Xóm tôi, một sớm sương mù
Photo by Phạm Cao Hoàng, 1.2020
Trích
từ tuyển tập
NHỮNG
TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT
CỦA
QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA,
NXB Sóng, Sài
Gòn, 1973
Về
Truyện Ngắn
"Tan Theo Sương Mù "
"Tan Theo Sương Mù "
Năm 1970, nhân dự hội nghị Văn Bút Quốc Tế ở Đại Hàn và Đài Loan, tôi ghé Nhật mấy hôm để xem Expo ở Osaka. Dịp đó, một buổi sáng, còn mù sương, nhân đến Kyoto chơi, tôi có ghé vào Kinh Đô Cổ Tự của Nhật Bản. Cảnh lạnh lẽo, huyền bí, với một nét gì ma quái phảng phất đã gợi trong trí tưởng một câu chuyện có tính cách tượng trưng. Điều tôi muốn nói, trong một truyện ngắn, là tính cách huyền diệu vượt thường của tình yêu và lòng chung thủy. Tình yêu và lòng chung thủy của con người, có thể làm sống mãi người đã chết, và ngược lại, sự phản bội, dù chỉ trong ý nghĩ, trong tâm tư, cũng có thể phá hủy cả một thiên đường, đốt cháy sắc tươi khác thường của hạnh phúc thành màu chết của tàn phai.
NGUYỄN THỊ HOÀNG
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng
Gần hai
mươi năm nay, cùng với người vợ dấu yêu luôn luôn bên cạnh, ông Mishio du lịch
đã nhiều nơi, dự bao nhiêu hội nghị, có mặt trong những buổi tiếp tân tiếng tăm
và lộng lẫy nhất, những bữa tiệc sang trọng và danh dự nhất, đã tiếp xúc với
bao nhiêu khuôn mặt, tên tuổi lẫy lừng, danh vọng bậc nhất, xứ này và xứ khác,
nhưng chưa bao giờ ông nhìn thấy một bóng dáng đàn bà nào như thế. Chưa bao
giờ. Chỉ có những vóc dáng Tây phương rỡ ràng và quyến rũ, những đường nét đa
tình thanh lịch của Đông phương như Trung Hoa hay Đại Hàn, hoặc cả những tài tử
điện ảnh là những nhan sắc nổi bật nhất trong giới nữ lưu cao cách, nhưng chưa
bao giờ ông tìm thấy đúng những đường nét uyển chuyển, mộng mị và tuyệt vời cho
một cảm hứng bức tranh chưa bao giờ vẽ…
Người đàn
bà ngồi đó, một tay nâng tách trà, một tay tì nhẹ lên thành trường kỷ cần xà
cử, hai chân khép nép xếp vào nhau, tà áo đen dài ẻo lả buông xuống tận mũi hài
thêu hoàng hạc lượn, mái tóc đen hơn nhung vén cao từng lọn nhỏ và thanh trên
đỉnh đầu tròn nhỏ nhắn, để hé một nét cổ trắng ngần chảy xuống khung ngực áo
rộng hình vuông lấp lánh một cành huyết ngọc bên phía trái.
Trong
khung mắt vương buồn, người đối diện vẫn tìm thấy một lấp lánh ánh sắc tươi
vui, hân hoan, như một thứ ánh đèn lồng hò hẹn trong vườn cây làm tăm tối sao
mờ, dấu hiệu của một giờ tình tự ngọt ngào đằm thắm… Nét mày cong thỉnh thoảng
cau lại, như hỏi han ân cần, như hờn giận nũng nịu, như vòi vĩnh van lơn làm
nõn nàng đôi gò má cao phơn phớt một thoảng hồng man mác toả xuống đôi môi san
hô non mấp máy giấu che hai hàng răng màu lựu non hé hé từng lời nói tiếng
cười. Giọng nàng nhỏ, thanh, nhưng nghe rõ, như tiếng vang xa được lọc qua
những tầng thanh khí trong vắt vắng im, nghe xa vời như từ cõi nào vọng vang,
mà gần gũi như thủ thỉ gần kề bên gối.
Một chút
vâng, một chút thưa, nàng dịu nhẹ, khoan thai, trân trọng trong câu chuyện,
từng lời từng chữ nhỏ nhẻ, vừa ân cần từ tốn, vừa kiểu cách đoan trang, làm
người nghe cảm tưởng mình luôn luôn được trọng vọng, kính nhường yêu dấu vô
chừng…
"Thưa
ông, ông bà còn ở lại đây chừng bao lâu mới trở về Nhật". Nàng hỏi, với
một thoáng nghiêng đầu dịu dàng và ánh mắt nghiêng hẳn về người đối diện chờ
câu trả lời.
Ông
Mishio bâng khuâng nghe chính tiếng nói mình lạ hẳn đi:
"Chúng
tôi có lẽ phải về ngay sau buổi tiếp tân chiều nay".
"Cuộc
vui còn dài, ông bà vắng mặt, chúng tôi, những người ở lại sẽ mến tiếc vô
cùng".
Nàng nói
và đối xử với những cử chỉ, cung cách và lời lẽ đặc biệt Đông phương như thế.
"Chúng
tôi cũng tiếc, có phải không, mình nhỉ" - ông quay sang phía bà vợ mặc áo
kimono tím với những tấm hoa in màu trắng xám, ngồi ghế bên cạnh, nhưng mà
không thể làm sao hơn - "vì chúng tôi có việc cần chờ ở nhà".
Bà vợ
ngồi bên cạnh, im lặng, thỉnh thoảng một nụ cười dịu dàng, hiểu biết nở trên
đôi môi hình trái tim nhỏ xíu màu hồng non. Theo ông, bà không biết một ngoại
ngữ nào cả, và ngay đến tiếng Nhật, nhiều khi những người khác nói bà cũng
không nghe hiểu nữa. Người đàn bà nói:
"Như
vậy" - là vì bà chỉ biết có ông và muốn nghe mình ông thôi. Ông là vũ trụ
của bà.
Người đàn
ông chợp mắt, những vệt tóc trắng mềm mại rủ xuống vầng trán cao.
Ông tiếp
tục giới thiệu vợ mình với người đàn bà vừa được gặp:
"Nhà
tôi ít nói, gần như là không nói chuyện, nhưng hiểu biết tất cả mọi vấn đề, còn
thông thái và sâu xa hơn cả sự hiểu biết của tôi. Nhất là về hội hoạ, chính khi
tôi đang hoạ tranh, đang phân vân về màu sắc nào cho thích hợp với đường nét
của bức tranh, nhà tôi đã chọn hộ màu đúng như tưởng tượng. Việc gì cũng thế,
nhà tôi như lột hết những ý nghĩ thầm kín của tôi và làm giúp trước khi tôi
thực hiện được.
Người đàn
bà ngắm nghía và Mishio với một vẻ thán phục và cảm mến chân thành:
"Bà
thật đáng quý, hai ông bà như vậy, đã tạo ra một thế giới riêng tư, không cần
gì đời sống chung quanh nữa rồi".
"Vâng,
chúng tôi có thế giới riêng tư, và vì vậy, luôn luôn phải chống đối với bất cứ
xâm nhập nào của người ngoài, đôi khi…"
Bà vợ vỗ
nhẹ bàn tay mũm mĩm lên cánh tay chồng nói một câu dài tiếng Nhật.
Ông ta
quay lại phía người đàn bà áo đen, tiếp tục câu chuyện, nhưng vấn đề khác.
"Thưa
bà, còn bà ở lại đây bao lâu?"
Mặc dù
cuộc vui vẫn còn tiếp tục, nhưng nếu ông bà ra về, có lẽ tôi cũng phải từ bỏ
hết đi theo, bởi vì, xin thú thật trong đám quan khách kia, tôi không tìm thấy
một ai có thể ý hợp tâm đầu để trò chuyện, dù chỉ là những chuyện vu vơ. Như
thế, là tôi cũng sẽ sang Nhật khi ông bà đi rồi…
Người đàn
bà ra ý hiểu điều người lạ nói, liếc nhanh dò xét nét mặt chồng. Nhưng trong
khuôn mặt khả kính của người đàn ông yêu dấu, bà không tìm thấy một thoáng xúc
động nào cả, nên lại cúi mặt xuống, ngắm những móng tay màu hồng nhạt của mình,
khẽ mỉm cười âm thầm.
Bên kia,
người ta đang tán tụng, chúc mừng nhau theo nghi lễ. Hình như Tổng thống và phu
nhân đang lần lượt bắt tay quan khách để ra về. Những người hầu cận rào rào
chạy lên xuống những bậc thang lầu trải thảm nhung đỏ. Tiếng áo xiêm sột soạt
cạnh những hàng ghế bọc gấm. Rồi tiếng chân như xa dần dưới kia lầu.
Người đàn
ông ngồi lại bên cạnh vợ, chỉ tiếp những bạn bè bằng hai con mắt đằm thắm nhìn
theo, nói với người đàn bà bằng thứ giọng nhỏ và trầm của ông.
"Hình
như họ ra về hết. Bà đã về chưa?"
"Bao
giờ ông bà đứng lên, tôi sẽ xin theo".
"Không,
chúng tôi theo bà".
Nàng nói:
"Chúng
ta ra ngoài kia xem cảnh yên ba của buổi chiều".
Nàng nói,
và lùi lại, nhường cho người đàn ông đi trước, rồi dịu dàng, niềm nở, với một
chút tôn quý nàng nâng cánh tay bà Mishio, dìu bà ta theo mình, sau lưng người
đàn ông.
Bà vợ
cười, im lặng, cánh tay nhẹ hẫng tay nàng, và bước đi nữa, cũng như lãng đãng
vật vờ trong sương sao.
Người đàn
bà ra tựa lan can, nhìn xuống mặt hồ khói mây mịt mờ dạo chơi lãng đãng trên
những bờ cây sẫm sắc chiều hôm. Tiếng ông Mishio ung dung đều đều bên cạnh.
"Không
bao giờ có nét bút hoạ nổi những cảnh nét quá tuyệt vời trong thiên nhiên và
đời thật, đáng tiếc".
"Thế
sao những bức tranh vẫn đẹp hơn những cảnh ngoài, thưa ông?"
"Chỉ
khi người vẽ tìm thấy đúng một ảo giác nào đó. Với tôi, hoạ tranh do xúc động
hơn là ảo giác, nhưng chính sự xúc động thái quá làm xô lệch hết màu sắc và
đường nét. Ví dụ như…"
Giọng ông
chìm rồi tắt.
Người đàn
bà tưởng chừng như họ, cả hai vợ chồng, đã tan biến vào thinh không.
Nàng quay
lại ông Mishio đang ngẩn ngơ nhìn phía sau mình. Người vợ đã đi đâu mất. Ông ta
có vẻ buồn bã, băn khoăn.
"Nhà
tôi đi xuống dưới ấy rồi".
"Dưới
ấy là ở đâu ông?"
"Dưới
ấy mà…"
Ông
Mishio nói lửng lơ, rồi thở dài kín đáo và tì tay vào lan can, hai mắt đắm chìm
vào bóng chiều tịch mịch vây phủ quanh lầu. Trong mắt ông bây giờ, những người
khách cuối cùng qua lại đó, cũng ẩn hiện, lãng đãng như khuất chìm trong sương,
những tiếng động cũng nhỏ và xa như tiếng ông trên môi mấp máy. Mọi sự đều mơ
hồ xa tắp trong cảm nhận mịt mùng lênh láng của ông bây giờ. Người đàn bà trong
mắt ông bỗng nhỏ lại, mất hết bề dài, chiều dày, chỉ còn lại một nét thuôn mơ
mòng trong hai mắt ông hình dung bức tranh sẽ vẽ. Nhất định sẽ vẽ bức tranh chờ
đợi. Nhập nhoà trên bức tranh phác hoạ với tưởng tượng và ký ức, ông thấy như
có khoé mắt nhìn trách móc của bà Mishio. Ông nói thầm trong im:
"Không
phải như mình đang nghĩ và làm đâu mình yêu quý ạ, nhưng tôi chỉ muốn thực hiện
bức tranh mong ước thôi. Cả một đời người, chỉ vẽ được một bức tranh như thế
thôi, mình nỡ buồn lòng và hẹp lượng sao? Cho tôi vẽ, nghe mình, nghệ thuật là
nghệ thuật, mình phải hiểu, như mình đã gần và đã hiểu tôi, hai mươi năm xưa,
và hai mươi năm từ ấy đến bây giờ…"
Mặc dù
băn khoăn về việc bỏ đi đột ngột của bà vợ, ông Mishio vẫn trao cho người đàn
bà lạ tấm thiếp, căn dặn đường đi và nơi chốn rõ ràng, mời nàng đi sang Nhật
bớt chút thời giờ ngắn ngủi ghé thăm ông bà ở Kyoto, một ngôi nhà u tịch gần
ngôi chùa cổ.
Khi người
đàn bà tìm được nhà ông Mishio, trời chợt mưa lất phất. Cơn mưa nhẹ và mờ như
bụi phủ trên vườn cây xanh tĩnh mịch quanh ngôi nhà cũ hoang vắng với mái nâu
cũ kỹ loáng thoáng bóng rêu phong, với những đọt cây lô nhô từ sau hiện như bầy
rắn nhỏ đang tìm đường chạy trốn khỏi những khối cây cối rậm rạp lạnh lẽo bốn
bề. Trời nhuộm một màu sáng bạc như bạn hữu một cơn bão lớn về đêm, bay vừa qua
một trận biến động đất trời, bây giờ, những người chết vì trận thiên tai như
còn lảng vảng oan hồn đâu đó.
Nàng gọi,
không thấy một bóng người nào lai vãng trong khoảng sân lát gạch loáng thoáng
bóng những cây tùng lùn thấp già cỗi trồng trong những chậu sứ khổng lồ màu sắc
vừa rực rỡ vừa kỳ dị được lấy trộm từ một cung điện nào từ ngàn năm. Lối đi là
những mặt gỗ cắt ngang của một thân cây lớn, khảm thành hàng không đều nhau
trên mặt đất màu nâu đen cẩn những đường viền sỏi trắng và tím. Đây đó lởm chởm
những cụm cỏ già màu lục sẫm, thỉnh thoảng một bông hoa tím dại ngơ ngẩn mọc
lên như một dấu hỏi lặng câm giữa màu xanh u tịch của vườn cây. Thoang thoảng
mùi thơm của một loài lan quý nào nở kín bên hiên vắng.
Cánh cửa
bằng giấy phía phòng khách mở hé cho thấy một tấm thảm màu đỏ gạch, thêu những
vòng hoa xanh và tím sặc sỡ. Mấy đôi dép Nhật Bản xếp ngay ngắn ở lối ra vào.
Tiếng một con chim bay qua mái hiên, cất tiếng hót ngại ngần trong thinh không
hiu hắt. Người đàn bà đi chậm từng bước nhỏ, cái dù nghiêng trên vai, qua
khoảng sân vắng, vào trong hiên, đứng đợi một người nào ra chào đón. Nhưng
không có ai cả, nhưng những dấu vết quanh nhà chứng tỏ vẫn có người ra vào, qua
lại luôn luôn. Sự hiện diện thường trực và bí mật của một bóng người làm cho
không khí chừng như lạnh lẽo và trang nghiêm hẳn đi trong một cảm nhận bàng
hoàng và sợ hãi về một cõi nào ở ngoài đời sống thật.
Tiếng mưa
từng sợi chảy từ những tầng lá cao xuống cây hoa thấp là đà sát mặt đất, âm
vang buồn bã xa lạ và lạnh lẽo, làm nàng chợt cảm thấy mình đang lạc lối trong
một cõi nào cách trở và huyền hoặc, không bao giờ còn tìm đường trở về được
những lối đời quen thuộc trước kia, nếu không có một dẫn dắt vô hình và thân
thuộc nào đó.
Chiếc xe
thả nàng xuống cổng nhà đã mất hút bóng từ lâu ngoài con đường vắng vẻ lạnh
lẽo. Bỗng nhiên nàng lạnh người nghĩ nếu mình đang tới lầm nhà một người nào
khác hoặc đã đến nơi nhưng ông bà Mishio đã đi vắng, còn lâu lắm mới trở về.
Người đàn
bà nhìn vào trong, trên chiếc chiếu hoa mà ngà và tím, cái bàn vuông sạch sẽ
đặt một bình hoa cúc tím nhạt. Mấy cái hoa còn rung rinh ướp kín những giọt mưa
sương lóng lánh. Một đĩa bánh ngọt và hộp thuộc bằng đồi mồi bên cạnh những
chiếc khăn lau bằng giấy cắt hình hoa cúc thật khéo. Như chủ nhà dọn sẵn và chờ
đợi một người khách có hẹn từ trước. Nàng nghĩ:
"Hai
ông bà ấy chắc chắn là có nhà vì sắp đón một người khách nào đó".
Nàng quả
quyết và lấy hết can đảm, tháo giày, thong thả dè dặt từng bước một, bước hẳn
vào trong nhà, mở ví, lấy hộp bánh và những gói trà ngon, làm quà tặng chủ nhà
đặt lên bàn.
Có tiếng
guốc gỗ lóc cóc thật nhẹ phía hành lang bên trái. Rồi tiếng cửa giấy động khẽ.
Nàng chờ một tiếng nói, một bóng người, nhưng không có ai cả.
Chờ một
lúc, một lúc lâu như hàng ngày ở đời sống quen thuộc ở quê nhà, nàng đành lên
tiếng:
"Chào
ông bà Mishio, có tôi đến thăm…"
Một tiếng
cười nhẹ, như gió cầm thoảng qua. Rồi tiếng dép sột soạt trên tấm chiếu hoa.
Người đàn bà ngẩng lên nhìn. Bà Mishio tươi thắm với chiếc kimono màu hoa đào
với những cành lá trắng, mái tóc láng lẫy như hôm đầu tiên gặp nhau, cài thêm
một búp hoa hồng ngọc. Đôi môi không thoa son hồng tươi hé một nụ cười dịu dàng
làm lắng dịu những băn khoăn trong lòng người đối diện, bà Mishio bỗng nói,
không bằng tiếng Anh, không phải là tiếng Nhật, nhưng người đàn bà vẫn nghe và
hiểu, như thường nghe và hiểu được ngôn ngữ của những người chuyện trò trong chiêm bao:
"Mời
bà ngồi, tôi biết thế nào bà cũng sẽ đến, chắc chắn là bà sẽ đến, cho nên mấy
hôm nay vẫn có mong chờ. Tiếc thay, ông nhà tôi lại đi vắng hôm nay. Có lẽ ông
ấy cũng sắp về, thôi tôi xin phép được đón tiếp bà vậy và ước mong bà sẽ hài
lòng những giờ dừng lại trong gia đình chúng tôi".
Người đàn
bà nhìn quanh, tỏ vẻ thán phục cách trang hoàng của chủ nhân. Bà Mishio tươi
cười:
"Bà
sắp khen, phải không, nhưng lối trang hoàng này đã cũ quá, như thế này đã gần
hai mươi năm, không thay đổi".
Người đàn
bà lạ kinh ngạc:
"Tại
sao gần hai mươi năm, bà có thể giữ nguyên mọi vật trong nhà không thay
đổi?"
"Có
gì khó đâu, thưa bà, chỉ do người ta muốn giữ gìn hay thay đổi đó thôi. Giữ gìn
thì hai mươi năm hay hai trăm năm còn nguyên vẹn đó. Nhưng nếu muốn thay đổi
thì chỉ cần một ngày, một giờ, một chớp mắt ta thôi".
"Thưa
bà nói về cái gì?"
"Tất
cả mọi thứ đều như thế cả, phải không bà, những vật bên ngoài cũng như những ẩn
tình trong lòng người".
Người đàn
bà lại nhìn quanh, không thấy dấu vết một đồ chơi, quần áo gì của trẻ con hay
một kẻ thứ ba nào ngoài hai ông bà chủ nhân.
"Thưa
bà Mishio, các em hẳn đi học ở xa?"
Bà Mishio
ngồi xếp chân trên chiếc gối thêu, vén tay áo kimono rón rén pha trà trong bình
ra tách ngọc.
"Mời
bà dùng trà, trà ướp hoa cúc của tôi tự làm cho nhà tôi dùng đó, nhà tôi chỉ
uống được trà do tôi làm thôi cho nên, những lúc đi đâu, nhà tôi chỉ nâng tách
trà mà không uống, bà có thấy không?"
"À,
bà lại nhắc, bà nhớ từng chi tiết ấy sao?"
"Thường
thì tôi không nhớ gì những lần đi theo nhà tôi, vì không có gì quan trọng đáng
nhớ cả, nhưng mà từ hôm đó đến nay thì tôi cố nhớ lại từng chi tiết từ đầu và
tôi nhận ra…"
"Cái
gì vậy thưa bà?"
Bà Mishio
nhìn ra ngoài vườn hoa lặng lẽ, bỗng thở dài, với một giọng nói nửa u buồn, nửa
hoảng hốt.
"Có lẽ sẽ
có một cơn bão nhỏ đâu đây, và nhà tôi về nửa đường sẽ gặp cơn bão nhỏ".
Người đàn
bà lạ cũng nhìn trời u ám bên trên những mái cong rêu phủ.
"Bà
có cần đi đón và mang dù hay áo ra cho ông hay không?"
"Nhà
tôi có mang dù theo, không sao. Nhưng với cơn bão thì trăm ngàn cái dù cũng vô
ích thôi".
Giọng của
bà Mishio có vẻ trách móc, tiếc than lạ lùng làm cho bà khách bối rối và ái
ngại.
"Xin
lỗi bà, có lẽ tôi xin về thì hơn, hôm khác trời tốt, nếu còn nấn ná ở lại Nhật,
tôi sẽ lại thăm ông bà".
Tiếng
cười bà Mishio có vẻ giễu cợt và chua chát:
"Xin
bà nán lại cho qua buổi trưa nhà tôi sẽ về, dù là về trong cơn bão nhỏ, nếu
biết có bà lại trong lúc đi vắng, nhà tôi hẳn buồn tiếc vô cùng và sẽ trách tôi
vô ý không giữ chân bà lại".
"Bà
thật khéo nói, vậy tôi xin ở lại chờ ông về để thăm ông. Biết đâu không có dịp
trở lại và gặp nhau lần khác nữa".
"Thật
rủi ro, bà đến thăm vào hôm trời không đẹp nên không thể đưa đi ngoạn cảnh được
cũng không xem hoa trong vườn".
Người đàn
bà lại nhìn quanh và băn khoăn vì câu hỏi về con cái của mình chưa được trả
lời. Hình như bà Mishio không muốn nói đến con cái.
"Chắc
là các em cũng sắp về".
Bà Mishio
lạnh hẳn mặt đi.
"Chúng
tôi không có con".
"Dạ…"
Người đàn
bà nghĩ thầm, chắc là hai ông bà Mishio có một bí mật nào đó về mối tình của
họ. Họ chênh lệch tuổi tác, trông rõ hẳn. Ông gần gấp đôi tuổi bà và vì thế,
hẳn ông đã có một đời vợ trước, có nhiều con đã lớn lên, và đến khi lấy bà vợ
trẻ sau này thì… vì một nguyên do nào đó, không muốn có con nữa. Vì thế cho nên
nhắc đến con cái, bà đã buồn bã không muốn trả lời.
Nhưng như
đoán biết những ý nghĩ thầm kín trong trí khách, bà Mishio nói:
"Tôi
chỉ mang thai có một lần, vào lúc gần ba mươi tuổi, nhưng bị tiểu sản và tôi
cũng… rồi thì gần hai mươi năm nay…"
Khách
kinh ngạc:
"Nếu
vậy, bây giờ bà đã… bốn mươi sao, xin lỗi tôi phải hỏi như thế, bởi vì trông bà
chỉ chừng hơn hai mươi tuổi".
"Phải,
tôi chỉ hơn hai mươi tuổi. Nhưng mà đã gần năm mươi… bà thấy là lạ lắm, phải
không, đời tôi như vậy… đã hai mươi lăm năm nay… hình như trời hẩng nắng ngoài
kia, nắng giữa hai cơn mưa, mời bà nhấp tách trà rồi ra xem cảnh".
Khách đi
theo người chủ ra ngoài. Những tia nắng long trên hàng mưa còn đậu trong vắt
trên những đợt tùng láng lẫy. Những bông hoa đủ màu đủ vẻ lộng lẫy rung động trong
cơn gió mát lạnh.
Càng đi
về phía trái ngôi nhà, vườn hoa càng rộng và hoa càng trồng nhiều cho đến khi
tiếp giáp với hồ sen rộng mênh mông. Những bông sen Nhật Bản trắng nõn nàng,
cánh xếp chồng chất như từng mảnh lụa cắt khéo, với những tấm lá lớn đựng đầy
nước mưa lóng lánh trên hồ như thủy ngân. Những đám bèo Nhật Bản li ti từng tai
nấm tí hon xếp từng vầng trôi giạt quanh quẩn giữa vùng nước xanh rêu in bóng
những đợt cây già nghiêng mình soi năm tháng. Tiếng một con cóc kêu nhỏ trong
một bụi cây nào ẩm ướt cuối vườn.
Bàn tay
lạnh ngắt và trơn láng như bụng một con thằn lằn của bà Mishio bỗng nắm lấy bàn
tay bà khách. Giọng bà Mishio như chỉ còn là hơi gió thoảng trong lá cây.
"Những
bông hoa này, hồ thả sen này, tôi chăm nom đã hơn hai mươi năm nay…"
"Hai
mươi năm, không thay đổi".
"Bây
giờ thì thay đổi".
"Sao
bà cho là thay đổi?"
"Nhà
tôi thay đổi, thì mọi thứ cũng phải thay đổi theo chứ, bà xem rồi cả tôi nữa,
tôi là thứ bị thay đổi trước nhất, bà sẽ thấy như thế".
"Thưa
bà, ông thay đổi, làm sao bà biết như thế?"
Bà khách
quay nhìn lại. Mặt bà Mishio trắng như phiến giấy với hai con mắt bỗng hừng lên
một màu hồng vàng kỳ lạ như mắt cá thia đỏ. Trong con mắt chợt đổi màu long
lanh ấy, con ngươi như sáng lên với một tia lửa hắt hiu ảm đạm, như ngọn đèn
nhỏ được treo từ một đáy sâu nào xa hút âm u.
"Từ
lúc ấy, nghĩa là gần hai mươi năm nay, nhà tôi chỉ trau chuốt những bức tranh
dở dang, nhưng không bao giờ vẽ một bức tranh mới nào. Nhà tôi bảo là những cảm
xúc đã chết hết, đã chết theo…"
"Chết
theo…"
"Phải,
chết theo… như bây giờ nhà tôi muốn vẽ tranh lại, nhà tôi đang đến hoạ một cảnh
gần chùa, cách đây không xa lắm. Nhà tôi vẽ, là mọi sự thay đổi cả".
"Như
thế… bà nên mừng đón sự thay đổi của ông chứ".
Sắc mặt
bà Mishio trở lại tươi thắm và bình thường như cũ.
"Vâng,
thưa bà, đó là điều đáng mừng, bao nhiêu năm nay, tôi chờ đợi sự thay đổi đó,
khuyên nhủ nhà tôi cần phải thay đổi đi như thế kia mà, nhà tôi đã khăng khăng
giữ lấy đời sống cũ, những bức tranh cũ, những xúc động cũ. Nhưng bây giờ thì
nhà tôi đã tìm thấy điều tôi mong muốn, dù rằng như vậy thì tôi sẽ… Thôi thưa
bà, xin bà đừng nói đến những điều đó nữa… Kìa, hình như nhà tôi đã về. Đúng là
nhà tôi về. Lạy trời, cơn bão đã không tới. Không chừng là sẽ tới, nhưng muộn
hơn, khi nhà tôi đã ở trong nhà, và bà nữa, bà cũng đã đến nơi…"
Người đàn
bà nhìn ra ngoài cổng. Qua những tàn thông tùng xanh ngắt cách khoảng nhau
thành những ô hình thoi và hình chữ nhật trong mắt nhìn bỡ ngỡ, người đàn ông
tay xách hộp thuốc vẽ, và giá, tay cầm dù thong thả đi vào. Nhận ra dấu vết của
khách tới thăm, ông ta dừng bước, nhìn vườn hoa, cất tiếng chào hỏi. Nét mặt
ửng lên một thoáng hồng tươi đầm ấm và giọng nói hơi run, tỏ ra ông vừa mừng rỡ
vừa xúc động lạ thường.
"Đúng
là bà, không ngờ bà lại giữ lời hứa đến thăm chúng tôi từ xa xôi. Mời bà vào
trong nhà… nhà tôi hẳn đã pha trà cúc hoa rồi chứ. Này mình ơi, chọn cho bà đây
một cái kimono đi mình, bà sẽ ở lại với chúng ta…"
Người đàn
bà nhìn lại, định cầm tay bà Mishio tỏ dấu hoan hỉ và cám ơn sự đón tiếp nồng
hậu của hai ông bà, nhưng một thoáng nhìn quanh quất, nàng không thấy bà chủ
nhà đâu nữa. Chỉ còn tiếng gió quạt nhẹ nhàng trên những tàn lá cây xanh loáng
loáng những giọt nước mưa đong đưa óng ánh nắng vàng yếu ớt như một nụ cười
gượng gạo cuối cùng. Chỉ còn, vẫn tiếng một con cóc, buồn bã kêu lên trong cụm
hoa nào cuối vườn, và tiếng một cành hoa nào rụng xuống mặt hồ sen, âm vang mơ
hồ, xa xôi, như tiếng một giọt nước mắt âm thầm rơi từ khuôn mặt mùa thu ảo
não.
Bà Mishio
nói, đã lâu không được đón tiếp một người khách nào nên bây giờ cơn vui làm no
lòng và bà không thấy thích ăn cơm bằng được ngồi tiếp khách bên cạnh, mặc dù
từ chối bữa cơm khi có khách như vậy là một việc khiếm nhã. Bà thành khẩn xin
lỗi và luôn tay tiếp thức ăn cho chồng và bà khách quý. Bữa cơm thanh đạm,
nhưng ngon lành, gồm một chén canh cải nấu với cá, một đĩa tôm lột vỏ chiên bột
ăn kèm với khoai chiên, một đĩa nhỏ dưa gang ướp mật rượu và đường màu mã não,
những khoanh trứng gà luộc trên một đĩa xà lách thật tươi ghim từng trái táo
đen, hạnh nhân và hạnh đào mào đỏ. Tất cả được trình bày khéo léo trong bát đĩa
bằng một thứ gỗ đen và nhẹ, cẩn hoa và chim bạc, bướm và những cánh tùng già.
Những hột cơm trắng, dẻo vít lên đầu mút đũa nhẹ tênh mà đủ thắm. Người đàn bà
đã được bà Mishio mời đi tắm nước nóng, thay một chiếc kimono đẹp nhất của
chính bà cất giữ từ nhiều năm, màu đỏ và những bông hoa đen trắng lớn, một đôi
dép nhẹ cùng màu, mớ tóc vấn cao để lộ chiếc gáy trắng mỏng lưa thưa những dải
hoa vải mong manh. Ba người quỳ gối quanh chiếc bàn vuông thấp, mỗi người một
mâm cơm riêng trước mặt. Bà Mishio ngồi tiếp thức ăn một lúc rồi lấy cớ đang
bận những việc gì đó ở nhà sau, cáo từ và rút lui.
Bà Mishio
chỉ trở ra một lần để dọn dẹp bàn ăn thay thế một tấm khăn trải bàn thêu tay
khéo, dọn trà bánh và chưng một bình hoa rồi mới biến mất sau nhà bếp.
Ông
Mishio xin lỗi khách về sự vắng mặt bắt buộc của vợ và tỏ vẻ hân hoan nếu được
khách chiếu cố đến những bức tranh đã vẽ từ hai mươi năm xưa của ông.
Phòng
tranh chỉ cách phòng khách một bức tường giấy mỏng. Những cửa nhỏ sát hàng hiên
sau được kéo lên. Ánh nắng vàng tươi nhảy múa chao lượn trong những góc phòng
quen bóng tối. Gần một trăm bức tranh treo san sát nhau quanh bốn bức tường
thấp của gian phòng rộng thênh thang. Một số, không đủ chỗ, đã phải chồng chất
lên nhau xếp vào các góc. Màu sắc trong xanh u trầm, mờ nhạt, như những vết
khói mờ tan loãng dần trong hư vô.
Trên giá
vẽ của kệ trong góc phòng, một bức tranh lớn được phủ một tấm lụa vàng đã bạc
màu. Người đàn bà tò mò tiến lại gần giá vẽ. Ông Mishio có vẻ bối rối, nửa muốn
ngăn cản, nửa ngại ngần. Cuối cùng ông nói:
"Đó
là bức tranh dở dang cuối cùng của tôi. Từ đó đến nay, tôi gác bút luôn, không
thêm được nét nào nữa".
"Bà
nói, ông vừa vẽ trở lại, và hôm nay ông vừa đi hoạ thắng cảnh nào gần
đây".
Ông
Mishio cười buồn rầu:
"Tôi
tưởng là có thể vẽ lại được, nhưng tay đã cứng mất rồi. Trái tim già cỗi và
những ngón tay cứng khô".
Người đàn
bà băn khoăn.
"Bức
tranh kia chưa xong, sao ông không hoạ tiếp tục. Ông hoạ gì trong đó".
"Vợ
tôi, tôi vẽ bà ấy mang thai ba tháng hồi đó, tôi say mê vẽ đến bất kể một thứ
gì khác, nhất là bức tranh ấy… đến nỗi… mỗi ngày dù mệt nhọc đến đâu, nhà tôi
cũng bắt buộc ngồi làm mẫu cho tôi vẽ chừng ba bốn tiếng đồng hồ sau công việc
mệt nhọc. Hồi đó, chúng tôi nghèo cực kia, tranh tôi không bán được, vợ tôi
cũng chưa có tiếng tăm gì để làm ra được chút tiền, nhà tôi phải âm thầm tần
tảo lo liệu lấy mọi việc để giúp tôi yên ổn thời giờ tâm trí hoạ tranh. Thời
ấy, tôi không nghĩ ra mọi điều tai hại của sự say mê của mình, cũng như không
hề lưu tâm tới những khổ sở mà nhà tôi vì tôi phải chịu đựng những mệt mỏi, đau
đớn quá mức để ngồi cho tôi vẽ, nhà tôi bị hư thai, và phải mổ… rồi thì…"
Người đàn
bà bỗng lắng nghe. Hình như một tiếng khóc nức nở mơ hồ từ bên kia bức tường
giấy vọng sang. Người đàn ông như không nghe tiếp tục những ý nghĩ đắm chìm.
"Tiếc
thay, tôi đã dành lại cặp mắt cho nét vẽ cuối cùng. Cho nên không kịp nữa. Và
bức tranh đã dở dang".
Người đàn
bà thắc mắc:
"Về
sau, bà không ngồi tiếp cho ông vẽ xong đôi mắt?"
"Đôi
mắt ư? Trong bức tranh bây giờ là hai vầng tối trống không. Và trong đời sống
thì… chỉ còn là cái nhìn xa vắng. Bà không thấy điều đó sao?"
"Đôi
mắt bà… tôi thấy, nếu ông tiếp tục bức tranh bà thì đôi mắt bây giờ không chừng
đẹp hơn xưa".
"Tôi
không thể hình dung lại, tưởng tượng nhà tôi để vẽ lại. Cái gì xoá nhoà, mờ
mịt, một khoảng cách vô bờ giữa chúng tôi ngăn chia tầm mắt và biến đổi cái
nhìn".
Người đàn
bà lạ lùng:
"Sao
bà không ngồi đây, và ông vẽ bà?"
"Tôi
không thể vẽ cái bóng".
Người đàn
bà cảm thấy có nỗi gì bí ẩn, muốn hỏi nhưng người đàn ông đã khép cánh cửa sổ
lại, ánh sáng đã lần về trời, căn phòng mờ tối lạnh lẽo và hai người trở ra
phòng khách, tiếp tục những chén trà nóng thơm ngát mùi hoa cúc.
Người đàn
bà tỏ ý muốn mời bà Mishio lên ngồi nói chuyện, vì nàng không thể ở lại lâu,
còn phải trở về Osaka để cùng đi mua sắm với mấy bà bạn.
Ông
Mishio thở dài:
"Ở
Kyoto này thì không có gì vui cả, nhưng nếu bà ở lại với chúng tôi, ngày mai
chúng tôi sẽ đưa bà đi xem ngôi chùa cổ. Còn nhà tôi thì… bây giờ là buổi trưa,
buổi trưa nào nhà tôi cũng phải vắng mặt để ra ngoài ấy".
"Dạ,
ông bà còn có một ngôi nhà nào khác?"
"Không,
chỗ của nhà tôi".
Người đàn
bà bỗng nhớ tới bức tranh dở dang trong phòng tranh cũ. Có cái gì làm bà nghĩ
tưởng lan man không dứt đến bức tranh kia, và những câu nói nửa vời của ông
Mishio. Nàng hỏi không ngăn được lòng trí tò mò.
"Xin
ông… cho tôi được xem bức tranh của bà trong ấy, tại sao ông lại phải che tấm
lụa như vậy, phòng không có bụi mà? Những bức tranh khác để trần cũng có hư hao
gì đâu".
"Nhà
tôi muốn che lại như thế, và tôi phải che lại từ ngày ấy. Bà muốn xem thật ư?
Chắc là nhà tôi không bằng lòng đâu, nhưng mà… từ xa xôi đến, chẳng lẽ bà chỉ
muốn ngắm một bức tranh lại không thể được. Mời bà cứ trở lại phòng tranh và
xin tùy tiện".
Người đàn
bà đứng lên, trong lúc ông Mishio ngồi lại một mình ở phòng ngoài.
Nắng bỗng
tắt khi nàng nâng khung cửa sổ lên chờ chút ánh sáng hắt vào phòng. Căn phòng
mờ tối lạnh lẽo phảng phất mùi ẩm mốc, mùi thơm lạnh và nồng của một thứ gỗ
trầm xưa cũ.
Người đàn
bà rón rén lại gần bức tranh trên giá và giở tấm lụa vàng lên. Nàng lùi lại một
bước và cảm thấy một luồng nước lạnh luồn khắp châu thân làm hai chân cơ hồ dán
in xuống đất và hai tay run cứng lại treo nửa vời. Nàng nhìn đăm đăm bức tranh
kỳ diệu lồ lộ khuôn mặt kiều mị của người đàn bà đã nhìn thấy. Vẫn đôi môi đỏ,
cặp má hồng đầy, cái vẻ tươi thắm và thanh tú sống động của khuôn mặt vương vất
sợi tóc đen nhánh lung linh. Bức tranh như diễn tả đầy đủ một khuôn mặt sống
thật đang linh động trong mắt người nhìn ngắm. Nhưng… không như ông Mishio nói
chưa vẽ xong cặp mắt ngày ấy, người đàn bà nhận ra đúng là màu mắt và dáng nét,
cái nhìn vừa dịu dàng vừa u uất của người đàn bà, và vẻ dị thường của ánh mắt
nàng đã nhìn thấy tình cờ trong vườn hoa buổi sáng. Nàng nhớ rõ là ông Mishio
đã nói chưa vẽ cặp mắt, trong tranh, mắt chỉ mới là hai khoảng trống. Không lẽ
nhiều năm, và ông đã quên, hay một lúc nào ông đã vẽ tiếp đôi mắt bà, nhưng ông
chẳng nhớ. Thắc mắc, và sợ hãi trong một cảm giác rờn rợn kỳ lạ, nàng lùi lại
từng bước vội vã, đi nhanh ra phòng khách. Nàng nói cho ông Mishio biết điều
vừa trông thấy, và nàng cũng nhờ ông vào che lại bức tranh như cũ mà trong lúc
vội vàng nàng đã quên.
Ông
Mishio đứng phắt dậy, im lìm như trời trồng một lúc lâu khi nghe nàng nói. Mái
tóc trắng rung rung, vầng trán xếp lại từng nét nhăn xót xa, hai tay run run
lần về phía trước, ông như chết điếng đi một lúc lâu rồi lẳng lặng bước vào
phòng tranh. Người đàn bà rón rén theo sau, đứng ở khung cửa nhìn vào.
Hai tay
bưng mắt, người đàn ông đứng lặng trước bức tranh, rồi ông tháo bức tranh ra khỏi
giá, áp vào ngực, nước mắt giàn giụa chảy dài xuống má. Người đàn bà nghe tiếng
ông hỏi vọng ra…
"Bà
để… tấm khăn lụa đâu rồi?"
"Bên
cạnh giá vẽ, trên mặt bàn ấy".
Im lặng
một lúc, rồi bỗng người đàn ông kêu lên:
"Tôi
tìm khắp không thấy tấm khăn lụa vàng đâu cả, xin bà nhớ lại cho, bà có mang
khăn ra khỏi phòng không?"
Người đàn
bà rợn người:
"Tôi…
có cầm khăn ấy đi đâu. Ông tìm lại xem".
"Cái
khăn không còn trong phòng nữa. Chắc là nhà tôi đã lấy đi rồi".
Người đàn
bà lạc giọng đi:
"Bà…
đã về".
"Có
lẽ và lại đi rồi, lần này thì… không chừng nhà tôi đi chẳng trở về nữa…"
Không
ngừng được, người đàn bà níu lại cánh tay ông Mishio:
"Ông
nói cái gì, có chuyện gì vậy? Xin ông nói ra".
Ông
Mishio thận trọng đặt bức tranh trở lại chỗ cũ, yên lặng kéo cánh cửa lại và
lặng lẽ đi ra khỏi phòng. Ông ngồi xuống chiếu, hai tay chắp trước ngực, mắt
khép lại, tâm thần phiêu diêu trong một cõi xa vời mộng mị nào. Rồi trên môi
thoang thoảng một nụ cười nhợt nhạt, ông Mishio lẩm bẩm một mình như không có
ai trước mặt:
"Mình
hiểu lầm tôi, mình đã hiểu lầm tôi rồi, không phải như mình nghĩ đâu".
Ông
Mishio nghe như trong xa vắng có tiếng nói rất khẽ đáp lại lời mình thì thào:
"Ông
đừng chối, tôi thấy rõ ông hơn cả chính ông nhìn thấy ông mà. Mặc dù chưa đến
đâu, chưa xảy ra chuyện gì cả, nhưng mà câu chuyện đã khởi đầu, nếu cứ tiếp
tục, một lúc nào đó điều tôi đang nghĩ về mình sẽ đúng".
Ông giang
tay trong không khí mong níu kéo một chéo áo kimono mơ màng đâu đó:
"Không,
không phải thế, chẳng có chuyện gì xảy ra, dù chỉ là trong ý nghĩ tôi thôi. Tôi
chỉ yêu quý mình, suốt đời tôi chỉ biết có mình mình mà thôi".
Ông lắng
nghe. Không còn lời nào đáp lại, dù là trong xa vắng. Ông tưởng như lời mình
không còn ai nghe nữa và một giây ông cảm nhận tất cả nỗi quạnh hiu của tuổi
già, và cô đơn đã kéo dài từ bao nhiêu năm và từ đây nối tiếp, mãi mãi vô tận
của đời người, không biết tới bao giờ.
Người đàn
bà chậm rãi từng bước nhỏ qua khung cửa vắng. Mù sương buổi sáng giăng mắc một
vùng cảnh vật đắm chìm trong giấc ngủ. Ngôi chùa cổ cao rộng mênh mông đen thẳm
cắt thành một khối khổng lồ im lìm và bí mật trong vùng mù sương trắng bạc.
Những hàng cây bốn phía lù lù đen sẫm như những tượng người quái dị cao lêu
nghêu vươn tay lên trời mở lời cầu nguyện nín câm. Các tháp chuông cao lớn đứng
lù lù ở một góc u tịch như khối đen chứa đựng những bí mật chết chóc truyền
kiếp nào từ bao nhiêu thế kỷ.
Đến trước
hiên chùa, nàng dừng lại nhìn quanh tìm kiếm. Ông Mishio đã hẹn gặp ở chỗ này,
đúng chín giờ. Bây giờ hình như đã quá chín giờ, và ngoài kia bức tường, lũ học
trò đã sắp hàng vào lớp của ngôi trường nhỏ bên kia chùa đã từ lâu. Nắng chưa
lên, nhưng một vài bóng người đã len lén vào chùa, thấp thoáng sau những tàn lá
thưa, dâng hương lễ bái. Một cái gì u ám, bí mật phủ trùm, ám ảnh quanh trí
nàng, như một lớp mù sương. Và hình như đêm qua, sau một buổi chiều dài ngồi
chờ không thấy bà Mishio về, trở lại nhà trọ ngủ cho qua đêm trước khi tới chỗ
hẹn với ông bà Mishio, nàng đã chiêm bao, thấy một điều gì lạ lùng, liên quan
tới bà Mishio và bức tranh. Hình như nàng mơ thấy bà ấy về, nói chuyện về bức
tranh, về việc tiểu sản ngày trước của bà, liên hệ tình cảm giữa ông và bà, về
sự có mặt của nàng trong đời sống đang yên lặng. Và những gì gì nữa, hình như
rất quan trọng, nhưng nàng không thể nhớ, và chính vì vậy nàng băn khoăn, hoang
mang không cùng.
Bỗng nàng
nghe một tiếng kêu nhỏ, trầm ấm, như một tiếng reo vui, nhưng cũng là một hơi
thở dài kín đáo.
"Kìa,
bà đã đúng hẹn".
Người đàn
bà cũng mừng rỡ:
"Ông
mới đến, bà đâu, thưa ông?"
Ông
Mishio đan những ngón tay vào nhau, đầu cúi xuống, những vệt tóc trắng bay phơ
phất trên vầng trán căng hằn mấy vết nhăn vừa đánh dấu một đêm phiền muộn không
ngủ.
"Bà
có thể lại kia, chúng ta ngồi lại cho qua câu chuyện, câu chuyện cuối
cùng".
Hai người
thong thả đi bộ về phía hiên chùa ngồi xuống những bậc thềm lạnh lẽo không nắng
chiếu.
Người đàn
bà hỏi lại vì sao bà Mishio chưa tới, ông thở dài, tránh không nhìn hai con mắt
đằm thắm của người đàn bà.
"Nhà
tôi không đến. Và vì thế, lẽ ra tôi cũng không đến, nhưng mà lỡ hẹn với bà, vả
lại, đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, đúng ra là tôi được gặp bà, vả lại
hôm nay là ngày… ngày gì bà có biết không, ngày Giáng sinh… và ngày nhà tôi…
không còn nữa, tôi đến đây để cầu cho nhà tôi…"
Người đàn
bà sững sờ:
"Ông
nói gì, bà đã…"
"Vâng,
nhà tôi đã chết".
"Chiều
hôm qua?"
"Không,
cách đây gần hai mươi năm rồi, ngày đó, ngày tôi vẽ bức tranh".
Người đàn
bà ớn lạnh khắp châu thân nhớ đến đôi mắt như màu cá thia vàng kỳ dị đã nhìn
thấy trên khuôn mặt trắng nhợt của bà Mishio trong vườn hoa hôm qua.
"Vậy
thì bà hôm qua…"
"Vâng,
hôm qua nhà tôi, nhưng mà…"
Một bà
già thủng thỉnh, yên lặng từng bước trên đôi guốc gỗ cao, chống gậy trúc, một
tay cầm thẻ nhang đi gần lại phía chùa, nhìn lên, trông thấy hai người, quay
lưng đi lảng ra chỗ khác. Bước chân bà làm bầy bồ câu đang mổ thóc trong sân
bay vụt lên, tiếng cánh rào rào như mưa rơi trên sông lụa.
Ông
Mishio đột ngột quay lại nhìn đăm đắm trong hai mắt mơ màng của người đàn bà,
giọng ông nhỏ xuống như lời thú tội bàng hoàng:
"Nếu
tôi cắt nghĩa về những sự việc xảy ra giữa chúng tôi, và để bà hiểu được vì sao
nhà tôi đã có mặt, rồi vắng mặt, và bây giờ… không đến, không bao giờ đến nữa,
tôi phải thú thật với bà những gì ám ảnh trong lòng tôi bấy lâu nay, từ hồi gặp
bà ở hội nghị, từ hôm… trong lòng tôi băn khoăn mỗi một điều, làm thế nào có
thể hoạ được bức chân dung của bà dù chỉ là vài ba nét loáng thoáng. Như xưa
kia, hồi mới gặp nhau, tôi ao ước làm thế nào hoạ được lên lụa những đường nét
diễm kiều thanh cao của nhà tôi. Tôi… tôi phải nói hết ra mọi điều, để khi ra
về rồi, phương trời nào đó, bà có thể nghĩ, vì mình một đời sống nào ở xa xôi,
đã biến đổi, đã sống lại một người, đã chết đi một người, đã vì mình mà một đời
sống kỳ diệu, một phối hợp phi thường giữa âm và dương, gần hai mươi năm ròng
rã đã phút giây trở thành mây khói xa vời. Sẽ nghĩ…"
Giọng ông
bỗng đổi thay, chìm xuống như một dây tơ chùng:
"Đêm
qua… đêm qua, những đêm trước… tôi chiêm bao thấy bà, từ khi… từ khi gặp bà,
tôi vẫn chiêm bao thấy bà. Và cũng từ hôm ấy, tôi muốn vẽ tranh lại. Sau hai
mươi năm thề rằng không bao giờ vẽ nữa sau bức tranh không mắt của nhà tôi. Tôi
mang giá vẽ ra khỏi nhà, đi xa, tìm cảnh khuất vắng, pha màu, mong vẽ một cảnh
nào đó, nhưng tôi cầm bút lên, bất cứ nét nào cũng là nét dáng của bà mà thôi.
Tôi phải dập xoá bức tranh và mang khung tranh lụa trắng trở về. Nhưng vô ích,
nhà tôi biết hết, thấy hết, nhà tôi biết tôi nghĩ gì về bà, tôi chiêm bao thấy
bà, tôi sẽ hoạ hình bà lên khung lụa mỗi lần ra khỏi nhà một mình… Và nữa, nhà
tôi cũng biết tôi đã soi bóng mình xuống hồ sen…"
Người đàn
bà cười mơ mộng:
"Ông
soi ngắm mình dưới hồ sen sao?"
"Xin
bà đừng cười, tôi phải nói ra điều không thể nói. Chính với hình bà, từ hôm gặp
nhau, tôi sống lại đời sống thật, tôi muốn thấy lại mình sự thật ra sao. Bao
nhiêu năm nay, với hình bóng trẻ trung không thay đổi của nhà tôi bên cạnh, đời
sống bình yên kia tôi cứ tưởng mình vẫn còn như hai mươi năm xưa, nhưng mà tôi
đã già rồi, tôi đã chôn sống tôi hai mươi năm với một cái bóng, với một người
đã chết. Điều đó cũng không làm cho người chết sống lại, mà làm chết luôn đời
sống của tôi. Hai mươi năm, tôi không tình cảm, không hoạ tranh, không giao du
với ai, không biết đến gì trong đời sống bên ngoài, chỉ có nhà tôi, nhà tôi…
Tôi nhận ra những điều đó khi nhìn thấy mái tóc trắng của mình cúi xuống trong
hồ nước, và tôi ân hận vô cùng, tôi tiếc đời sống vô cùng. Từ phút đó, bao
nhiêu ân tình và lòng chung thủy đối với nhà tôi gần hai mươi năm, dù cũng còn
đó, nhưng chừng như tiêu tan thành mây khói hết. Giữa chúng tôi sợi dây nối kết
giữa âm dương cũng dứt lìa, và nhà tôi… nhà tôi…"
Người đàn
bà ngắt lời ông Mishio:
"Như
vậy là… bà mất đúng khi bị tiểu sản?"
"Vâng,
nhà tôi mất lúc ấy, nhưng mà vì… vì mối tình u uẩn khăng khít của chúng tôi,
vì… nỗi chết quá bất ngờ, ai oán, nhà tôi đã phải trở về quanh quẩn với tôi.
Nhà tôi chỉ cần một điều kiện, là bao giờ lòng tôi thoáng đa mang, dù cách nào,
một hình bóng khác thì mối tình kia không còn lý do tồn tại, và nhà tôi cũng sẽ
biến tan theo mối tình nồng nàn. Bây giờ thì…"
"Bà
ấy không có vẻ gì khác lạ cả. Bà ấy vẫn đi đứng nói cười, như mọi người, tôi
hay bất cứ một người nào cũng không tin đó chỉ là cái bóng".
"Nhà
tôi về từ cõi kia, trở về với tôi với lời hứa, là khi nào tôi đổi thay, vẻ tươi
trẻ nhà tôi giữ gìn cho tôi suốt hai mươi năm nay sẽ không còn, nhà tôi sẽ già
bằng tuổi. Từ chiều hôm qua, nhà tôi đi không trở về, và nếu có trở về, như nhà
tôi nói trong chiêm bao đêm qua, sẽ không còn tươi trẻ nguyên vẹn như bao lâu
nay nữa, vì rằng, tôi đã thú thật với bà từ đầu câu chuyện".
Người đàn
bà bứt rứt mân mê tà áo:
"Vì
tôi, vì tôi thật ư? Tôi không tin như vậy. Bà cũng có thể hiểu lầm, sự quen
biết và thăm viếng giữa chúng ta, tôi tìm đến, là chỉ vì quý mến hai ông bà
giữa bao người xa lạ khác. Còn ông đối với tôi, chẳng qua cũng chỉ là chút tình
cảm, như bao nhiêu người khác đã gặp đều có cảm tình với tôi. Chỉ khác là giữa
chúng ta có một thông cảm im lặng và sâu xa nào đó thôi. Sự thông cảm ấy, bà
cho là…"
"Cám
ơn bà đã nói như vậy, nhưng điều ấy không giải toả được những thắc mắc trong
lòng tôi, những u uẩn trong hồn người. Bây giờ thì muộn rồi, nhà tôi đã xa hẳn
tôi. Tôi mất nhà tôi, sau suốt hai mươi năm còn gắng gượng lẩn quất quanh tôi,
kéo dài chút tình đằm thắm. Nhưng tôi được gì, tôi có gì, tôi còn gì không. Đối
với bà, tôi chỉ có chút lòng cảm mến, đúng ra là tôi đã tìm lại nguồn rung cảm
thuần tuý nghệ thuật mà gần hai mươi năm trời nay đã khô cạn, héo khô. Mà dù có
thể nào rồi ngày mai ngày kia, bà lại đi, bà có phương trời của bà. Còn tôi,
tôi với cái bóng già cỗi của mình trong hồ sen, với hình ảnh nhà tôi chỉ còn
trong trí nhớ, với những vết tích thân yêu trong ngôi nhà vắng lặng kia, một
mình… một mình với những chiếc dép màu quanh thềm nhắc nhở bước chân ra vào
lững thững, những chiếc kimono còn vương vất mùi hương hơi trong tủ, những
chiếc gối thêu hoa, những chăn nệm đượm nồng, những tách trà cúc hoa…"
Những
giọt nước mắt bồi hồi nhỏ xuống má môi người đàn bà:
"Nhưng
ông sẽ còn bức tranh, bức tranh bây giờ đã có hai con mắt của bà… bức tranh sẽ
là bà…"
"Bà
lầm rồi, như tôi nói, bao giờ nhà tôi mất đi hẳn, những nét trong tranh cũng sẽ
nhạt mờ theo. Còn hai con mắt mà bà thấy đó, không phải là con mắt đâu, mà cái
nhìn muốn nói với tôi tất cả những điều tôi vừa nói với bà đó. Nhà tôi đã lấy
tấm lụa vàng đi, vì rằng… bức tranh bây giờ chỉ còn là cái tấm vải trống trơn
không còn dấu vết màu sắc hình nét nữa. Bà không tin lời tôi, nếu bà có thể trở
lại phòng tranh, bà sẽ thấy lời tôi nói. Nhưng ở đây cuối cùng rồi bà cũng sẽ
thấy một cái gì đó làm cho bà tin những điều tôi nói là có thật".
"Ông
nói cái gì là cái gì…?"
Ông
Mishio đứng dậy. Người đàn bà đứng dậy theo. Sương đã tan hết trong sân chùa
cổ. Mùi hương thoang thoảng từ một bệ thờ nào đó. Bỗng ông hỏi ngập ngừng:
"Bao
giờ bà đi?"
"Trưa
nay, tôi đã ghi lại vé máy bay".
"Vậy
thì... phút này, xin từ biệt bà, và xin gặp lại ở đời sau, cả ba chúng ta, nếu
còn có đời sau cho mỗi người".
Trong cơn
xúc động bàng hoàng, người đàn bà trao bàn tay nhỏ nhắn của mình cho ông
Mishio. Hai bàn tay ông dịu dàng, thân ái và kính cẩn, nâng bàn tay người đàn
bà lên mặt mình, im hơi lắng nghe những nhịp luân chuyển của sự sống trong mạch
máu, lòng dịu lắng trong một nỗi xúc động buồn thảm và mông lung, ông nghĩ, từ
phút này, ta chỉ còn lại niềm quạnh hiu cuối cùng cho đời người, và ông giữ bàn
tay người đàn bà trong hai bàn tay mình một lúc lâu, thành khẩn, như người đi
lễ bái giữ những nén hương đã đốt trong tay mình lúc cầu khẩn.
Rồi họ
cùng bước xuống thềm, cùng đi ra sân bây giờ nhoà nhạt bóng cây thêu bóng nắng.
Tiếng một hồi chuông nhỏ văng vẳng từ cõi tịch liêu xa vời nào đó.
Bỗng từ
đằng kia, đi lại, thoắt chậm thoắt nhanh một bóng người áo trắng. Cái bóng tới
gần mãi trong hai mắt sửng sốt nhìn không chớp của người đàn bà. Nàng đưa hai
tay về phía trước, kêu lên:
"Bà…
bà Mishio!"
Ông
Mishio cũng vừa nhận ra vóc dáng mảnh mai và nét mặt xinh tươi rạng rỡ của bà.
Bà mặc cái kimono trắng, mỏng và thưa, với từng tầng vải mong manh như kết tụ
bằng tơ trời, hai tay rộng thùng thình buông xõa chập chờn như những mảnh mây
chiều, với một cái nón tre che hở nửa mặt. Bà Mishio chập chờn tiến lại trước
mặt hai người, dừng lại, nhìn ông bằng đôi mắt trong suốt, nửa trách hờn, nửa
mãn nguyện, rồi im lặng, bà đi lướt qua ông, ngược chiều với hai người, bước
nhanh như bay biến về phía sau chùa.
Người đàn
bà băng mình chạy theo. Nàng lạc vào một vùng sân lô nhô đây đó những bức tượng
đồng đen kỳ dị. Bà Mishio đi lầm lũi, vẫn khi chậm khi nhanh, len lỏi vào giữa
những bức tượng đồng đen. Người đàn bà hoa mắt cố theo dõi đuổi theo kịp bà
Mishio, với ý nghĩ níu được bà lại với ông, dù chỉ một lần cuối cùng, để giải
thích mọi điều bà đã lầm lẫn, và buồn lòng bỏ đi mãi mãi.
Quanh co
một lúc, đến cuối sân chùa, một vùng bóng cây đen che khuất nắng sáng trên cao,
chỉ còn lại những lớp sương mù trắng che kín mặt đất âm u, làm cho những gốc
cây, những pho tượng đồng đen như nổi lềnh bềnh trong không trung mờ mịt, bà
Mishio bỗng chậm bước, rồi dừng lại. Người đàn bà mừng rỡ cất tiếng gọi. Bà
Mishio xoay mình, từ từ quay mặt lại. Người đàn bà kêu thét lên. Vẫn là vóc
dáng và xiêm y của bà Mishio vừa nhìn thấy, vẫn cái nón tre che hờ nửa mặt,
nhưng trong một thoáng nhìn lên, khuôn mặt người đàn bà Nhật đã hoàn toàn biến
đổi. Khuôn mặt nhăn nheo tối tăm, những sợi tóc phất phơ bạc trắng, đôi môi
trũng xuống héo hon, khắp cả là những nét già nua, dấu vết thời gian của hai
mươi năm tàn phá. Chỉ còn trên khuôn mặt tàn héo cằn cỗi lạ thường kia, là hai
con mắt, đúng là hai con mắt cá thia vàng của bà Mishio mà người đàn bà đã nhìn
thấy trong vườn hoa, nhưng bây giờ, con ngươi đã nhoà đi một màu trắng đục như
sương pha, và tròng mắt trong sáng long lanh hôm qua chỉ còn là một màu vàng
đục mờ ủ ê, buồn bã. Nàng nhìn xuống. Bà Mishio đứng như chôn hờ trong vũng
khói sương trắng xoá, hai chân lao đao muốn ngã, những cánh tay áo phất phơ run
rẩy theo hai bàn tay buông duỗi khẳng khiu. Hai vai như còng xuống, khoảng lưng
cúi khom, bà Mishio, với tất cả vẻ già nua dị thường ma quái, lững lững đi về
phía cuối sân chùa, và người đàn bà thấy, như trong giấc mơ xa, bà Mishio đi vào
một pho tượng đồng đen vừa mọc ra giữa vùng sương trắng.
NGUYỄN THỊ HOÀNG
Osaka,
1970