Trong phần “Phụ chú” bài viết về cố giáo sư, nhà văn Cung Giũ Nguyên (từ trần ngày 7 Tháng Giêng, 2008, ở Nha Trang, thọ gần một trăm tuổi); tác giả “Đuổi Bóng Hoàng Hôn” cho biết, ông thay mặt “Trung Tâm Cung Giũ Nguyên” ở hải ngoại, đọc điếu văn người thầy cũ của mình, có đoạn:
“…Học trò thầy rời mái trường đã lâu lắm rồi, hầu hết đầu đã bạc, vậy mà âm vang những câu chuyện hay bài học ‘ngoài môn học,’ hay những lời giảng về cách nhìn cuộc đời, cách nhìn một thế giới rộng lớn hơn cái không gian nhỏ bé của mình hay vượt ngoài cái không gian hạn hẹp của mỗi đời người, dường như vẫn còn đâu đó
Đinh Cường và Trương Vũ tại Studio
Trương Vũ
Virginia, 26.9.2015 - Ảnh Phạm Cao
Hoàng
Nếu không có tiết lộ của
nhà văn Trương Vũ về họa sĩ Đinh Cường, có dễ ít người biết rằng, tinh thần họ
Đinh có phần “chao đảo” trong những năm, tháng tị nạn ở xứ người; vì Đinh Cường
là người rất kín đáo. Dường như hiếm khi ông cho bằng hữu biết những cảm nghĩ
thực của ông trong giai đoạn sống xa quê hương này.
Tuy được gia đình, bằng hữu
rất mực thương, yêu, nhưng sự kiện ấy, vốn nằm ngoài “tiêu chí” của định mệnh.
Tôi muốn nói, điều gì phải tới, cũng đã tới, dù cho người đó là tác giả “Tháng
Ba Gãy Súng.”
Ghi lại những ngày, giờ cuối
cùng của Cao Xuân Huy, Trương Vũ viết:
“Cách đây vài tuần, sau một
chuyến đi xa về, tôi được tin Huy bệnh nặng, nặng lắm, y học bó tay rồi. Tôi liền
gọi điện thoại cho Huy, chỉ nghe giọng thều thào. Tôi lặng người. Có bao giờ
trong đời tôi nghe Huy thều thào. Tôi tìm cách thu xếp ngay những việc riêng cần
thiết để bay về Quận Cam. Hai ngày trước khi tôi lên đường, nhận được điện thoại
của Trịnh Y Thư cho biết đúng 4 giờ 53 phút chiều Thứ Sáu, 12/11/2010, Cao Xuân
Huy đã từ biệt vợ con và vài bạn bè thân nhất đang ở bên cạnh, bình thản đi vào
nơi vô tận…” (“Đuổi Bóng Hoàng Hôn,” trang 172, 173).
Nguồn:
Báo Người Việt, California, 19.7.2019
Tôi trộm nghĩ, độc giả của nhà văn Trương Vũ ít ai ngạc nhiên khi nhận ra ông vốn nặng lòng với quê hương, nhất là ở lãnh vực văn học, nghệ thuật của đất nước. Xu hướng này thể hiện rất rõ qua nhiều trang sách ở tác phẩm “Đuổi bóng hoàng hôn”. Cụ thể những chương như “Nhìn lại phong trào văn nghệ phản kháng tại Việt Nam”; “Chiến tranh Việt Nam, văn học Việt Nam hải ngoại và phía bên kia thiên đường” hoặc “Vị trí của Sáng Tạo trong sự phát triển văn học miền Nam sau 1954”; vân vân…
Mối quan tâm của họ Trương không chỉ giới hạn ở cõi-giới văn chương miền Nam, nơi ông lớn lên, trưởng thành, hay những năm tháng ông phải bỏ nước ra đi, mà tác giả “Đuổi Bóng Hoàng Hôn” (ĐBHH) còn theo dõi sát sao những biến động của dòng văn chương miền Bắc trong 20 năm chia cắt nữa. Điều này cho thấy, trái tim, tấm lòng đau đáu với chữ, nghĩa của ông, đã vượt khỏi sự “khoanh vùng” bởi chia cắt hay, vạch phấn chính trị. Nơi bất cứ tiểu luận nào, ở lãnh vực này, cũng được họ Trương ghi nhận với tất cả trầm tĩnh, khách quan có được…
Cụ thể, trong tiểu luận tựa
đề “Nhìn lại phong trào văn nghệ phản kháng tại Việt Nam”, Trương Vũ viết:
“… Trong một tiểu
luận tựa đề “Viết về chiến tranh” (Văn Nghệ Quân Đội, tháng 11 / 1978), Nguyễn
Minh Châu đả kích tác phẩm của hầu hết những nhà văn thời kỳ đó là họ chỉ viết
về ‘những hiện thực mơ ước’ chứ không phải viết về những ‘hiện thực đang tồn tại’.
Tán đồng với nhận định của Nguyễn Minh Châu, nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến viết
bài nhan đề ‘Về một đặc điểm văn nghệ ở ta trong giai đoạn vừa qua’, trong đó
ông đề nghị nên gọi nền văn học nghệ thuật hiện đại của Việt Nam là một nền văn
học nghệ thuật ‘phải đạo’, có nghĩa là ‘quan tâm đến sự phải đạo nhiều hơn là
tính chân thật’. Cũng trong tháng đó, Nguyên Ngọc đề nghị một đề cương về sáng
tác văn học trong đó ông kịch liệt đả kích chất lượng yếu kém của những tác phẩm
văn học hiện đại. Đề cương này mãi chín năm sau mới được phổ biến, nhưng chỉ phổ
biến một phần trên tạp chí Langbian ở Đà Lạt…” (ĐBHH, trang 22, 23)
Không nương vào những lên
tiếng minh bạch của một số nhà văn trong cuộc, để đưa trình bày quan điểm của
riêng mình, họ Trương chỉ tiếp tục ghi nhận phản ứng của thành phần bảo thủ, của
những “dư luận viên”, theo cách nói hôm nay của những cây bút ủng hộ chế độ.
Nhà văn Trương Vũ đề cập tới một bài viết trên tạp chí Nghiên Cứu Nghệ Thuật
(Tháng 1/1980) của tác giả Kiều Vân:
“Kiều Vân biểu lộ một cách
khá hằn học, dùng trường hợp của Lucas để ngụ ý những người này đã ‘đòi hỏi một
kiểu tự do vô lối trong sáng tác đối với xã hội chủ nghĩa, tấn công một cách
kiên trì vào nền văn học mang tính đảng và tính có khuynh hướng’. Thế nhưng, từ
phía đông đảo nhà văn, nghệ sĩ và trí thức, có một sự yên lặng đáng ngạc nhiên,
không giống như vào thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đa số đã nhẩy vào đánh hùa theo
với đảng…” (ĐBHH, trang 23).
Dõi theo biến động bất ngờ,
đáng kể của những nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc, họ
Trương ghi nhận tiếp:
“… Hai tháng sau,
dưới áp lực của chính sách đổi mới ở Liên Xô và Đông Âu, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn
Linh tuyên bố sẽ đổi mới chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 12/1987,
nghị quyết số 5 về đổi mới trong văn học và nghệ thuật được ban hành…” (ĐBHH,
trang 24)
Vẫn theo ghi nhận của tác
giả ĐBHH thì, khởi từ nghị quyết vừa kể mà lãnh vực phê bình, lý luận ở miền Bắc,
có nhiều tác giả nổi bật như Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà… Ở
lãnh vực kịch nghệ, điển ảnh, người ta thấy họ Trương nhắc đến những tên tuổi,
như Lưu Quang Vũ, Tất Đạt, Trần Văn Thủy, Việt Linh. Về thơ, Trương Vũ nói, phải
kể tới Nguyễn Duy, Trần Vàng Sao…
Nhưng theo họ Trương thì
những tên tuổi được dư luận ghi nhận là sôi động, sáng rỡ nhất phải là Nguyễn
Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Trần Mạnh Hảo, Nhật Tuấn, Nguyễn
Quang Lập, Bảo Ninh, v.v…
Vẫn theo nhà văn Trương Vũ
thì, Nguyễn Huy Thiệp được coi là tài năng hàng đầu của giai đoạn “cởi trói văn
nghệ” này:
Nguyễn Huy Thiệp “… nhìn
xoáy vào từng điểm đen tối nhất của đời sống. Ông lôi ra ánh sáng để đùa bỡn với
những khúc mắc ghê rợn của một xã hội trong đó ông sống và làm việc. Phong cách
này được nhìn thấy rõ nhất trong các truyện ngắn như ‘Tướng về hưu’ và ‘Không
có vua’…” (ĐBHH, trang 25)
So sánh nội dung tác phẩm
của Nguyễn Huy Thiệp và Dương Thu Hương, nhà văn Trương Vũ cho rằng truyện dài
“Thiên đường Mù” của Dương Thu Hương “bao phủ một không khí hoài niệm, tăm tối,
sầu thảm. Cái thiên đường mà Dương Thu Hương ngụ ý ở đây chỉ là một thiên đường
của những kẻ đã đánh mất nhân tính hay của những kẻ bị chà đạp, bóc lột, bị xem
khinh. Một thứ thiên đường của nghèo đói, lạnh lẽo và cô đơn. Một thứ thiên đường
mù lòa.
“… Họ là những kẻ
đã phao phí gần hết đời sống của mình vào việc vẽ nên một thiên đường dưới trần
ai, nhưng trí khôn ngắn ngủi của họ lại không không đủ hiểu thiên đường đó ra
sao và con đường nào đưa tới nó. Vì thế, khi biết công việc đó hão huyền thì họ
hối hả tìm kiếm những miếng ăn thực, nhặt nhạnh những hạt ngũ cốc thực trên mảnh
đất bùn lầy. Họ làm việc ấy, bất kể bằng cách nào… Họ là tấn thảm kịch cho
chính họ, là tấn thảm kịch cho chúng ta.” (ĐBHH, trang 26)
Đề cập tới nhà thơ Nguyễn
Duy, Trương Vũ viết:
“Trong một bài thơ gây nhiều
phản ứng sôi nổi, Nguyễn Duy biểu lộ một thái độ khinh miệt tận cùng về việc
xây dựng thần tượng mà ông coi như chẳng khác gì xào nấu các món ăn, trong bài
thơ tựa đề “Nhìn từ xa… tổ quốc”:
“Thần tượng giả xèo xèo
phi hành mỡ
Ợ lên thùm thủm cả tim gan”
Ợ lên thùm thủm cả tim gan”
“Và ông cũng biểu lộ sự
hoài nghi về thiện chí đổi mới của Đảng qua sự hoài nghi về chính bản chất của
Đảng
“Đổi mới thật chăng hay giả
vờ đổi mới?
Máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?”
Máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?”
“Những gì xẩy ra vài năm
sau đó chứng tỏ sự hoài nghi của Nguyễn Duy quả thật có cơ sở. Đến khoảng cuối
năm 1989, phong trào Văn Nghệ Phản Kháng bắt đầu gặp phản ứng mạnh từ phía nhà
cầm quyền và từ phía một số văn nghệ sĩ thuộc cấp lãnh đạo chính trị, kể cả một
số người lúc đầu có cảm tình với phong trào này…” (ĐBHH, trang 26, 27)
Chỉ căn cứ vào một số những
trang viết của chính các tác giả xuất thân từ miền Bắc, Trương Vũ đã ghi những
nét đậm nơi bài “Phong trào văn nghệ phản kháng tại Việt Nam 1986-1989” trong
cuốn ĐBHH của mình.
*
Sau
khi đọc hết ĐBHH, theo tôi, điều đáng kể nhất nơi nhà văn Trương Vũ vẫn là tinh
thần nhân bản của ông, trước mọi biến động hay bi kịch của hai dòng văn học,
nghệ thuật hải ngoại và trong nước sau tháng 4-1975.
Tinh thần này dường là mẫu
chung của đa số nhà văn, nhà thơ miền Nam trước đây.
Tinh thần ấy, với những
người từng giao tiếp với họ Trương, có thể đã “đọc” được qua nụ cười đôn hậu
và, ánh nhìn ân cần, thường trực xuất hiện trên gương mặt hiền hòa của ông.
Nguồn: dutule.com,
24.7.2019
Nhà xuất bản Nhân Ảnh mới ấn hành tiểu luận “Đuổi Bóng Hoàng Hôn” của nhà văn và cũng là họa sĩ Trương Vũ, hiện cư ngụ tại Virginia.
Có thể nhiều người không biết, Trương Vũ tên thật là
Trương Hồng Sơn. Ông là một trong số những khoa học gia gốc Việt, từng được cơ
quan không gian NASA của Hoa Kỳ trọng dụng.
Ông có bằng tiến sĩ khoa học
về điện trong kỹ thuật không gian. Họ Trương vượt biển, định cư tại Hoa Kỳ từ
năm 1976. Là chuyên gia nghiên cứu cho cơ quan NASA, tại Trung Tâm Không Gian
Goddard từ năm 1980 cho tới khi về hưu năm 2005. Tiến Sĩ Trương Hồng Sơn từng
tham dự và phụ trách nhiều công trình khác nhau về khoa học và kỹ thuật.
Đóng góp quan trọng nhất của
Trương Hồng Sơn thuộc lãnh vực nghiên cứu và phát triển kỹ thuật xác định quỹ đạo
(Orbit Determination) và phi hành tự động cho phi thuyền (Autonomous Spacecraft
Navigation). Ông cũng là tác giả nhiều công trình nghiên cứu với tư cách tác giả
chính về vật lý và, kỹ thuật không gian.
Ở lãnh vực văn học nghệ
thuật hải ngoại, Trương Vũ là đồng chủ biên tuyển tập văn chương chiến tranh
“The Other Side of Heaven” (do Curbstone Press xuất bản năm 1995). Ông nguyên
là đồng chủ tịch tập san Việt Học – The Vietnam Review – của Đại Học Yale
(1996-1998); nguyên chủ bút tạp chí Đối Thoại, California (1993-1994). Mặt
khác, Trương Vũ cũng đóng góp bài vở cho nhiều tạp chí Việt Ngữ của tập thể Việt
ở hải ngoại.
Về hội họa, ngoài các lớp
học rải rác tại đại học và tư nhân, phần chính là tự học, Trương Vũ đã tham dự
một số triển lãm tại Hoa Kỳ.
Trong phần “Thay Lời Tựa,”
trước khi bước vào 19 tiểu luận của tập tiểu luận Trương Vũ viết:
“Mượn hình ảnh từ hai câu thơ của Thôi Hiệu, trong bài ‘Hoàng Hạc Lâu’ do Tản Đà dịch, tôi lấy tựa đề ‘Đuổi Bóng Hoàng Hôn’ cho tuyển tập này:
‘Quê hương khuất bóng
hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn
lòng ai’
(Nhật mộ hương quan hà xứ
thị
Yên ba giang thượng sử
nhân sầu)
(Tác phẩm này) phần lớn được
viết dưới dạng tiểu luận. Số còn lại là tạp bút, để đơn giản hóa, tôi dùng chữ
Tiểu Luận cho cả tuyển tập.
… Tuyển tập có thể không
ra mắt được như độc giả đang có nó trong tay nếu không có sự cổ vũ và góp sức của
những bạn trẻ của tôi như Trần Thị Nguyệt Mai, Phạm Cao Hoàng, Duyên và Nguyễn
Minh Nữu…” (“Đuổi Bóng Hoàng Hôn,” trang 7)
Tiểu luận đầu tiên của “Đuổi
Bóng Hoàng Hôn” tựa đề “Đêm Đại Dương” được Trương Vũ thuật lại, như một thứ hồi
ức về hành trình đi tìm tự do của ông:
“Cách đây 39 năm, tôi rời
Việt Nam trên một chiếc thuyền đánh cá nhỏ, cùng bốn bạn đồng hành khác. Chúng
tôi thay phiên nhau lái ghe, từ Nha Trang vượt đại dương nhắm hướng Manila, Phi
Luật Tân. Không một ai trong chúng tôi có kinh nghiệm hay hiểu biết về hải
hành. Một đêm, không trăng, sóng lớn, đang lái ghe tôi chợt nhớ đến một bài thơ
của Victor Hugo, bài ‘Oceano Nox’ (Đêm Đại Dương), mở đầu bằng những câu tạm dịch
như thế này: ‘Có biết bao thủy thủ, có biết bao thuyền trưởng, vui vẻ hăm hở
lao mình vào các chuyến viễn du, có biết bao người trong số đó, do định mệnh
nghiệt ngã, mất hút theo chân trời mờ nhạt, tan biến vào lòng đại dương không
đáy, trong một đêm không trăng…’ Khi còn đi học, nét bi hùng của bài thơ gây
cho tôi nhiều xúc động. Vào lúc này, chơi vơi trên biển cả, không là thủy thủ,
không là thuyền trưởng, trong lo sợ, trong sự cảm nhận sâu sắc của sự nhỏ nhoi
mong manh của mình giữa đại dương bao la, tôi càng xúc động hơn. May mắn, chúng
tôi đến được Manila an toàn. Ghe chúng tôi là một trong những chiếc đầu tiên đến
được Manila sau biến cố 1975…” (“Đuổi Bóng Hoàng
Hôn,” trang 9)
Kế tiếp, vẫn trong dòng hồi
ức quá khứ: “Những Cơn Mưa Ngày Cũ,” với rất nhiều hình ảnh, gần với thể tùy
bút, Trương Vũ viết:
“Tôi sống ở Mỹ đã hơn 35
năm, hơn nửa đời người. Tôi yêu cây cỏ vùng tôi ở, miền Đông Bắc Hoa Kỳ, nhất
là màu sắc của cây khi trời bắt đầu vào Thu. Những năm sau này tôi thường vẽ cảnh
mùa Thu ở đây. Cảnh nắng trên đồi, cảnh lá vàng trong rừng, cảnh thung lũng
trong mù sương… Càng vẽ tôi càng khám phá những thay đổi của màu sắc, của tính
cách, của ấn tượng, theo từng khoảnh khắc, như cây cỏ có linh hồn cuốn hút tôi
vào đó. Vùng này thỉnh thoảng có mưa, nhưng mưa ở đây
không để lại trong tôi những cảm giác đặc biệt để đi xa phải nhớ” (“Đuổi
Bóng Hoàng Hôn,” trang 13)
Tuy nhiên, mưa ở quê người,
lại khiến Trương Vũ đắm mình, sống lại với những cơn mưa quê nhà, như một
thứ kỷ niệm êm đềm hay một thứ tình yêu “giúp ông… trưởng thành”:
“Tôi nhớ những cơn mưa ở
Việt Nam, Nha Trang hay Sài Gòn. Mưa Sài Gòn thường đến ào một cái rồi ngưng.
Mưa Nha Trang kéo dài lâu hơn, nhiều khi dầm dề, và cái cảm giác ướt át lành lạnh
nó để lại thường dai dẳng. Tôi nhớ những buổi tối, ở xa về, tôi lang thang trên
bãi biển dưới mưa, nhiều đêm mưa tầm tã vẫn không muốn về. Tôi nhớ những ngày
còn ở trung học, ngồi trên thềm nhà đọc sách, nước mưa rơi xuống từ mái hiên,
thỉnh thoảng những giọt mưa tạt nhẹ vào người. Tôi nhớ những đêm mưa dạy học
trong một lớp luyện thi. Học trò từ nhiều trường khác nhau, Lê Quý Đôn, Võ
Tánh, Nữ Trung Học,… Lớp học mượn của đình Phương Câu, trống một bên. Khi gió lớn,
cả thầy lẫn trò đều ướt. Bốn mươi lăm năm đã qua rồi, tôi vẫn còn nhớ rất rõ
nét mặt một số học trò trong lớp đó. Tôi còn cảm nhận được cái lành lạnh của nước
và mường tượng âm vang tiếng cười giòn của các em khi cố lách mình tránh mưa.
Tôi cũng nhớ những đêm mưa, lái xe chở các con trên chiếc mini truck có mui, chạy
dọc chạy dọc theo đường Duy Tân. Vào những khúc vắng người và có nhiều vũng nước,
tôi cho xe chạy thật nhanh làm nước bắn tung tóe, để nghe tiếng cười rú của mấy
đứa nhỏ.
Đi xa, tôi nhớ những cơn
mưa ngày cũ. Mỗi cơn mưa tồn tại trong tâm tưởng mang theo với nó một kỷ niệm,
đánh dấu từng khoảng đời. Rất nhiều kỷ niệm đã giúp tôi trưởng thành…” (“Đuổi
Bóng Hoàng Hôn,” trang 13, 14)
Tôi không biết có phải vì
yêu nơi chốn sinh thành của mình, từ cảnh vật, tới con người hay không (?) mà,
họ Trương đã có một tiểu luận chương khá chi tiết, về một nhân vật đặc biệt –
như một thứ “di sản” văn chương của Nha Trang: Nhà văn, Giáo Sư Cung Giũ
Nguyên, một trí thức nổi tiếng, viết nhiều sách bằng tiếng Pháp, tiếng Anh,
song song với tiếng Việt. Dĩ nhiên, họ Trương đã không đề cập tới phần đời
riêng, từng gây xôn xao dư luận một thời ở Nha Trang, liên quan tới một cô học
trò, sau này đã trở thành một nữ văn sĩ nổi tiếng của miền Nam…
Nguồn: Báo Người Việt, California,
July 12, 2019