu luyện hơn nhiều, cốt truyện và lối viết văn vẫn giữ truyền
thống đó. Người câu chấp sẽ trách Bình-nguyên Lộc ở chỗ ông cho bốn cô gái ông
Nam Thành trong Đò Dọc nối tiếp nhau
xuống gác trình diện anh Long, rồi hai cô nối nhau đi tự tử, rồi lại ba cô nối
tiếp nhau đi lấy chồng. Tác giả như tuồng hơi lơ đãng, không quan tâm mấy đến
sự sắp đặt cuộc đời của các cô. Nhưng sự lơ đãng đó lại có vẻ tài hoa, phóng khoáng,
nghich ngợm. Nếu Bình-nguyên Lộc chăm chút nhân vật mình hơn, “có trách nhiệm”
hơn chút nữa, ông sẽ mất cái thái độ thảnh thơi khinh khoái nhẹ nhàng rất đẹp
đẽ ấy đi …Sau khi nhắc đến sự nghiệp trước tác của Trương Vĩnh Ký, Võ Phiến
viết: “Sau này mà viết tiểu thuyết mà
được nhanh được nhiều như Hồ Biểu Chánh, Bình-nguyên Lộc, Phú Đức v.v… các nhà
văn có tiếng ở miền ngoài cũng ít ai bằng. Viết được như vậy tất nhiên họ có
trí tưởng tượng phong phú lắm. Trí tưởng tượng ấy thừa sức để vẽ ra những cảnh
tượng li kì, bày ra nhưng câu chuyện lạ lùng quái đản, nhưng đôi khi có hơi
ngây thơ, khó tin. Nếu muốn bới tìm những chỗ sơ hở vô lý trong các cốt truyện
của Hồ Biểu Chánh và ngay đến Bình-nguyên Lộc nữa cũng không thiếu gì. Họ bay
đuổi theo sự tưởng tượng phơi phới mà ít quan tâm đến chi tiết lắm.” Võ
Phiến nói về quyển Tân Liêu Trai, ký
bút danh Phong Ngạn: “Ở đây ma nhiều hơn,
biến hóa li kì hơn (Trại Bồ Tùng Linh của Thế Lữ) nhưng toàn quyển truyện không thể bảo là đem đến cho ai một cảm tưởng
sợ hãi nào. Trái lại, có thể coi đó là những mẩu chuyện vui. Ông Phong Ngạn kể
thoăn thoắt một lát, xem chừng người ta hơi lo lắng, ông đã vội vàng cười xòa
bảo ngay cho biết là nói dối cho vui đấy thôi.” (20)
Phương Mai đọc quyển Nhện
chờ mối ai. Sau khi tóm tắt câu chuyện, Phương Mai cho biết: “Không kể khá nhiều truyện dài đăng trên trang trong các báo, Nhện chờ mối ai là truyện dài thứ ba củia Bình-nguyên Lộc được in thành sách.”. Và
đưa ra những nhận xét: “Tập truyện này
ghi dấu một khuynh hướng mới trong đường lối sáng tác của Bình-nguyên Lộc, tiểu
thuyết gia thường được coi như tiêu biểu cho văn chương tiểu thuyết Miền Nam,
trong thế hệ hiện đại. Đó là khuynh hướng làm văn chương bình dân …Loại truyện
này hầu như thường bị các nhà phê bình văn học không muốn nhìn nhận như những
tác phẩm có giá trị nghệ thuật. Ở một vài trường hợp sự hờ hững này có gây ra
nhiều nỗi thiệt thòi bất công … Riêng về trường hợp Bình-nguyên Lộ,c chúng ta
nhận thấy cái kỹ thuật đặc biệt của Rừng mắm, Ba con cáo v.v…- cái kỹ thuật có bao hàm một khí thế văn chương mạnh mẽ, chứa
đựng một tác dụng nghệ thuật, một giá trị nhân sinh sâu rộng – giờ đây đã
nhường bước cho một thứ bút pháp gần như không có kỹ thuật, những dễ dãi đến độ
buông thả. Với Nhện chờ mối ai, chúng
ta thấy Bình-nguyên Lộc chỉ chú ý tới tình tiết trong truyện cốt sao cho lâm li
bi đát, suốt từ đầu đến cuối chỉ thiên về đề tài mà bỏ quên cả kỹ thuật … Tôi
xin mượn một ý của bạn Cô Liêu – mà đó cũng là chủ ý của tôi khi viết bài này –
trích trong bài Quan niệm về văn chương bình dân: “…Đề cập tới vấn đề văn chương bình dân không phải là có ý phân chia
cấp bậc, nhưng vì đứng trước một thực tại của xã hội, ta phải đặt vấn đề từ
những thực tại đó, để tìm lối thoát, đem lại sinh khí trong lành cho văn chương
bình dân trong giai đoạn hiện tại. Sự ngăn cách giữa hai loại văn chương tự
nhiên sẽ xóa bỏ khi người dân nào cũng nhận được một cái vốn kiến văn và học
thức đủ để nâng cao khiếu thẩm mỹ…” (21)
Vẫn Phương Mai, người có khá nhiều bài phê bình văn học trên
Tin Sách, đọc Tâm Trạng Hồng. “Toàn tập gồm
22 đoản thiên và 3 kịch ngắn bằng thơ vui viết phỏng theo tích chèo cổ. Chủ đề
của tác phẩm được nhà xuất bản nêu rõ nơi mép bìa gấp: “Người ưu thời mẫn
thế không được phép vui vô điều kiện nhưng nhất định phải yêu đời, luôn luôn
nhìn đời với một tâm trạng màu hồng. Tâm
Trạng Hồng: tác phẩm vui nhộn của Bình-nguyên Lộc”. Trong một bài báo khác (22)
tôi đã bày tỏ lòng hâm mộ tài viết truyện ngắn của Bình-nguyên Lộc; nên có thể
nói lần này tôi đón nhận Tâm Trạng Hồng
với một nỗi vui chân thật- nỗi mừng vui dành cho người bạn quen thân, lâu ngày
mới được gặp lại. Và mặc dầu không được cái may mắn làm một người ưu thời mẫn
thế; lại không thể yêu đời trong những ngày cuối tháng hơi khó khăn này, trong
lúc nhật trình không ngừng trương trên trang nhất biết bao biến cố sô bồ… tôi
cũng ráng đeo đôi kính lọc mầu – mầu hồng – để tìm vào tác phẩm của B.N.L. …
Tôi đã đọc khá vất vả trong nhiều lần rời rạc, mới hết ba trăm trang giấy khổ
nhỏ chữ thưa. Điều đó không có nghĩa là những truyện vui của B.N.L. kém vui,
nhưng có lẽ tại và tài viết truyện ngắn vui vui của ông chưa đạt tới cái mức
điêu luyện nó thu hút người đọc như nhiều truyện ngắn khác của ông viết về
những tấn bi kịch của xã hội (mà điển hình nhất ta có thể kể tới Ba con
cáo, Rừng mắm…) nghĩa là những truyện
ngắn đã tạo ra lòng hâm mộ của nhiều độc giả, trong đó có tôi. Một điều khác
khiến cho những truyện vui của ông chưa đạt tới cao độ lôi cuốn được độc giả ấy
là sự hời hợt của các nhân vật và tình
tiết. Giữa người đọc và nhân vật tưởng chừng như có thật quả vẫn có một cái gì
ngờ ngợ … Được cái là B.N.L. có sẵn một bút pháp điêu luyện nên sự giả tạo đó
chỉ nằm trên bình diện nghệ thuật viết truyện. Với một cây bút nào khác non kém
hơn ông, chắc chắn là sự giả tạo đó sẽ dễ trở thành ngớ ngẩn nếu không hẳn là
lố bịch … Và nếu cần nói một cách bộc trực. tôi cũng sẽ thẳng thắn ghi nhận sự
sa sút trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Bình-nguyên Lộc … Ước mong sao
Bình-nguyên Lộc sẽ tìm lại được cái phong độ ngày trước, tung một cánh diều lên
mà nhốt gió trời lại, buông một con
thuyền nhỏ mà suôi về nơi Rừng Mắm
tràn đầy sinh khí, hay co chân nhảy băng qua những ngôi mộ điêu tàn để tìm sâu
vào những hàn hốc tối tăm của Ba con cáo
sống bên lề xã hội mà không xa rời cuộc sống chung của tất cả mọi người – tác
giả và người đọc, và bà con lối xóm, và đám đông, và quần chúng, và xã hội, và
loài người.” (23)
Duy Thức điểm quyển Mưa
thu nhớ tằm. “Nhiều người đọc
Bình-nguyên Lộc đều nhìn nhận rằng tác giả Nhốt Gió đã thành công ở truyện ngắn hơn truyện dài. Vậy những ai đã đọc Nhốt
Gió (1950), Ký Thác (1960), Tâm Trạng Hồng (1963) đều vội vàng tìm đọc tập truyện
này.” Duy Thức tóm tắt từng truyện
và sau mỗi truyện đưa ra ý kiến, như: “Xác không chôn: Những nhận xét tinh tế, những chi tiết ngộ nghĩnh trong cái xã hội bé
nhỏ ấy đã làm sống hẳn câu chuyên … Ho lao muôn măm: Tác giả đã mượn truyện một người bịnh lao để nói về sự kì dị của chứng
bịnh và phủ cho nó một luận đề to lớn, vì thế các nhân vật, kể cả tác giả phải
ra sức giải thích thật nhiều trong kích thước của một truyện ngắn … Nhơn
sinh quan bao tử: Ở truyện này ta thấy rõ
công phu bố trí câu chuyện của tác giả, mở đầu có vẻ rất trinh thám li kì đưa
độc giả từ bất ngờ này đến bất ngờ khác và đoạn kết lại một bất ngờ vô cùng xúc
động … Thước đo nghệ thuật, Duy Thức dẫn lại ý tưởng của nhân vật Bân trong
truyện, một người đang tập viết văn: “Không
có cây thước nào trên đời này đo được sự ngon dở của sầu riêng cả và như vị ngon của sầu riêng, nghệ thuật không
có cây thước nào đo được cả, mình cứ làm văn nghệ được bởi sẽ có một ông tòa
thông minh và sáng suốt là thời gian …Mưa thu nhớ tằm: Tuy không sống thật với tâm trạng của người ươm tơ thương tằm cũng như
người làm ruộng thương trâu, nhưng sự ghi nhận của tác giả qua ông Y, đã truyền
cảm khá mãnh liệt cho người đọc nhờ bút pháp tinh vi của tác giả…” v.v… Sau hết, Duy Thức viết: “Trong tập Mưa thu nhớ tằm, ở mỗi truyện đều “nói lên” một cái gì, cái
gì đó có khi tác giả phải cố ý nói lên hộ cho rõ ý … Ngoài ra những phong tục
địa phương Miền Nam, những bước chân thời gian cũng được tác giả ghi lại với
tất cả sự nhận xét ngộ nghĩnh. Đọc nhà văn Miền Nam đã sáng tác trên 700 truyện
ngắn này, chúng ta nhận thấy tác giả có một kỹ thuật vững chải, một bút pháp
tinh vi, nhờ đó đã thể hiện được những vấn đề hiểm hóc khó khăn thành những câu
chuyện để cho mọi người có thể lãnh hội một cách dễ dàng. Chính vì muốn độc giả
dễ hiểu tác giả đã suy nghĩ, lý luận, giải thích giúp độc giả do đó đôi lúc trở
nên rườm rà trong lời văn … Nhìn chung tác phẩm tuy có vài sơ sót nhưng không
làm mất được giá trị đích thực nổi bật của toàn bộ tác phẩm …” (24)
Trên tạp chí Bách Khoa
có mục Đọc sách giúp bạn, chỉ đọc mà
thôi, không điểm, không phê, có lần Quán
Tai Heo của Bình-nguyên Lộ nằm trong mục này, “Quán
Tai Heo ở Ngã Bảy Sài Gòn. Có năm ba anh chàng nghệ sĩ tới làm thơ, vẽ tranh,
tán dóc, yêu đương v.v…Xa cách một thời gian, sau họ tìm lại thò quán Tai Heo
đẽ dọn đâu mất, một con đường mới vừa mở băng ngang qua đó, xóm cũ bị giải tỏa.
Tại đó không còn chút di tích nào nữa. Đừng có ai uổng công đến Ngã Bảy tìm
quán Tai Heo” (25) Dưới bài không ghi tên người đọc sách.
Hồ
Trường An và Đoàn Y Linh điểm qua Văn nghệ năm 1965: “… Bình-nguyên Lộc với Mưa thu nhớ tằm rất tinh tế chọn lựa đề tài nhưng quyển này
chưa hẳn vượt hai quyển Ký Thác và Nhốt
Gió…” (26)
Sáng chủ nhật 27/2/1966
tại thính đường trường Quốc gia Âm nhạc, trong buổi nói chuyện do Trung tâm Văn
bút Việt Nam tổ chức, Lê Tất Điều nói về Nụ
cười trong tiểu thuyết Việt Nam hiện
đại. Trích tường thuật của Vũ Dzũng: “Theo
diễn giả đây không phải là một bài khảo cứu về các nụ cười mà chỉ tìm hiểu các
đoạn văn mang hài tính đã tạo cho người đọc thế nào.” Lê Tất Điều nêu ra sáu nhận xét, trong đó: “Nhận xét thứ ba nụ cười được tạo nên bởi
những nhân vật mang sẵn hài tính trên mình. Các tác giả đã tạo các nhân vật
buồn cười trong tác phẩm bằng cách phóng đại một số tật xấu, một hình dáng dị
kỳ, một bản tính cố chấp bướng bỉnh, một sự méo mó nghề nghiệp, những thói quen
v.v… Nụ cười được tìm thấy ở các nhân vật trong phóng sự của Hoàng Hải Thủy hay
trong tiểu thuyết của Võ Phiến, Võ Hồng, Bình-nguyên Lộc, Doãn Quốc Sĩ, Duy Lam
v.v…” (27)
Nguyễn Văn Xuân trong loạt bài Khi những lưu dân trở lại, phần Văn
nghệ Miền Nam nhìn từ Miền Trung, cho rằng: “Văn nghệ Miền Nam thực sự phục hồi và tiến bộ chính là sau biến cố
1945. Ý thức dân tộc đã trổi dậy mạnh mẽ, đứng đắn và tha thiết. Trong thời
kháng chiến, nhiều nhà văn Miền Nam đã khơi dậy ý thức đó bằng những sáng tác
phẩm của mình. Đấy là cơ hội rộng lớn để tình tự đời sống, ngôn ngữ của một bộ
phận trong đời sống chung của dân tộc phát lộ, gây cho người đọc thấy rõ sự
phong phú, sâu xa và mãnh liệt của đời sống ấy. Những Phi Vân, Dương Tử Giang,
Lý Văn Sâm, Thẩm Thệ Hà, tiếp tục vác cây bút mà Hồ Biểu Chánh tạm đặt xuống để
chân thành giới thiệu đời sống Miền Nam. Rồi khi hòa bình trở lại, người ta chú
ý nhiều đến: Bình--nguyên Lộc, Sơn Nam, bên cạnh những Vân Trang, Ngọc Linh, Hồ
Hữu Tường, Lê Xuyên.” (28)
Sau biến cố Tết Mậu Thân, Lê Phương Chi điểm lại tất cả văn
nghệ sĩ đang sống ở Sài Gòn, kể tỉ mỉ hoàn cảnh từng người do công việc và chỗ
ở, có gặp đôi ba điều khó khăn, rồi cho biết: “… Các nhà văn đàn anh: Đông Hồ, Giản Chi, Á Nam Trần Tuấn Khải, Nguyễn
Duy Cần, Đoàn Thêm, Lãng Nhân, Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường, Bình-nguyên Lộc,
Mặc Đỗ, Trần Thanh Hiệp, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng, Hoàng Xuân Việt,
Nguyễn Văn Trung, Tạ Tỵ, Nguyễn Vỹ đều may mắn không gần nơi lửa đạn.” (29)
Quyển Người về đầu non
của Võ Hồng cũng được đọc trên Bách Khoa
giống như Quán Tai Heo, không ghi tên
người đọc. Mấy câu cuối bài có nhắc đến Bình-nguyên Lộc: “Nền văn chương phong phú của một dân tộc cần phản ảnh được nếp sống của
từng địa phương và ta cảm thấy yêu mến quê hương hơn, tin tưởng nơi sức mạnh
của Dân tộc hơn nếu ta được dịp sống gần gũi với đồng bào mọi giới ở mọi địa
điểm của đất nước. Nhưng trên thực tế ta không có điều kiện để đi và sống như
vậy. Ta đành nhờ cậy vào những tác phẩm văn chương phản ảnh trung thực nếp sống
của từng địa phương như những tác phẩm của Sơn Nam, Bình-nguyên Lộc, Võ Phiến,
Võ Hồng…” (30)
Trong bài Các thế hệ
tiểu thuyết gia Miền Nam thời hiện đại trên tập san Thời Tập, Cao Huy Khanh nhận định “Trong 20 năm tương đối ngắn ngủi (1954-1974) đã có biết bao biến động …. Chúng ta phải phân chia làm bốn giai đoạn
tiến triển văn học … Những nhà văn già nhất của thời đại chúng ta đến nay vẫn
còn cầm bút và đôi khi lại còn cầm bút một cách thường trực hơn cả những người
đi sau nữa. Dĩ nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ là một số nhà văn kỳ cựu
khác nay dường như đã tỏ ra khá mệt mỏi rồi như trường hợp Võ Phiến, Nguyễn
Mạnh Côn, Sơn Nam, Bình-nguyên Lộc, Mặc Đỗ, (dĩ nhiên là sự ghi nhận này chỉ
hướng về đối tượng tiểu thuyết chứ không kể đến trường hợp chuyển hướng để thay
đổi loại thể tài hay bộ môn văn học khác của một số nhà văn, thường là quay
sang bộ môn biên khảo với những trình độ khác nhau như trường hợp của Nguyễn
Mạnh Sôn, Sơn Nam, hay dữ dội và bất ngờ nhất là của Bình-nguyên Lộc…Chẳng hạn
nói về Võ Phiến là nói về một Võ Phiến của những Thư nhà và Đêm xuân trăng sáng v.v…hơn là một Võ Phiến của những truyện
dài nặng nề hay những bài phiếm luận tạp bút, cũng như một Mai Thảo của nhóm Sáng
Tạo vẫn có giá trị lâu dài hơn hẳn một
Mai Thảo của những thiên tình sử tân thời trên những trang nhật báo thủ đô. Hay
như trường hợp Bình-nguyên Lộc thì mãi mãi chính những hình ảnh tươi mát và hồn
hậu của Đò Dọc cách đây hơn mười năm
đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng tốt đẹp đầy thiện cảm chứ không
phải là những truyện ngắn đầy một vẻ gắng gượng thật buồn tẻ sau này…” (31)
Trên tạp chí Bách Khoa
đầu năm 1975, nói về Văn chương học đường, Nguyễn Mộng Giác
bỗng “lẩn thẩn nghĩ xa về trước” rất
nhiều chuyện, có nói: “Nhắc đến thế hệ
1954-1963 các nhà văn học sử có thể kể tên Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Thanh Tâm
Tuyền, Võ Phiến, Võ Hồng, Vũ Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc…” (32)
Thời Tập
tập 12 ngày 10/10/1974 với chủ đề: Nhà
văn Bình-nguyên Lộc, có các bài của Sơn Nam, Hoàng Văn Bình, Trần Văn Nam,
Cao Huy Khanh.
Sơn
Nam: “Đọc tác phẩm đầu tay của
Bình-nguyên Lộc: Nhốt Gió, tác phẩm
đầu tay của Bình-nguyên Lộc, do nhà Thời Thế in xong ngày 28 tháng 5 dương lịch
1950. Đó là ngày tháng ghi ở phía sau bìa quyển sách. Nhưng đứng về mặt thực tế
mà xét, ta có quyền cho rằng những truyện ngắn, tùy bút trong tập này được sáng
tác trước đó khá lâu, có truyện sáng tác vào những năm 1946, 1947 … Xa tỉnh lỵ,
đến Sài Gòn làm công chức, tác giả vẫn dính liền chặt chẽ về tình cảm với miền
quê. Nhốt Gió chứng minh điều đó. Và
tác giả viết Nhốt Gió với thái độ
nồng nhiệt yêu đời của một người nhớ quê, nhớ dân tộc, theo danh từ thời thượng
của năm 1974 này đó là về nguồn, tình tự dân tộc hoặc tìm về dân tộc. Đã gắn
liền với miền quê, làm bạn với dân quê từ lâu thì tác giả không cần tìm, không
cần quay đầu trở về, như kẻ lạc lối tìm về nẻo chánh. Tác giả có thái độ của kẻ
ngồi bên giòng suối để ngắm nghía kỹ lưỡng từng giọt nước, từng lá cây, ngọn
cỏ, nếu giòng suối là tượng trưng cho quê hương dân tộc. Một người làm bạn với
ngọn suối, tắm suối đã lâu, giờ đây ghi lại những nét đẹp linh động của nắng,
của gió, của bướm hoa. Nhờ đó mà ta thấy rõ ngọn suối hơn … Cứ đọc Nhốt Gió khi nào mình thấy thiếu thốn một chút hương
vị quen thân. Sách chỉ dày có 200 trương, đọc lai rai chừng một tháng là hết,
nhưng thỉnh thoảng đọc lại năm ba hàng, tình cờ, lại thấy vui và mới. Nó giống
như ca dao, những câu ca dao bằng văn xuôi.” (33)
Hoàng
Văn Bình: “Cái duyên của Bình-nguyên Lộc:
Trước hết ông là một người giản dị. Giản
dị trong cốt truyện, trong tâm lý nhân vật và cả trong hình thức văn chương
nữa. Ông không bao giờ nói đến những mộng ước xa vời hay những tư tưởng lớn mà
chỉ bàn đến những chuyện rất thường tình: tình yêu, sự ghen tuông, dối trá, cái
chết, niềm hi vọng… Những nhân vật của ông cũng chỉ là người như bao nhiêu con
người khác sống ngoài đời, không có gì đặc biệt …Đã giản dị và thực tế, ông
cũng là người rất tự nhiên. Việc viết văn đối với ông thật là dễ dàng, y như là
người ta nói chuyện. Mà đúng là ông đang nói chuyện thật, xem chuyện của ông,
ta cứ có cảm tưởng là ông đang hiện diện đâu đó để nói năng đùa cợt với ta …
Người đọc còn nhớ đến Bình-nguyên Lộc vì cái lối khôi hài duyên dáng của ông.
Cũng như những con người thực tế khác, có lẽ ông chẳng mấy khi buồn và lúc nào
cũng sẵn sàng chọc cười thiên hạ. Nếu vạn nhất phải động chạm đến chuyện gì có
vẻ bi đát thì ông cũng chỉ nói phớt qua, coi đó là một điều tự nhiên không sao
tránh được … Nếu xét đến tận cùng tác phẩm của ông, ta phải nói rằng chính nghệ
thuật phân tích tâm lý tinh vi mới xứng đáng cho tài nghệ tiêu biểu của tác
giả. Ông không sành diễn tả tâm lý nhưng lại giỏi phân tích. Quả vậy, dưới ngòi
bút hóm hỉnh của ông, những tình cảm sâu kín nhất trong lòng người đều bị phơi
trần ra với một vẻ khôi hài hết sức … Dường như cặp mắt tinh quái của tác giả
soi mói khắp nơi trong tâm hồn người ta, không chưa một hang hốc nào cả …” (34)
Cao
Huy Khanh: “Bình-nguyên Lộc, nhà văn của
tâm lý đời sống hàng ngày: Từ những truyện ngắn đầu tay (Nhốt Gió, Ký Thác 1959) qua đến loại truyện dài mà cực
điểm là Đò Dọc bên những Gieo gió gặt bão
1959, Quán Tai Heo 1960, Nhện chờ
mối ai 1962, Hoa hậu Bồ đào 1963 … ý hướng sáng tác cốt yếu của
Bình-nguyên Lộc vẫn là một ý hướng thuần nhất: phân tích tâm lý. Nhưng đây là
một thứ tâm lý rất bình dân, rất thực tế vì đó là tâm lý thường tình của đám
dân đã thuộc giới trung lưu khi phải đối đầu với thực tế …Đặc biệt nhất là đề
tài đó lại hướng về một đối tượng chọn lọc: giới dân quê mùa vừa từ quê lên
tỉnh bắt đầu gia nhập nếp sống thành thị mới (tập trung tại đô thành hay ở các
thành thị miền đông Nam Phần). Từ đó tiểu thuyết Bình-nguyên Lộc mang một sắc
thái tâm lý khá kỳ quặc bởi sự pha trộn giữa (cá tính tâm lý) thành thị và thôn
quê khiến nhân vật của ông vừa hồn nhiên vừa thực tế, vừa bình dân vừa gian
ngoa …Bình dân và thực tế, đó là sắc thái văn chương đặc biệt của Bình-nguyên
Lộc nói về mặt nội dung. Nói về mặt hình thức, phải thêm đặc điểm này nữa, là
dễ dãi, quá dễ dãi. Bởi vì hầu như ông
không bận tâm và cẩn trọng đúng mức để
săn sóc đến phần hình thức nói chung của tác phẩm mình … Đến cách kết
cấu thì lộn xộn, bởi sự ôm đồm các tình tiết phức tạp mà thừa thãi, muốn tạo sự
dồn dập gay cấn cho diễn tiến của cốt truyện nhưng lại thiếu sự chọn lọc cẩn
thận và khéo léo các tình tiết nòng cốt nên rốt cuộc câu chuyện thành ra dài
dòng … Có một đặc điểm về giá trị hình thức trong tiểu thuyết Bình-nguyên Lộc,
giúp tác phẩm đạt được quyến rũ, vui tươi và thoải mái, ấy là cái phong thái kể
chuyện đượm đầy hài tính, cái giọng điệu hài hước một cách thong dong và khỏe
khoắn của ông …Thế nhưng nhiều khi giọng văn hài hước đó lại bị tác giả lạm
dụng quá thành ra giỡn hớt bông lơn không đúng chỗ, không đúng lúc … Mọi việc
đều trở thành dễ dãi qua tay Bình-nguyên Lộc, viết văn như một việc giỡn hớt,
đùa cợt cho vui, ngay cả cách đặt nhan đề tác phẩm thật dễ dàng của ông …Bởi
thế, xét về toàn thể thì đến nay một thành công của Đò Dọc (có kết cấu linh động, kỹ thuật thuật sự
song suốt, xây dựng tâm lý ý nhị, hành văn trôi chảy, đối thoại duyên dáng hơn
cả) vẫn không đủ sức để cứu vãn giá trị cho sự nghiệp văn chương thiên về lượng
hơn là về phẩm đó. Nhìn theo quan điểm văn học sử thì sự phê phán giá trị một
nhà văn phải được đặt căn bản trên một sự thẩm định tổng quát và toàn diện
hướng về toàn bộ (nếu không thì cũng là đa số) sự nghiệp của nhà văn đó chứ
không thể chỉ căn cứ trên một vài tác phẩm riêng rẽ không thôi … Cho nên cuối
cùng có thể nói cảm tình mà người ta dành cho Bình-nguyên Lộc có vẻ nay đã
không còn giữ được nguyên vẹn nữa cho giá trị văn chương đích thực xứng đáng
của ông; nhưng phải nói đó là mối cảm tình – điều gì còn lại – dành cho tâm hồn
bình dị và cởi mở, cho thái độ sống thong dong dễ dãi thật đáng mến của người
dân Miền Nam mà Bình-nguyên Lộc đã thể hiện được toàn vẹn qua phong cách làm
văn đặc biệt của riêng ông.” (35)
Có
lẽ nên nhắc thêm một chuyện vui vui. Trên một bài viết, Võ Phiên mở đầu: “Ông Bình-nguyên Lộc quả quyết rằng trong một
bàn ăn mười ba người, gồm mười hai người Việt và một người Hoa, đồng vóc dáng,
đồng trang phục, ngồi im không nói, ông vẫn phân biệt được kẻ Việt người Hoa.
Như vậy đã là tài, nhưng ông còn đi xa hơn: có thể nhìn hình dáng mà phân biệt
được người Tàu Phúc Kiến với người Tàu Quảng Đông, người Tàu tỉnh này với người
Tàu tỉnh khác … Cũng trong quán ăn … tôi có dăm ba lần theo dõi cử chỉ của
người làm bếp , và chợt lấy làm ngạc nhiên vì một nhận xét … Tôi có cảm tưởng
đôi khi có thể nhìn mà phân biệt một người Việt Miền Nam với một người Việt
Miền Trung … Nói cách khác, tôi có cảm tưởng mình cũng … tài giỏi như ông
Bình-nguyuên Lộc: cái mới kỳ cục!” (36)
Năm
1975 Miền Nam sụp đổ, văn nghệ sĩ tan hàng, tác phẩm bị tịch thu, bị đốt, cấm
lưu hành. Thế nhưng các nhà văn “hữu công” cũng không viết được gì! Một giai
đoạn mười năm, mười lăm năm. Phải đợi một thế hệ trẻ xuất hiện, thay thế.
Ở
Hoa Kỳ, từ tháng 5/1986 đến tháng 7/1999 Võ Phiến viết quyển Văn học Miền Nam: Tổng quan. (37)
Bình-nguyên Lộc được nhắc đến ít nhất là 34 lần, có khi là ý kiến của Võ Phiến,
có khi Võ Phiến nhắc lại ý kiến một người khác.
Ngày
trước, Võ Phiến đã viết về Cá tính văn
học Miền Nam, ở đây ông nhắc lại: “Cá
tính văn học Miền Nam là điều không thể phủ nhận, và nó rất hấp dẫn. Sự phát
huy bản sắc Miền Nam là một đóng góp thật quan trọng vào nền văn học Việt Nam.”
(38) Có thể nói tất cả sáng tác của
Bình-nguyên Lộc, Ngọc Linh, Sơn Nam, Vũ Bình, Nguyễn thị Thụy Vũ đều chú trọng
vào nếp sống, vào xã hội, phong tục Miền Nam. Và đó là cả một lãnh vực tân kỳ
phong phú. Chúng ta có Miền Nam từ ba trăm năm, nhưng người Việt miền Bắc, miền
Trung mấy ai biết về đời sống trong Nam trước Rừng Mắm của Bình-nguyên Lộc, Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam? Những sáng tác như thế mở ra trước con mắt của đồng bào
khắp nước một thế giới vừa thân yêu vừa mới lạ biết chừng nào.” (39) “Những Đò Dọc, Rừng Mắm, Ba con cáo,
Hương rừng Cà Mau, Thổ ngơi Đồng Nai, Tìm
hiểu đất Hậu Giang v.v… của họ đã hay, sở dĩ càng hay là vì sự
thưởng thức đầy cảm tình khích lệ của đồng nghiệp Trung Bắc”. (40) Bình-nguyên Lộc cũng có một bộ trường thiên
tiểu thuyết bắt đầu từ 1942, tức bộ Phù Sa, chưa hoàn tất, nói về chuyện mở đất của miền quê ông, cũng là một thứ
lịch sử. Ông xem Phù Sa vừa là cái
mộng lớn thiết tha mà mình cần thực hiện trong đời văn, lại vừa là một món ‘nợ’
tinh thần mà mình cần phải trả. Sự nghiệp trước tác một đời của ông không ngoài
chuyện sinh hoạt chuyện phong tục một địa phương. Đa số các người dân quê được
nối đến trong các tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ, Võ Hồng, Sơn Nam, Bình-nguyên Lộc
đều đáng yêu”. (41)
Võ
Phiến nói đến Bình-nguyên Lộc cả về cuộc sống và về văn chương:
Ông
kể Bình-nguyên Lộc trong số nhà văn Miền Nam làm nghề tự do, viết bài hoặc
trông coi tòa soạn các nhật báo, tạp chí v.v…(42) lấy ngòi bút làm sinh kế duy nhất và cũng sống vững (43), đạo đức, phong cách,
thói quen và thời gian làm việc của Bình-nguyên Lộc thế nào (44), Bình-nguyên
Lộc từ tiểu thuyết gia chuyển sang (46), tác phẩm của Bình-nguyên Lộc được quay
thành phim (47) v.v…
Và
trích lại ý của người khác:
-“Ngu Í nói: Bây giờ, hễ nói đến Miền Nam
thì người ta nhớ ngay đến Bình-nguyên Lộc và Sơn Nam” (48)
-“Hồ Trường An nhớ lại … Khi vào trung học,
chúng tôi xa dần văn chương Miền Nam viết theo văn Nam. Mãi đến khi Đò Dọc của Bình-nguyên Lộc được xuất bản, tôi mới
có dịp trở lại tiếng miền phù sa sông Cửu. Bình-nguyên Lộc, Sơn Nam, Vân Trang,
Hồ Hữu Tường đã làm sống lại ở tôi cái ngôn ngữ hồn nhiên, bộc trực, giàu thổ
âm kia” (49)
Cũng
ở Hoa Kỳ, năm 2099 Thư Ấn quán phát hành bộ Văn
Miền Nam do Trần Hoài Thư sưu tầm, thực hiện. Bộ sách gồm 4 tập, trên 2230
trang, in truyện của 158 tác giả. (50) Tập I, có truyện Đêm Xuân cõng Hoàng đế của Bình-nguyên Lộc, trước đã đăng trên tạp
chí Văn số 146&147 ngày
22/11/1970 (51)
Trong
nước, từ thời “đổi mới” nhiều sách của Bình-nguyên Lộc được in lại. Ngoài những
cuốn được in riêng (như Nhốt Gió NXB
Hội Nhà Văn, Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình-nguyên Lộc
NXB Trẻ … ) năm 2002 Tuyển tập BÌNH-NGUYÊN LỘC do Nguyễn Q.
Thắng tuyển chọn, giới thiệu, NXB Văn Học xuất bản gồm 4 tập trên 3542
trang, tập I in 46 truyện ngắn trong Thầm Lặng, Nhốt Gió, Mưa Thu Nhớ Tằm, tập II in 42 truyện ngắn
trong Ký Thác, Cuống Rún Chưa Lìa, Ma
Rừng và 17 tạp bút trong Những bước
lang thanh trên hè phố của gã Bình-nguyên Lộc, tập III in 2 tiểu thuyết Đò Dọc, Gieo Gió Gặt Bão, tập IV in 3
tiểu thuyết Xô ngã bức tường rêu, Khi Tứ Thức về trần, Tì Vết Tâm Linh.
Tập
I, tiêu đề phần đầu là “Bình-nguyên Lộc,
một bút lực lớn” gồm có: Vài nét tiểu
sử - Tác phẩm (kê tên tác phẩm các loại nghiên cứu, dân tộc học, ngôn ngữ
học, sáng tác) – Nội dung chủ đề tác phẩm của Bình-nguyên Lộc có
nhiều đoạn trích dẫn khá dài – và 2 bài thơ.
Năm 2007 Nguyễn Q. Thắng cho ra bộ “Văn học Việt Nam nơi miền đất mới” NXB Văn Học. Gọi là “miền đất
mới” để chỉ chung “Xứ Đàng Trong” hình như soạn giả muốn tránh hai tiếng “Miền
Nam” coi như “kỵ húy”. Sách gồm 4 tập,
trên 4860 trang, tập họp tác phẩm của 336 tác giả. Ở mỗi bìa 4 có ghi: “Văn
học Việt Nam phát triển trong một hành trình dài kể từ buổi bình minh mở cõi
của tiền nhân ta; trong đó có phần đóng góp không nhỏ của tiến trình văn học
Đàng Trong. Sự đóng góp nhiều mặt đó của Văn học Việt Nam nơi miền đất mới khiến nó trở thành một bộ phận không thể
thiếu đối với văn học Việt Nam; chính nó đã góp phần làm sáng giá cho văn hóa
sử dân tộc. Nó hiện hữu tỏa sáng hồn tính dân tộc tràn đầy như vậy, nhưng từ
lâu nay vẫn chưa có một công trình nào có thể “khải phát” cho khoảng trống đó.
Công trình này là một “phác đồ” nhằm vẽ lại đường đi của hơn năm trăm năm văn
học khởi đi từ Ngọa long cương vãn, Nguyễn triều khai quốc cồng nghiệp diễn
chí, Ô Châu cận lục, Song Tinh bất dạ,
Sãi Vãi, Hoài Nam khúc… đến các tác phẩm
của các nhà văn có mặt tới những năm cuối thế kỉ XX.
Sách
dành cho “Bình-nguyên Lộc với hương gió
Đồng Nai” 71 trang (tr. 1253 – tr. 1323). Đoạn đầu (tiểu sử, tác phẩm)
giống như Tuyển tập Bình-nguyên Lộc,
sau 2 bài thơ, có các truyện: Nhốt gió,
Rừng Mắm, Chiêu hồn nước, Sông Ông Lãnh.
Nguyễn
Q. Thắng không bình luận nhiều về các truyện của Bình-nguyên Lộc, thường chỉ
như là giải thích thêm sau khi trích dẫn một đoạn văn. Chẳng hạn, sau khi giới
thiệu truyện Từ Thức về trần, Nguyễn Q. Thắng viết: “Bao nhiêu ước mơ cùng sự thật ấy
thì chắc chắn tác giả phải giải thích các vướng mắc trong nội tâm, cùng
những hiện tượng của tâm bệnh học và tâm lí con người – nhân vật. Lúc ấy độc
giả mới cảm nhận được; nếu không người đọc sẽ đi vào “mê hồn trận” của tác
phẩm. Có lẽ từ sự kiện đó nên có người cho rằng ông là người “ưa thích sự lý
luận bác tạp rộng về bề mặt nhưng thiếu chiều sâu”. Viết như vậy chắc nhà
nghiên cứu, phê bình chỉ chú trọng về mặt nghệ thuật mà loại hẳn yếu tố nội
dung chủ đề tác phẩm văn chương. Thế cho nên, tác phẩm Bình-nguyên Lộc dầu là
tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo… cho đến thơ, ông cũng rề rà, kể lể ê a như
hầu hết các nhà văn Miền Nam – Nam Bộ - như Trương Vĩnh Ký, Hồ Biểu Chánh, nhất
là Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Trấn gần đây. Nếu nhà phê bình “chịu” đọc tác
phẩm của các nhà văn Nam Kì – Nam Bộ - nói chung - ắt hẳn sẽ không có lời trách
như ông Cao Huy Khanh, Nguyễn Văn Sâm đã viết về Bình-nguyên Lộc như trên.”
(52)
Sau
khi giới thiệu Sông Ông Lãnh: “Có thể nói Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình-nguyên Lộc (in năm 1966) là một tùy bút – tạp bút –
hay, có thể xem nó như một tập kí hoài cảm về Sài Gòn giàu nghệ thuật nhất của
ông” (53)
Nguyễn
Q. Thắng nhắc lại lời Sơn Nam khi đọc Nhốt
Gió, và tán đồng: “Đúng, đọc sách
Bình-nguyên Lộc (nói chung) không phải đọc một hơi, một giờ, một ngày…mà đọc
lai rai tháng này qua năm nọ như Sơn Nam mới thấy được cái tâm, cái hồn của
ông. Và cũng từ đó cảm được nỗi lòng tác giả đã “kí thác” qua từng truyện ngắn
của ông”. (54)
Trong
đoạn cuối phần giới thiệu Bình-nguyên Lộc, Nguyễn Q. Thắng viết: “Những chủ đề Bình-nguyên Lộc đề cập trong
tác phẩm ông là những điều bình thường, thực tế rút ra từ đời sống thực của mọi
người dung tục chúng ta, từ cái ăn, cái mặc, niềm vui, nỗi nhớ… Do vậy, trong
lúc viết cũng như khi bệnh, hoặc vào buổi xế bóng, hay năm hết tết đến, nhằm
lúc ông nằm chờ ngày về thế giới bên kia, ông vẫn khôn nguôi nhớ quê, nhớ nước,
nhớ bánh tráng Biên Hòa, nhớ bưởi Đồng Nai, mít tố nữ, măng cụt Lái Thiêu… nhớ
thịt, nhớ cá, nhớ tôm Việt Nam” ( như trong một thư riêng gởi bạn văn ghi
tháng 1 năm 1987 ở California. (55)
Năm
2015, Nguyễn thị Thu Trang phát hành cuốn “Văn
xuôi đô thị Miền Nam giai đoạn 1954-1975 nhìn từ các giá trị văn hóa truyền
thống”. (56)
Trong Lời
mở đầu, Nguyễn thị Thu Trang viết: “Khái
niệm văn xuôi đô thị Miền Nam giai đoạn 1954-1975 có ngoại diên rộng và cũng chưa được sự đồng thuận của nhiều người từ
cách gọi tên đến việc nhận định, đánh giá. Trong khi chờ đợi sự phân định công
tâm từ các chuyên gia, người viết xin được mượn ý của nhà nghiên cứu Lại Nguyên
Ân tạm quy ước văn học đô thị Miền Nam là các tác phẩm văn học xuất bản tại
Miền Nam giai đoạn 1954 đến 1975 trong vùng đất dưới sự kiểm soát của chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa. Trong chuyên khảo này, người viết chọn cách tiếp cận
văn xuôi đô thị Miền Nam từ mối quan hệ với văn hóa. Đặt trong sự tương quan
ấy, các vấn đề của văn học có khả năng được soi sáng và rộng mở hơn.” (57)
Và trong Kết luận: “Những gì mà văn xuôi
giai đoạn 1954 – 1975 đã đặt ra, có lẽ cũng là vấn đề mấu chốt cần phải giải
quyết hiện nay trong văn học đương đại … Giải quyết thấu đáo những vấn đề nói
trên hoặc có cách tổ chức nghiên cứu quy mô về lịch sử phát triển văn học Việt
Nam giai đoạn 1984 – 1975, sẽ giúp chúng ta nhận thức toàn diện hơn về sự phát
triển và giá trị của văn hóa dân tộc.” (58)
Trên
170 trang sách, trung bình, trên mỗi trang bút danh Bình-nguyên Lộc được nhắc
một lần. Nguyễn Thị Thu Trang suy nghĩ, nhận định về Bình-nguyên Lộc và trích
lại ý kiến các nhà nghiên cứu phê bình khác.
Trước
hết, tác phẩm của Bình-nguyên Lộc nằm trong phạm vi khảo sát của luận án: “Căn cứ vào mục tiêu đặt ra và điều kiện thực
hiện, người viết chuyên khảo này tự giới hạn phạm vi khảo sát vào đối tượng
chính là các tác phẩm văn xuôi được sáng tác và xuất bản tại các đô thị Miền
Nam từ 1954 đến 1975, trong đó trọng tâm là những tác phẩm có khuynh hướng đề
cao, bảo vệ giá trị văn hóa dân tộc (xét từ sự nhất quán trong cảm hứng sáng
tạo đến nội dung đặc điểm nghệ thuật, cách thể hiện nhân vật), như các tác phẩm
của Sơn Nam, Bình-nguyên Lộc, Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Bằng…” (59)
“Sự tiếp xúc về văn chương, văn hóa trong đội
ngũ tác gồm người Bắc và người Nam sau
1954 đã đem lại hiệu quả bất ngờ, thú vị là bản sắc riêng của văn hóa Miền Nam
được khẳng định rõ ràng, cụ thể hơn. Trước đó, một Miền Nam dung dị, chất phác
đã từng có trong văn xuôi đầu thế kỉ XX, nổi bật nhất là trong các tác phẩm của
Hồ Biểu Chánh. Nhà văn Bình-nguyên Lộc ví Hồ Biểu Chánh là “cây cầu” bắc qua
văn chương Miền Nam và cho rằng văn Hồ Biểu Chánh hấp dẫn người đọc vì nhà văn
viết về hình ảnh và nếp sinh hoạt giản dị của đồng quê Miền Nam.” (60) “Suốt hơn 20 năm, từ 1954 đến 1975, văn xuôi
Miền Nam đã vận hành cùng với đời sống con người, gắn liền với hiện thực lịch
sử của một thời. Tác phẩm là sáng tạo của cá nhân nhà văn nhưng sự tồn tại và
giá trị của nó có liên quan đến nhu cầu, nhận thức và đặc điểm thẩm mỹ của
người đọc hoặc là do xu hướng thưởng thức chúng của số đông.” (61)
Thu
Trang nhắc lại cuộc phỏng vấn về truyện ngắn được yêu thích nhất trên tạp chí Bách Khoa hồi năm 1958-1959 do Nguiễn
Ngu Í phụ trách đã tổng kết rằng: “truyện
ngắn Ba con cáo và Rừng Mắm của Bình-nguyên Lộc chiếm tỉ lệ bầu chọn
cao nhất” và nhận định: “Kiểu viết
như Bình-nguyên Lộc tuy không có những cách tân đặc sắc, không gây nên hiện
tượng tranh luận trên văn đàn, nhưng có thể chính cách thể hiện đặc trưng văn
hóa Nam Bộ qua văn chương của Bình-nguyên Lộc vẫn có sức hấp dẫn đối với nhiều
người đọc.” (62)
“Bình-nguyên Lộc là nhà văn nhất quán với
quan điểm cho rằng quê hương bản quán có mối liên hệ bẩm sinh, tự nhiên với con
người như “cuống rún chưa lìa” dù con người đã trưởng thành, đã già hay đang
sống tha hương. Nhiều nhân vật của ông dường như chỉ để minh họa cho quan niệm
này” (63) “Văn xuôi của Bình-nguyên
Lộc không chỉ đem đến “tình đất” thắm thiết, mà còn là lời “đồng vọng” linh
thiêng từ cội nguồn. Con người yêu nước, quý trọng đất đai vì mùi “thổ ngơi
thơm nức” đầm ấm … Tình yêu ấy khó có thể lý giải rõ ràng, nhưng nó tồn tại
trong mỗi con người, dù con người có sống xa nơi chôn nhau cắt rốn của mình.” (64) “Nhân vật của Bình-nguyên Lộc ít khi rơi
vào tâm trạng tuyệt vọng, bởi vì họ biết ứng biến, tự thay đổi để tồn tại. Họ
tin rằng trong cuộc sống luôn luôn vận động, tiếp diễn, bên cạnh giá trị bản
thân mình còn có rất nhiều những giá trị khác.” (65) “Bình-nguyên Lộc cũng chú trọng chi tiết và tình huống hiện thực hơn
là nghệ thuật hư cấu. Cảm hứng của nhà văn nghiêng về những điều tưởng như nhỏ
nhặt trong đời thường nhưng lại quan trọng trong việc tạo nên thế giới tâm hồn
của con người … Nó được gắn với phần chìm, phần ẩn khuất của ký ức, của đời
sống tâm linh bên trong…” (66)
Thu
Trang cũng nhắc lại nhận xét của Vũ Hạnh trong “Điểm sách Ký Thác của Bình-nguyên Lộc” (Bách Khoa số 82 ngày 1/6/1960): “Tác giả lo lắng cho nội dung hơn là hình thức và ông thường tỏ ra không
câu nệ bất cứ là ai phải lên sân khấu, miễn là kẻ ấy nói giùm cho câu chuyện”. (67)
Và nhận xét trong Tự điển văn học bộ mới:
“…Xuất thân từ Miền Nam, nhưng đối với
những nhà văn gốc Nam, Bình-nguyên Lộc giữ một địa vị đặc biệt, không theo Bắc
hoàn toàn như Đông Hồ, và cũng không giữ nguyên đặc chất Nam Kỳ của Hồ Biểu
Chánh, Vương Hồng Sển… Bình-nguyên Lộc biểu hiện sự giao lưu văn hóa Nam – Bắc
trong truyền thống lịch sử và trong ngôn ngữ”. (68)
3.- BÌNH-NGUYÊN LỘC TRONG LÒNG TÔI
Quê tôi, huyện Sơn Hòa, một huyện miền núi của tỉnh Phú Yên. Suốt thời Hán học
chỉ có 2 vị đậu Cử nhân, thời quốc ngữ cho đến năm 1945 chưa có một người đậu
bằng Trung học. Chín năm chiến tranh Việt Pháp (1945-1954) chưa có trường cấp
II, một nửa huyện bị tàn phá, tiêu thổ. Huyện lỵ (hồi ấy chưa gọi là thị trấn)
hồi sinh từ năm 1955, tôi sống ở đó được 2 năm rồi rời xa nó đến 18 năm sau mới
trở lại. Hai năm ấy (1956-1957) đã ghi khắc vào lòng tôi những nét sâu đậm bởi
tôi được tiếp xúc với bước khởi đầu một nền văn học mới, ngày nay nhiều người
gọi là Văn học Miền Nam.
Tuổi sơ học, tôi chỉ đọc phần “Tạp loại” (gồm thơ và truyện cổ) trên Giáo Dục tạp chí (Nha Học
chánh Đông Dương), rồi không biết ở đâu lạc vào nhà quyển Lâu đài họ Hạ (về sau mới biết tác giả và dịch giả) và bài thơ Tiếng địch Sông Ô chép tay (cũng chưa
biết tác giả). Những năm đi học (ở đồng bằng) nhà thầy Hiệu trưởng có mấy bồ
sách (sách từ thị xã chuyển về, không đủ tủ, đựng trong mấy bồ góc) tôi đọc khá
nhiều tác phẩm xuất bản trước năm 1945, của Tự Lực văn đoàn, Phổ Thông bán
nguyệt san, Tân Dân, Sách Hồng, Truyền Bá và nhiều sách không biết của nhà xuất
bản nào. Tôi đọc Lê Văn Trương, Lan Khai, TchyA, Nhượng Tống, Nguyễn Triệu
Luật, Nguyễn Công Hoan, Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài v.v...
nhiều tác giả không nhớ tên, cũng trong thời gian này. Năm 1952 đọc Tập
văn Cách mạng và Kháng chiến dày cộm, có truyện của Hồ Phương, Kim Lân… thơ
Phan Khôi, Thôi Hữu…bài thơ Đèo Cả chỉ có đoạn đầu, ghi tác giả là “Hữu” (không
có Loan), đọc những tác giả Liên khu V như Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Viết Lãm,
Nguyễn Thành Long, Nhật Tĩnh, Phạm Hổ, Hồ Thấu… Bây giờ (1956-1957), không biết
do nguồn tài trợ nào, từ đâu, Chi Thông tin quận luôn luôn nhận được, nhật báo Cách Mạng Quốc Gia, các tạp chí Mùa Lúa Mới, Ý Dân, Lành Mạnh, Sinh Lực…
và sau là Bách Khoa. Trưởng chi Thông
tin lúc đầu là ông Hà Sĩ Trung (nhà văn Sĩ Trung) sau là một người Bình Định
(học trò thi sĩ Lam Giang). Cả hai vị đều cho tôi thủ đắc toàn bộ những sách
báo mà tôi thấy thích, thấy cần. Tôi đọc Võ Phiến, Đỗ Tấn, Tiểu Hứa Do trên Mùa Lúa Mới, đọc Tô Kiều Ngân trên đặc san Lửa Thiêng… Đọc Bình-nguyên Lộc ở báo nào không nhớ nữa, cũng được nghe giải thích là “Con Nai Đồng
Bằng”. Lúc ấy có một tác giả bút danh Bình Sơn Lộc, với bài phê bình sách. Bút
danh Bình Sơn Lộc chỉ thấy hai lần, rồi thôi, tan biến vào hư không. Cuối năm
1957 xuống núi, ở thị xã lần lượt có dịp đọc nhiều hơn, Văn Hóa Ngày Nay, Tân Phong, Phổ Thông, Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ Hai
Mươi, Thời Nay, Văn, Vấn Đề v.v… Đọc và viết. Như vậy, có thể nói tôi đã
theo dõi được tiến trình văn học Việt Nam thời quốc ngữ, từ tiền chiến, qua
kháng chiến đến đương đại.
Hai tạp chí tôi đọc thường xuyên là Bách Khoa và Văn (tiếp
theo là Phổ Thông, Thời Nay) nhưng sáng tác của Bình-nguyên
Lộc đăng ở đây không nhiều, ít hơn những bài biên khảo của ông nữa. Trên Bách Khoa chỉ có 3 truyện ngắn, 1 tùy
bút, trên Văn có 9 truyện ngắn, 1 tùy
bút, 1 tạp bút (69). Vậy đọc Bình-nguyên Lộc là gặp đâu đọc đó, cả những quyển
in bìa đen trắng, trên bìa chỉ có bút danh tác giả và tên sách. Như thế, những
điều đọng lại trong lòng tôi cũng dàn trải, rải rác, thật nhiều mà cũng khó
lòng gom lại, sắp xếp thành hệ thống.
Tôi luôn luôn luôn nghĩ rằng văn chương tác động vào lòng
người một cách “trực tiếp”, thơ còn thêm tính cách “tức khắc” nữa. Thiếu hai
tính cách ấy, đợi có người giảng giải phân tích mới cảm nhận được, thì thưởng
thức văn chương không còn gì thú vị nữa. Cho nên tôi không mấy khi chịu nghe
theo sự hướng dẫn của các nhà lý luận, phê bình. Mua một quyển sách có “Lời
giới thiệu” trang trọng phía trước, dù người giới thiệu là ai đi nữa, tôi cũng
xếp phần ấy lại, có khi còn dán kín hẳn. (70)
Nhưng tôi cũng không thích những tác phẩm mà sự rung cảm qua
vài giây phút bay bổng mất tiêu. Như lập luận trong Xuân Thu nhã tập, một tác phẩm do tác giả làm ra (có vần có nhạc
chẳng hạn) chưa phải đã hoàn chỉnh, chỉ ở giai đoạn phôi mầm. Phải có ít nhất
là một độc giả thưởng thức, tác phẩm được tái tạo, và những vần những nhạc
những thanh ấy mới thành một bài thơ.
Cho dù là đọc một đoạn “tạp ghi”, tôi cần được tham gia tái tạo bằng những suy
nghĩ, tìm hiểu, liên tưởng, có khi tra cứu tư liệu, trao đổi với bằng hữu… Hơn
nữa, tôi phải soi thấy hình bóng chính mình trong đó, chứ không phải như những
cư dân Xóm Cầu Mới trong tiểu thuyết
của Nhất Linh, ngày ngày nhìn thấy cô Mùi, họ biết cô Mùi đẹp, kính trọng phong
cách đoan trang hiền thục, nhưng không thể yêu mến, cảm thông, vì cô Mùi là
người của cõi xa lạ, từ biệt thự thâm cung đi ra rồi đi vào, trầm lặng, hững
hờ. Có lẽ ngót bốn mươi năm rồi, tôi không đọc tác phẩm của các “đại gia văn
học”, ở đó toàn các “cô Mùi”, còn tôi là tên dân nghèo của Xóm Cầu Mới.
Nhân dịp được tham gia cuộc hội thảo này tôi mới hỏi tôi:
Vậy ta đọc Bình-nguyên Lộc thế nào? Câu hỏi ấy, sáu mươi năm nay tôi chưa hề
đặt ra, có lẽ vì nó là sự tự nhiên trong tâm thức do quý mến ông, tôi đã không
biết tới, không cảm thấy.
Chợt nhớ, chợt nghĩ thì Rừng
Mắm là truyện đầu tiên hiện ra. Trước đây, tuần báo Nghệ Thuật đã tặng Sơn Nam danh hiệu “người chép sử khai hoang”, đúng vậy, qua Hương Rừng Cà Mau ta thấy rõ cả một thời kỳ biết bao gian khổ của
ông bà. Nhân vật của Sơn Nam có sức chịu đựng thật đáng nể, chỉ qua một mùa len trâu cậu bé hiền lành kia đã trở
thành một chàng trai dày dạn, biết hút thuốc và chửi thề. Nhưng thằng Cộc của
Bình-nguyên Lộc thật dễ thương. Cộc còn ngây thơ lắm, thời gian của nó là trời
cho vô tận, cứ yên lặng mà nhìn ngắm những con chim thằng chài, chim thầy bói
để tha hồ nghĩ đến những năm tháng cũ, nghe thèm người hơn là thèm ăn trái
xoài, trái khế, cục đường, đã năm năm không được nếm. Mang mang trong ảo ảnh
khói sương, Cộc nhớ đến con Thôi, không thuộc giọng, không biết câu hò cũng mơ
ước được đối đáp với con Thôi. Cộc nói láo nhưng nói láo không có sách khi trả
lời mẹ đi lượm lông chim lông ô, đời này đâu còn nữa. Là vì loài chim lông ô ấy
dẫu nó chưa biết đã ăn nhập sâu xa vào trí óc. Truyện có sáu nhân vật, tôi chỉ
biết thằng Cộc, nói cho chuẩn hơn, hạt
nhân là thằng Cộc tan loãng bềnh bồng trong không gian có nhiều loài chim, có
rau bồn bồn, có những đám ruộng mười công đất gặt được tám giạ lúa. Không gian
ấy mở rộng với niềm tin số lúa thu hoạch được sẽ là hăm lăm giạ, với mấy loại
rau thơm trồng trên bốn miếng vườn cao cẳng tí hon, với hi vọng năm tới gieo
giống lúa tầm vuột chắc được gạo hơn, chuối trổ buồng là trồng sả trồng ổi
được. Không gian ấy trở thành bao la với Rừng Mắm. Liệu thằng Cộc có hiểu hết
lời ông nội? “Phù sa là đất bùn mềm lũn
và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng, nếu không có rừng mắm mọc
trên đó cho chắc đất. Một khi kia mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi nó.
Rồi sau mấy đời tràm, đất thuần, cây ăn trái mới mọc được. Ông với lại tía con
là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là đời tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút
ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Đời
mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục
cho kẻ khác là con cháu họ hưởng.”. Cộc hiểu lời ông nội, nó than “tràm buồn quá”, nhưng nó chợt vui khi
biết “gì chớ chè thì sẽ có lu bù”, rồi lại lo “cưới vợ làm sao được, ai thèm về Ô Heo!.”.
Tôi nghe văng vẳng mà rõ ràng những câu hò: “Tháng ba cơm gói ra hòn. Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai.”. Từ những loài chim
trong Rừng Mắm tôi biết thêm nhiều
loài nữa trong Tìm hiều đất Hậu Giang
của Sơn Nam, từ chiếc ghe cui tôi biết thêm chiếc ghe hầu (qua Nguyễn Hiến Lê,
Nguiễn Ngu Í), lại xem xét về thời tiết tháng ba ở nơi này, cơm gói có là cơm
vắt, hòn là hòn gì, ở đâu, và trứng nhạn, và hang mai, hay Hang Mai? Những câu
hò Nam Bộ lồng lộng gió trời, nhẹ hẫng mà bâng khuâng không cho tôi thoát khỏi
“phù sa”, hai tiếng ấy hình như chẳng bao giờ xa rời Bình-nguyên Lộc. Cả khi
được phỏng vấn về hiện tượng sách dịch phong phú đa diện, Bình-nguyên Lộc lạc
quan cho rằng đó là “phù sa đưa đất màu tới đồng bằng văn chương của ta.”
(71).
Còn câu “Rồng chầu ngoài
Huế, ngựa tế Đồng Nai” tôi nghĩ xuất phát tự Thừa tuyên Quảng Nam là các tỉnh
Nam Trung Bộ theo bước lưu dân vào tận “xóm Ô Heo”. Li Tana cho rằng, Trịnh
Kiểm chỉ có ý tống khứ một địch thủ, nhưng đã “cho không” Nguyễn Hoàng cả một quốc gia. “Và một chuỗi các sự kiện diễn
ra đã làm thay đổi toàn bộ lịch sử Việt Nam nói riêng và lịch sử Đông Nam Á nói chung” (72). Từ khi trở thành
Tổng trấn Thuận Quảng, Chúa Tiên đã nhận rõ ở đây, sẵn vàng sắt, giàu cá muối,
là nơi Trời dành cho người anh hùng dụng võ. Cái mộng riêng núi riêng sông ban
đầu của Người từ sông Gianh đến núi Đá Bia đã hoàn thành. Và các Chúa kế thế
với các bậc công thần trung dũng đã tiếp tục sự nghiệp. Người dân Thừa tuyên
Quảng Nam lúc ấy không biết cõi Bắc Hà tức Xứ Đàng Ngoài xa xăm, không biết
Thăng Long ngàn năm văn vật, không biết tứ trấn, đi ra chỉ biết đến chính dinh
Phú Xuân là phủ chúa phủ vương đường bệ rồng chầu, đi vô chỉ biết đến Đồng Nai,
nơi tập họp những anh hùng hảo hớn đường dài ngựa tế. Hơn nửa thế kỉ sau khi Phù nghĩa hầu Lương
Văn Chánh vượt qua Cù Mông, Hùng Lộc hầu có đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa từ
Phú Yên thi hành sứ mệnh lịch sử Thuận Thành. Đồng Nai chỉ còn là gang tấc. Nối
tiếp truyền thống phụ thân, Nguyễn Hữu Cảnh mở đất Sài Gòn: Nhà Bè nước chảy chia hai. Ai về Gia Định
Đồng Nai thì về…Tầm
mắt người dân “Thừa tuyên Quảng Nam” bây giờ bao quát cả cõi Nam Hà không phải
chỉ giới hạn từ Hoành Sơn đến Thạch Bi Sơn mà: Rồng chầu ngoài Huế. Ngựa tế Đồng Nai…Cùng với cả Xứ Đàng Trong,
những người dân Thừa tuyên Quảng Nam từ đây góp nhiều công lao, cả máu đào, tâm
trí, sức lực cho đại cuộc của Tổ Quốc từ Nam Quan tới Hà Tiên…
Hà Tiên được nhắc đến trong bài vè cô Quá hát
mỉa mai các chị (Đò Dọc): “...Bậu lỡ thời như ớt chín cây. Ớt chín cây
người ta còn hái. Bậu lỡ thời như nhái lột da. Nhái lột da người ta còn bắt.
Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên. Giặc Hà Tiên người ta còn đánh. Bậu lỡ thời như
bánh trôi sông v.v ...”. Ở quê tôi, chỉ nghe: “... Ớt chín cây người ta còn hái. Bậu lỡ thì như vãi đi tu. Vãi đi tu người
ta còn cúng. Bậu lỡ thì như thúng lủng trôn. Thúng lủng trôn người ta hốt rá
v.v...”. Lịch sử Hà Tiên còn mới quá, tôi phải đi tìm giặc Hà Tiên là giặc nào, vào thời điểm nào?
Đất Trời, Sông Núi Phương Nam đã “trả công” cho các thế hệ
“mắm” và “tràm” những cánh đồng mút mắt, làm chơi ăn thiệt, ban cho họ cả tấm
lòng yêu thương rộng mở, không so đo, tính toán, chỉ cân nhắc điều thiện, đem
kết quả tốt đẹp cho người khác. Trong Thám
hiểm lòng người Cô Năm, người cho thuê phòng trọ, nấu cơm tháng khẳng định
việc phải thương người: “Người bậy cũng thương để họ cảm mến mà cải
ác tùng thiện.”. Đến kẻ trộm cũng có lương tâm. Ba Khện là một kẻ trộm, mới nghe tên đã thấy ngán rồi.
Nhưng anh ta ăn trộm là để kiếm tiền xài tết,
không mảy may có ý định sát nhân. Anh ta chỉ dọa thằng chăn để nó không
cản trở công việc, bắt cóc nó đi một đoạn để khỏi bị tố cáo sớm, bịa ra một lý
do rất cấp thiết là rước bà mụ cho vợ sanh khi qua các điếm canh. Dân canh
chẳng những không bắt anh dừng lại hỏi han mà còn giục đi mau và chúc lành. Rồi
anh phải đương đầu với một người đi rước thầy rắn cho bà mụ, ông thầy rắn ấy
chính là Xã Tần người vừa bị Ba Khện ăn cắp xe và bò, bà mụ bị rắn chính là bà
mụ anh ta mới nói đến. Cái cảnh “hai con
bò cứ máy móc chẫm rãi bước đi chầm chậm
trong khi trên xe, hai người lạ mặt đánh nhau, vật nhau, dưới một bầu trời sáng
sao”, cứ y như là phim cao bồi Mỹ,
quay thành phim, chiếu lên, chắc bon trẻ con (lứa chung tôi thời ấy) vỗ tay bể
rạp. Hai người, không muốn hại nhau, đều muốn thắng và cần thắng. Nhưng khi vật
ngã kẻ kia xuống, đạp chưn lên bụng hắn, lương
tâm kẻ trộm (nãy giờ chưa ngủ)
vùng dậy thật tỉnh táo, Ba Khện nói: “Mầy
là láng giềng biết thương chòm xóm,
tao định tha mầy lúc mầy bắt đầu tấn công, giờ nghe vậy , tao còn ưa tha mầy
hơn. Vậy, cứ quày xe lại rồi quất bò mà
cho nó nhảy, kẻo không kịp. Tao cho mầy luôn chiếc xe và đôi bò này, nếu mày
giữ được, không bị người khác giựt như mầy đã muốn giựt của tao. Thôi chúc mầy
bình yên vô sự dọc đường và chúc bà mụ Dậu tai qua nạn khỏi”. Nói rồi anh Ba nhảy xuống xe, lủi vào bụi. Người đọc ngạc nhiển không kém gì anh chàng
đi rước thầy rắn và tự tưởng tượng mọi tình huống bi hài kết cục khi anh ta
đánh xe bò đến nhà Xã Tần, trước khi cả hai hiểu rõ đầu đuôi sự việc.
Khi thất tình, thi sĩ Tạ Ký viết: “Người ta cười anh dại. Yêu không
tính thiệt hơn. Yêu mà lời với lãi. Còn chi là tâm hồn”. Nhân vật của Bình-nguyên Lộc cũng thế. Anh Tư
Được đang làm công nhân trên một chiếc phà máy ở Cần Thơ, nhìn mãi tấm bảng
quảng cáo kem đánh răng vẽ một người đẹp, hình ảnh in sâu vào tâm hồn và đâm ra
yêu say đắm người ấy. Tư Được bỗng nhiên làm một chuyện “trời ơi” là bỏ nghề,
lên Sài Gòn học chạy xích lô máy để tìm người đẹp. Quả là đáy biển tìm kim
nhưng Trời Đất đã không phụ lòng anh đã cho anh hai lần gặp người đẹp. (Có thật
không, có đúng không, nào ai biết được, dù chính anh nhất quyết đó là “người
đẹp ven sông”.). Lần thứ nhất anh bị người đẹp mắng và hăm dọa, lần thứ hai thì
thần tượng sụp đổ. “Anh kêu trời thầm lên
một tiếng, nấc mấy cái rồi khóc òa … Anh yêu người đẹp một cách cung kính như
tín đồ Phật Giáo yêu Đức Bà Quan Âm. Nhưng tác phong của người đẹp mà anh tình
cờ bắt chợt, đã gây một sự sụp đổ ê chề nơi lòng anh. Tượng Đức Bà Quan Âm mà
anh chiêm bái bao lâu nay, bỗng dưng ngã xuống, và anh xem lại thì tượng làm
bằng một thứ nguyên liệu bẩn thỉu vô cùng …”. Tư Được ra khỏi cơn ác mộng,
bò Sài Gòn về quê. Ngoài đời có một người yêu đương đến mức độ “điên khùng quá
quắt” như vậy sao? Hay chỉ có trong tác phẩm của Bình-nguyên Lộc (Người đẹp ven sông) để chứng minh cho ý tưởng của tác giả: “Khi ái tình thanh cao quá và người ta yêu cao quý quá, tình yêu biến
thành một tín ngưỡng gần ngang hàng với bất kỳ tín ngưỡng đứng đắn nào”.
Tấm lòng Tư Được càng nhân hậu hơn khi qua bắc Basac nhìn tấm bảng vẽ người đẹp
ven sông khuôn mặt trốc nước sơn, loang lổ nhiều nơi, miệng như đang mếu, anh
không oán giận gì, thầm hỏi: “Phong trần
nơi bến bắc chà đạp chơn dung của nàng làm cho nàng buồn, hay phong trần của xa hoa chà đạp đời nàng
khiến nàng đau?”. Và anh thầm nghe tiếng người đẹp vọng theo: “…Chẳng qua đời là thế đó thôi!”.
Là một người dân quê, nhưng tâm hồn Tư Được đầy ắp chất lãng
mạn, đó là chất “lãng mạn chân tình”. Và tuy là một người dân quê Tư Được sinh
ra và lớn lên trong không khí của nền giáo dục Nho phong. Bên cạnh Tư Được, chỉ
riêng tập Thầm Lặng (sách đen trắng),
lật ra tình cờ, gặp ngay cô Diệu (trong Rắn
cắn làm phước) “Trả Nghĩa (nhân
vật trong truyện) lại cho đời, còn nguyên
vẹn là anh con trai”, cô Hồng (trong Đứa
con đủ tháng) đều vị tha, cao cả. Còn như ông Tư Khăm và cô Út liên kết với
nhau “thí một con chốt hốt một con xe”,
những ghe dưa kia sạt nghiệp là do họ mê gái chớ có ai bắt ép đâu, đến giờ chót
ông mang dưa lên chợ kêu nhà nghèo tới bố thí, giả hay thật cũng là “làm phước để bớt tội với trời đất.”. Nói
cho đúng, thì cái tính cao thượng đậm chất lãng mạn chân tình, nho phong đồng
ruộng ấy là của Bình-nguyên Lộc.
Đọc Bình-nguyên Lộc tôi thấy lòng vui, dẫu gặp cảnh buồn vẫn
ẩn hiện một chút vui nhẹ nhàng của kỉ niệm. Theo “những bước lang thang trên hè phố” của ông, gặp ngay “những hàng me Sài Gòn”. Chưa hết trọn
bài đã nghe (ở đâu trong tiềm thức) tiếng cười khúc khích tự trào: “Sài Gòn ne, ăn me ỉa chảy”, rồi lời thơ
tiếng hát của những “ai ra đi nhớ hàng me
già” và những ai tạm thời sống cảnh vô gia cư tự nhận là “người Việt gốc me”. Thời trai trẻ, từ
Miền Trung mỗi lần vào Sài Gòn tôi vẫn thích đi dưới những tàn me, nhìn những
chiếc lá nhỏ rụng theo chiều gió thấy Sài Gòn “đời” lắm, ta hòa nhập vào Sài
Gòn làm một cá nhân trong khối nhân sinh đông đảo không bị ngăn cách phân biệt.
Cây me có phải là “thực vật tương tự” của những cây phần, cây thông, cây bàng,
cây mù u trong thơ ca? Tôi lại liên tưởng về làng quê, thương nhớ cây me già
trong vườn sau nhà mỗi buổi chiều xếp lá chờ giấc ngủ…
Tiếp
theo là Sông Ông Lãnh. Tây đặt là Rạch Cắc Chú hay Aroyo chinois? Chinois đâu phải là Cắc Chú (Các Chú, Khánh Trú).
Tôi nghiệm ra sự gần gũi giữa quan và dân Nam Hà (Đàng Trong). Người dân quên
các vị ấy là “quan”: Cảm thương ông Hậu thủ thiềng, cù lao Ông Chưởng, sông Ông
Lãnh, vườn Ông Thượng… khác với Bắc Hà: Ô
Quan Chưởng. Không thích thú sao, khi biết “từ mười mấy năm trước, chiến tranh đã đẩy lên Sài Gòn nhiều nữ trạo phu chuyên chèo xuống bằng hai cây chèo một lượt.
Trước kia chỉ ở Hậu Giang, người dân mới biết chèo lối đó thôi. Dân Sài Gòn và
dân Miền Đông ít khi được thấy xảo thuật ấy: lối đẩy mông đá cẳng mỗi bận cất
hay hạ mái chèo đôi…”. Bình-nguyên Lộc kể: “Một bạn văn gốc ở Hà Nội, anh Nguyễn Đức Quỳnh nói: “Người Sài Gòn quả
thật lười, ăn gì cũng muốn làm sẵn sàng tất cả, chỉ còn mỗi một việc nhỏ là bỏ
món ấy vào miệng thôi; đu đủ thì gọt sẵn xắt ra từng miếng, mía thì ép xác lấy
nước”. Bạn ấy quên rằng người Sài Gòn chúng tôi lại lười nghĩ nữa. Rao món quà,
họ bắt phải rao lên tất cả thành phần của món ấy, quà nấu bằng mấy mươi thứ
phải kể hết cho họ nghe. Nhờ cái lười ấy mà ta có một điệu nhạc bột khoai kỳ lạ
kia.” . Dân Sài Gòn lười chăng?, Nguyễn Đức Quỳnh và Bình-nguyên Lộc ỷ chỗ
thân tình nói vui. Đó là sự chu đáo, tận tình. Như các đoàn sinh Quốc Anh đoàn
khi nghe cấp trưởng hô Phụng Sự liền
đập bàn tay phải lên trái tim, giơ ra trước, đồng thanh đáp lại Sẵn Sàng.
Nhân vật của Bình-nguyên Lộc thường hay hát nghêu ngao. Cô
Út sử dụng giọng ấm mà trong, lúc thì ca vọng cổ, lúc thì hò, với mưu thâm Thí một con chốt hốt một con xe. Trong Đò Dọc, ông Nam Thành ngâm
thơ, bà Nam Thành hát điệu ru con, cô
Quá gõ vào chén đánh nhịp bài “tân nhạc” Ai
đi trên con đường thiên lý sương sa mờ, cô Hồng lấy tiếng kêu của lũ ễnh
ương nhại theo Hòn vọng phu: Uềnh oang,
Uềnh oang, Uếnh… Uênh oàng… Trong Thám
hiểm lòng người, ông Phán Ca kể vắn tắt sự việc phiền hà bằng câu hát.
Trong Ba con cáo, những đêm mưa “con
hồ ly” không đi kiếm ăn được ngồi bó gối rên rỉ “Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng…”, giây phút yêu đời
“con cáo đực” nằm ca sáu câu mùi mẫn “Cảnh
vị nhân sầu, xơ xác ngọn vi lau, nước triều mênh mông chảy…”. “Nhà văn”
Quỳnh (truyện Lầu 3 phòng 7) tự đặt
lời cho bản nhạc Bên sông vắng của Tạ
Tấn. Trong Còn Yêu có tiếng hát dưới
giàn bầu, bên nọc trầu. Trong Xe lửa Mỹ
bung vành có tiếng ru con từ một ngôi nhà lá lụp xụp và bác xếp ranh cũng
ngâm… ca dao. Nhộn hơn nữa, một chàng kia làm rể Hoa kiều, ăn cháo khuya quen
rồi, vui vẻ nắm tay cha vợ mà hát: “Ngộ ở
bên Tàu, ngộ mới sang đây…”. Một số không ít nhân vật của Bình-nguyên Lộc
là Hoa Kiều. Cách nói tiếng Việt chưa sành của họ cũng như cách nói tiếng Tây
bồi ba-rọi góp thêm phần trào lộng cho trang sách để ta vừa đọc vừa chúm chím
cười.
Bên cạnh cũng lắm chuyện đau thương. Đau thương, chứ không phải
là buồn. Vui và buồn cùng một hệ thống, vui ít là buồn, buồn ít là vui. Nhưng
đau thương nằm ở một lãnh vực riêng. Nó giết chết hết những vui, những buồn,
khiến ta không còn ý thức được tình cảm của mình nữa. Số phận của những con
Nhộng (truyện Má ơi, má!), anh Nhánh (truyện
Không một tiếng vang), những người chuột cống và nhiều người nữa là
những số phận đau thương. Xin cứ để cho những giọt nước mắt tự nhiên đầy tròng,
và có thể lăn xuống gò má, rơi vào trang sách. Đừng vội lau đi. Trước những nỗi
đau thương như thế, nỡ nào ngăn cản nước mắt, dù ta có muốn khóc đâu?
Có người cho rằng cách dẫn chuyện của Bình-nguyên Lộc hơi dễ
dãi. Có thể đây cũng là một góc cạnh của phong cách Nam Bộ. Cổ văn Miền Bắc
không tả chi tiết việc thi cử. Trong Truyện
Kiều, “Chế khoa gặp hội trường văn.
Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một
ngày”, rồi “Vâng ra ngoại nhậm Lâm
Tri. Quan sơn nghìn dặm thê thi một đoàn”,
ta hiểu vắn tắt: Kim Trọng có vợ, có con, thi đậu (Cử nhân) và đi làm quan,
chuyện dông dài là mối tình với Thúy Kiều, chàng luôn lo lắng tìm hiểu và có ý
định từ quan. Trong Truyện Vân Tiên, họ
Lục lần đầu đi thi, trúng ngay khôi khoa, đậu Trạng nguyên, lúc ấy giặc phủ vây
quan ải. “Sở vương phán trước ngai vàng. Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong. Trạng nguyên tâu trước bệ rồng: Xin dâng một
tướng anh hùng đề binh.”. Ông tân
Trạng được tin cậy quá sớm, vừa thi đậu, chân ướt chân ráo bước vào hoạn lộ đã
được cử đi đánh giặc (các vị cựu thần đâu rồi?) và đề cử Hớn Minh (anh chàng phạm
tội đang lẩn trốn, không có bằng cấp gì hết) làm Phó tướng được chuẩn y
ngay. Chuyện đó có thể cho qua. Xét mặt
khác, cụ Đồ Chiểu là người uyên thâm Nho học, con một viên chức hành chánh, tất
nhiên am hiểu tường tận việc thi cử, sao để Lục Vân Tiên đi thi một kỳ là đỗ
Trạng nguyên? Giống như trong những truyện thơ bình dân khuyết danh vậy? Các
tác giả bình dân không cần phân biệt ông Trạng, ông Thám, ông Cử, ông Tú, thi
Hương, thi Hội, thi Đình, hễ người giỏi đi thi là đỗ Trạng ngay, Trạng hai ba
nước, được vua gả công chúa nữa. Thế cho bõ những ngày khổ cực. Cụ Đồ Chiểu
không phải không biết luật lệ thi cử, nhưng chuyện đó không quan trọng, cụ sẽ
cho giặc Ô Qua tái phát chiến tranh để Lục Vân Tiên trổ tài vũ dũng (ta mới
biết qua trận đánh Phong Lai, nhưng đó là bọn cướp đường, kể chi) nếu đợi Vân
Tiên đi thi đến mấy kỳ, rồi Vân Tiên làm quan, thăng tiến dần lên, mất thời
gian quá, diễn biến mất kịch tính, thôi thì điều thiếu hợp lý coi như nhỏ nhặt,
cứ cho qua, để Vân Tiên kịp lập công.
Lớp hậu duệ của cụ Đồ Chiểu, những Bình-nguyên Lộc, Hồ Hữu
Tường cũng dẫn chuyện như vậy. Hồ Hữu Tường (hơn Bình-nguyên Lộc bốn tuổi)
trong tiểu thuyết Thuốc Trường Sanh
đã cho cặp vợ chồng giả Bác sĩ Tâm và Tuyết Lê đêm đêm mật đàm với nhau bằng
cách người này bấm ngón tay trên da thịt người kia. Không phải họ chỉ nói một
hai từ mà trao đổi cả những vấn đề quan trọng, hàng tiếng đồng hồ. Tài tình đến
thế! Lúc nhỏ, tham gia Quốc Anh đoàn, chúng tôi có được học các cách truyền tin
để tham dự “trò chơi lớn”, học năm trầy bảy trật mới thuộc các dấu hiệu “tích te”,
truyền tin bằng còi, nghe còn dễ nhận, truyền tin bằng cờ, phất lên phất xuống,
nhiều khi phải xin bạn đánh lại. Tuy vậy, cũng chỉ là “lệnh ngắn”, bảo đi chỗ
này, tìm chỗ nọ, tiến hay lui, thế thôi. Đàng này, Bác sĩ Tâm và Tuyết Lê bàn
nhau về chủ nghĩa, về thời cuộc, về chuyên điều chế thuốc trường sanh. (73) Họ
giỏi thật chăng? Không, họ không giỏi, ông Hồ Hữu Tường phịa ra chi tiết này để
cho họ có dịp mật đàm với nhau khi đang bị theo dõi ngày đêm đó thôi. Vậy, đọc
Bình-nguyên Lộc thấy có những chỗ có thể hơi phi lý đừng thắc mắc. Chỉ là cái
cớ cần có để dẫn chuyện, ta cứ theo câu chuyện mà đi, không nên dừng lại, hỏi
lui hỏi tới. Ngày xửa, ngày xưa… cụ Đồ Chiểu đã dẫn chuyện như vậy, hãy coi đó
là “truyền thống Nam Bộ”, chấp nhận với Hồ Hữu Tường, Bình-nguyên Lộc. Nói như
Võ Phiến: là do “Họ bay đuổi theo sự tưởng tượng phơi phới…” (74)
Tôi
đọc Bình-nguyên Lộc không theo cách đọc suông. Đâu phải đọc để dỗ giấc ngủ, dù
giải trí cũng phải động não mới hay. Đó là thói quen của tôi, chứ thật sự tôi
không cố gắng, không bắt buộc. Nhiều truyện, đến dòng cuối cùng, gấp sách lại
hay vẫn để mở đó, cảm thấy một nỗi bâng khuâng, tôi đặt câu hỏi: Bên trong cái
vẻ không có gì của truyện này là cái gì? Tôi lần lượt đưa ra câu trả lời, không
phải là triết lý, vì tôi vốn kém về triết học, chỉ hướng theo lẽ phải, theo sự
thường, ta nhận được điều gì ở đây? Những nhân vật của Bình-nguyên Lộc, giàu
nghèo sang hèn, tốt và xấu, đều là cư dân của Xóm Cầu Mới, như tôi.
Bên ngoài thì tôi thường có sự liên hệ giữa đời thường và
tác phẩm. Quê tôi, vào mùa hè người ta hay đốt núi, đúng ra là đốt những giồng
đồi tranh đế đang khô vàng vì nắng gắt. Buổi tối, từ xóm nhìn ra, thấy từng
vùng lửa đỏ. Mai mốt lớp tranh đế mới sẽ vươn lên thay thế, những mầm tranh
nhỏ, gọi là “bón tranh” bén nhọn như gai, đi chân không, nếu sơ ý dẫm phải,
chảy nhiều máu đau nhức lắm. Mùi tranh cháy thơm phức, dụ dỗ đàn nai ra ngửi,
là dịp cho người ta săn bắn. Tôi nhớ đến ông Bình Sơn Lộc đã đọc hai lần. Rồi
nhớ Bình-nguyên Lộc. Nhưng nếu buổi trưa đi đường qua vùng đốt núi, tôi nghĩ
đến Bà Mọi, tiếng hú như kêu gọi một
cách tuyệt vọng, vang lên từng hồi, hấp hối, lẫn trong tiếng tranh đế cháy lào
xào, tiếng mắt tre nổ đôm đốp. Những giồng đồi tranh đế này là quê hương của
một loại chim rừng, quê tôi gọi là “gà cơm cát”. Chuyện xưa kể rằng tiền thân
của chúng là một đứa bé mồ côi mẹ, cha nó tục huyền, bà mẹ ghẻ ác nghiệt cứ
trộn cát vào cơm cho nó ăn đến một hôm đưa bé ngã ra chết, hóa thành loài chim
với tiếng kêu “chát cha chát chát cha cha”
được diễn dịch là “Xúc cơm cát trả cho
cha, xúc cơm cát trả cho cha…”.
Tiếng kêu như rát cổ, rướm máu, xé lòng ấy, là nỗi oán hờn giữa đứa bé và bà mẹ
ghẻ, một con người với một con người, còn tiếng hú của Bà Mọi trong màn lửa nóng trưa hè dẫu xa xôi tận Phương Nam là nỗi
oán hờn ngút trời uất hận giữa hai dân tộc.
Làng tôi nằm dưới thung lũng, bốn bên là giồng đồi. Liền sát
chân đồi là đất thổ, tiếp theo là ruộng gò (làm một vụ), dưới hết là ruộng rộc
(làm hai vụ). Xen trong ruộng rộc có những ao nước, những con mương. Sau này,
những lần tôi về thăm, được bạn rủ đi câu. Ở đây có loại “câu cắm” , buổi tối
cắm cần câu có mồi dọc theo bờ mương, sáng ra gỡ cá. Tôi nhớ đến truyện Câu Dầm, kể cho bạn, bạn vốn tin vào tâm
linh, từ trước đã không muốn đi câu vào những đêm mưa, không muốn dầm mưa đi
câu, nay như gặp đồng điệu, chỉ đi câu buổi chiều, nhàn nhã thanh tịnh hơn.
Ruộng gò, trước khi gặt đã khô nước, sau khi gặt chỉ còn gốc
rạ. Trong lúc còn lúa, từ xóm này qua xóm kia người ta đi theo bờ ruộng, đến
lúc gặt lúa xong người ta đi băng qua ruộng cho gần. Dấu chân sau dẫm lên dấu
chân trước, tự nhiên thành con đường mòn, có những chỗ cong, chỗ hơi ẹo,
rất lạ mắt. Vào mùa trồng trọt, con
đường mất đi, để năm sau tái hiện. Trong nhiều lần đi như thế, tôi nhớ những ý
tưởng Bình-nguyên Lộc về thuở ban đầu của nhưng con đường. Đông Hồ
thì tả những con đường trong sân Đại học Văn khoa Sài Gòn: “Người sinh viên ở đây ít chịu bước theo bực
cấp đã xây, ít chịu bước theo nấc thang có sẵn, mà thích đạp trên cỏ xanh, đưa
bước chân đi. Cỏ đã quyến rũ, cỏ đã kêu gọi cho bước chân người lưu luyến gót
văn hài. Người trước bước đi. Người sau bước theo nối tiếp. Bước người sau lạ
lùng thay, tự nhiên bước đúng lên dấu chân người trước. Ngày tháng chồng lên.
Thời gian đếm bước chân người, vẽ thành những đường nét uốn éo nên thơ. Bài thơ
lối mòn sao không có trong đó một triết lý thâm trầm, một tâm lý sâu sắc.” (75)
Con đường của Đông Hồ đẹp thật, nhưng văn chương đài các quá, không “đời” như
những con đường qua ruộng gò của tôi, không gần gũi bằng những con đường của
Bình-nguyên Lộc.
Bình-nguyên
Lộc viết rất nhiều, trong số tác phẩm của ông đã xuất bản tôi đọc được một phần
khá khá, nên hơi bị nhiễm, nhiều khi liên tưởng, kể cả những chuyện vu vơ. Nhìn
lên bầu trời đêm không khỏi bị Ba sao
giữa giời ám ảnh, uống tách cà phê nóng, hoặc tình cờ tìm thấy nơi đầu
quyển sách cũ mới mua có nét chữ giống như chữ một bạn gái lập tức Hồn
ma cũ thức dậy. Thậm chí, khi cầm miếng đu đủ chín, gắp đũa giá xào hoặc
lột chiếc nem chua gói vằng lá vông v.v … nhớ ngay đến những chuyện trên Hương Quê.
Cứ như thế, ngày tháng năm qua, vào Nam ra Bắc, lên núi
xuống đồng, trong mọi ngõ ngách của làng xóm phố phường cũng như trong mọi ngõ
ngách của cuộc sống, tôi luôn luôn thấy bóng dáng những nhân vật của Bình-nguyên
Lộc, luôn luôn nghe tiếng nói của những
nhân vật ấy, có khi mờ ảo nhạt nhòa hay vang vọng mơ hồ. Tôi hỏi tôi: Có thể
nghĩ là chung quanh tôi cả một “không gian Bình-nguyên Lộc” bàng bạc chăng.
Mà
“không gian Bình-nguyên Lộc” là một phần của không gian văn học và ngôn ngữ Nam
Bộ. Hiện tại, có gì thay đổi, những còn, những mất, những hao hụt? Và, vấn đề
phát triển, bảo lưu, thế nào? Bản thân tôi, một người làm văn nghệ của Miền
Trung, đang nhìn về quý vị với tấm lòng trân trọng mong chờ...
Tuy Hòa, tháng 8 năm 2016
TRẦN
HUIỀN ÂN
CHÚ THÍCH:
(1) Theo Nguiễn Ngu Í,
trong Sống và Viết với…Ngèi Xanh xb
SG 1966 tr.241. Một số tư liệu khác viết rõ hơn: Ông xuất thân trong một gia
đình trung lưu đã có mười đời sống tại Tân Uyên. Theo giấy khai sinh Tô Văn
Tuấn sinh ngày 7/3/1915. Tuy nhiên trên thực tế có thể ông sinh ít nhất một năm
trước ngày ghi trong giấy khai sinh, nghĩa là năm 1914, nhưng không rõ có đúng
là ngày 7 tháng 3 hay không.
(2) Ngày sinh và ngày
mất trùng nhau: 7 tháng 3. Có thể đặt ở đây một dấu hỏi chăng?
(3) Đọc trên “Bình-nguyên Lộc” của nhóm chủ
trương: Vinh Lan – Phan Tấn Tài – Trương Quan Sen (http://www.binhnguyenloc.de)
(4) Có tư liệu ghi:
Trình Nguyên là bút danh của Bình-nguyên Lộc chỉ xuất hiện trong một truyên
trên báo Việt Thanh (1951). Chúng tôi chưa đọc truyện này. Và được biết Trinh
Nguiên là một bút danh của Nguyễn Hữu Ngư (Nguiễn Ngu Í). Không rõ có sự liên
hệ nào giữa Trình Nguyên (Bình-nguyên Lộc) và Trinh Nguiên (Nguiễn Ngu Í)?
(5) Bằng Giang – Nhận
xét về cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc
V.N của ông Bình- nguyên Lộc, tạp chí Bách Khoa số 371 ngày15/6/1972, trang
42.
(6) Nguyên Phủ, trong
mục Sinh hoạt, tạp chí Bách Khoa số 134 ngày 1/8/1962, tr. 113.
(7) Minh Quân, trong mục
Thời sự Văn nghệ, tạp chí Bách Khoa số 310 ngày 1/12/1969 tr.82.
(8) Thế Nhân, trong mục Sinh hoạt, tạp chí Bách Khoa số 367 ngày 15/4/1972, tr. 75-76.
(9) Theo Nguiễn Ngu Í:
Đến 31/5/1965 Bình-nguyên Lộc có 820 truyện ngắn, 52 tiểu thuyết, 1 tiểu thuyết
bằng thơ, 2 tập thơ, 1 tập biên khảo sưu tầm, 1 tập khảo luận Y học (soạn chung
với Bs. Tô Dương Hiệp), 3 tập chú thích phân đoạn phê bình cổ văn (soạn chung
với Nguiễn Ngu Í), 2 truyện cổ tích bằng thơ và một số truyện nhi đồng.- Theo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (đọc ngày 15/7/2016) Bình-nguyên Lộc có khoảng
50 tiểu thuyết, 1.000 truyện ngắn, 3 tập thơ, 8 tác phẩm nghiên cứu, sau khi ra
hải ngoại có 5 tác phẩm và một số bài đăng báo …
(10) Sống và Viết … Sđd tr.242
(11) NXB Ngày Xanh –
1962.
(12) Sống và Viết… Sđd tr.234 – Võ Phiến cúng
rất chú ý đến chi tiết. Bài Chi tiết
trong truyện ông dẫn một chi tiết
trong Thủy Hử: Lúc Tống Giang trốn
vào nhà Thái Công, nửa đêm thấy ông này đốt đuốc rọi nơi sân đập lúa, Tống
Giang tẩn mẩn nói chuyện với anh công sai: “Ông Thái Công này cũng giống như
cha tôi, mọi việc đều tự mình xem sóc kỹ lưỡng, đến khuya mới chịu đi ngủ”. Chi
tiết đó không dính gì đến cái nghĩa khí của người lãnh tụ Lương Sơn bạc, nhưng
nó làm cho đời sống của ông thực hơn biết bao nhiêu. Những cái nhỏ nhặt ấy rất
hiếm trong truyện của Tàu và của ta ngày xưa … Người Âu Tây, với cái sở trường
về quan sát tinh vi, phân tích tỉ mỉ, với óc ưa chuộng cái cụ thể, đã tìm được
giá trị của chi tiết, và như thế đã có một đóng góp vô cùng quan trọng trong kỹ
thuật viết truyên. (Tạp bút I, Thời
Mới xb SG 1967 – tr.7 và 10)
(13) Tạp chí Bách Khoa số 72 ngày 15.01.1960. Đọc lại
trên binhnguyenloc.de (nêu trên chú thích 3)
(14) Vinh Lan – Vui Sống và nhà báo Bình-nguyên Lộc. Đọc
trên binhnguyenloc.de (xem chú thích 3)
(15) Bình-nguyên Lộc – Một thế giới tự tạo, nguyệt san Tân Văn số 2, tháng 5 & 6 / 1968,
tr.116, 120, 121.
(16) Nguyễn Nam Anh
phỏng vấn Bình Nguyên Lộc – Tập san Văn
số 199 ngày 1/4/1972 tr.4-12.
(17) Viên Linh –
Bình-nguyên Lộc – Nguyễn Mạnh Côn. Tay
Đôi. Tập san Thời Tập số 5
năm.1974, tr. 75 – 83.
(18) Bình-nguyên Lộc. Kinh nghiệm viết văn của tôi, tập san Thời Tập số 12 ngày 10/10/1974, tr.20 –
24.
(19) Tràng Thiên – Đọc Hương rừng Cà Mau, Bách Khoa số 130 ngày
1/6/1962 tr.101
(20) Võ Phiến – Cá tính văn học Miền Nam, Bách Khoa số
63 ngày 15/8/1959, sau in vào Tạp Bút I
Thời Mới xb 1967, tr. 36, 41, 42
(21) Tin Sách số 6 tháng 12/1962 tr. 16, 17.
(22) Bài điểm sách Nhện chờ mối ai nêu trên
(23) Tin Sách số 14 tháng 8/1963 tr.18, 19,
30
(24) Tin Sách số 43 tháng 1/1966 tr.19 – 25
(25) Bách Khoa số 248 ngày 1/5/1967 tr.80-81
(26) Tin Sách số 43 tháng 1/1966 tr. 4
(27) Vũ Dzũng. Bách Khoa số 221 ngày 15/3/1966 tr. 86, 87
(28) Nguyễn Văn Xuân - Một thời mới. Bách Khoa số 259 ngày
15/10/1967 tr.34
(29) Lê Phương Chi – Khói lửa đầu năm với các người cầm bút, Bách
Khoa số 267+268, ngày 15/2 và
1/3/1968, tr. 105
(30) Bách Khoa số 274 ngày 1/6/1968 tr. 78
(31) Thời Tập tập III ngày 14/2/1974 tr.43,
50
(32) Bách Khoa số 425 ngày 21/3/1975 tr.52
(33) Thời Tập tập 12, tr. 46
(34) Thời Tập tập 12 , tr. 7 – 11
(35) Thời Tập tập 12,
tr.27, 29, 30, 31, 32
(36) Võ Phiến – Rụp rụp, Bách Khoa số 377 ngày
14/9/1972, tr.35
(37) Chúng tôi chỉ có
bản trên trang mạng Tiền Vệ, và lâu
nay không gia công đi tìm bản in, nên những điều viết ra ở đây căn cứ theo bản
ấy. Sách có 3 phần chính: 1. Khái quát, khảo sát một số yếu tố chính trong sinh
hoạt văn học Miền Nam và đối chiếu với văn học Miền Bắc, văn học tiền chiến. 2.
Phân chia các giai đoạn. 3. Nhận diện những đặc điểm và thành tựu từng bộ
môn. Do vậy, mỗi tác giả thường được
nhắc đến ở từng phần, tùy trường hợp, chứ không có nhận định riêng biệt hẳn.
Tác phẩm hơn 240 trang khổ A4, chữ nhỏ, lề rộng.
(38) Từ chú thích (38)
đến (49) là chú thích dùng cho sách Văn
học Miền Nam tổng quan của Võ Phiến, Bản Tiền Vệ. Chúng tôi chỉ ghi số chú
thích và số trang: (38) tr.102, (39) tr.105, (40) tr.106, (41) tr.87, 89, 94,
96, (42) tr.24, (43) tr.29, (44) tr. 32, 34, 38, 42, (45) tr.43, 76, (46)
tr.67, (47) tr.70, (48) tr.20, (49) tr. 104.
(50) Bộ sách gồm 4 tập,
trên 2230 trang, in truyện của 158 tác giả. Tiểu sử thật vắn tắt, không quá 4
dòng: tên họ, năm sinh, quê quán, công việc, cư trú, năm mất. Không có lời giới
thiệu hay bình luận về tác phẩm. Theo Trần Hoài Thư thì đây là một bộ trong “tủ sách di sản văn chương Miền Nam”, và
cho biết: “Vẫn còn nhiều tác giả mà chúng
tôi không có duyên chưa sưu tầm được … Tuyển không phải dựa vào tên tuổi mà
bằng từng giờ đánh máy, từng buổi nghiềm ngẫm, để thấy rằng nếu mà chúng (bài
văn) bị bỏ qua, thì cả một mất mát lớn. Cho người muốn tìm hiểu về văn chương
Miền Nam, và cho di sản văn chương Miền Nam”
(51) Văn Miền Nam tập I từ tr. 26 đến tr. 35
(52) Nguyễn Q. Thắng – Văn học Việt Nam nơi miền đất mới. NXB
Văn Học, tập 2, tr.1265
(53) Nguyễn Q. Thắng Sđd
tr.1285
(54) Nguyễn Q. Thắng Sđd
tr. 1279
(55) Nguyễn Q. Thắng Sđd
tr. 1291
(56) Nhiều người cho
rằng tên sách chưa chuẩn, nhưng đây nguyên là phần chính của luận án tiến sĩ
chuyên ngành, tức là bài thi, có thầy cô hướng dẫn, thầy cô phản biện, thầy cô
chấm điểm, tác giả không giữ vai trò nhà nghiên cứu “độc lập – tự do” tất nhiên
phải chịu sự siết mở của chiếc vòng kim cô và phải chấp nhận để tác phẩm được
xuất bản.
(57) Nguyễn thị Thu
Trang – Văn xuôi đô thị Miền Nam giai
đoạn 1954-1975 nhìn từ các giá trị
văn hóa truyền thống - NXB Đại Học Quốc Gia TP.HCM 2015 tr.iii
(58) Từ chú thích số
(58) đến chú thích số (68) dùng cho sách Văn
xuôi đô thị Miền Nam … – Sđd, chúng tôi chỉ ghi số chú thích và số trang
sách: (58) tr.170-171, (59) tr.XV, (60) tr.21, (61) tr.31, (62)
tr.28, (63) tr. 52. (64) tr.55, (65) tr.92, (66) tr.132, (67) tr.154, (68)
tr.155.
(69) Theo thống kê của
Nguyễn Thị Thu Trang, Bách Khoa các
số 3+4, 24, 25+26, 36. Văn các số 38,
44, 52, 75+76, 87, 92, 98+99, 111, 146+147, 194+195, và số ra ngày 21/5/1974.
(70)Trước đây tôi có
quyển Đồng Quê của Phi Vân, bị lạc
mất, sau mua một quyển tái bản, có “lời giới thiệu”, tôi không xem mấy lời này,
thầm nghĩ “Ông này sức mấy mà giới thiệu Phi Vân”, rồi xếp lại.
(71) Nguyễn Mộng Giác – Vui buồn cuối năm . Bách Khoa số 402+403
ngày 10/1/1974
(72) Li Tana – Xứ Đàng Trong, Nguyễn Nghị dịch. NXB
Trẻ, 1999, tr.15
(73) Hồ Hữu Tường – Thuốc trường sanh (III Vẹn nguyền) NXB
Huệ Minh 1964 các tr.113, 123, 135
(74) Võ Phiến – Tạp bút I . Sđd tr.41
(75) Đông Hồ - Chi lan đào lý . Trong Sống và Viết . Sđd tr.189