Nhà văn Saki (1870-1916)
Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870-1916), sinh
tại Miến Điện ( nay là nước Myanmar ) khi nước này còn là thuộc địa của Anh. Mẹ mất sớm, Ông được
gởi sang Anh sống với
hai bà cô.
Học xong trung học,
Ông trở về Miến Điện làm việc trong ngành quân
cảnh. Do bệnh tật, chỉ hơn một năm sau, Ông lại trở về Anh và bắt đầu sự nghiệp làm báo, viết văn.Những tác phẩm đầu tiên
ra đời là những bài châm biếm chính trị khi Ông viết cho tờ The Westminster
Gazette. Sau khi xuất bản hai tác phẩm The Rise of the Russian Empire và The
Westminster Alice, ông chuyển sang viết truyện ngắn, ban đầu đăng trên các báo
The Westminster Gazette, The Morning Post, và The Bystander
Khi
Thế Chiến thứ I bùng nổ, tuy đã quá tuổi động viên Ông vẫn tình nguyện nhập ngũ để cuối cùng hy sinh tại chiến trường Pháp bởi
một viên
đạn bắn tỉa của lính Đức.
Tác
phẩm Ông để lại gồm 138 truyện ngắn, 5 vở kịch, 2 tiểu thuyết, và hàng chục
kịch bản, tác phẩm châm biếm chính trị và tiểu luận. Trong thể loại truyện
ngắn, tên tuổi Saki thường được thừa nhận như là một trong những tác gia nổi
bật. Ông viết nhiều đề tài khác nhau, với một bút pháp trau chuốt, ngôn từ chọn
lọc, có chút dí dỏm. Thủ thuật quen dùng của Ông là cách kết thúc truyện bằng
một câu ngắn gọn, đưa ra một tình tiết mới lạ, bất ngờ, khiến người đọc luôn
ngạc nhiên thú vị.
Truyện
ngắn TRÀ ( Tea ) giới thiệu dưới đây, cùng với Cánh cửa sổ mở ( The Open Window
), Người kể chuyện ( The Story - teller ), là ba trong số những truyện hay nhất
của Saki.
James
Cushat - Prinkly là một chàng trai trẻ luôn có một niềm tin chắc chắn là sẽ kết
hôn một ngày gần đây, cho đến tuổi ba mươi tư anh vẫn chưa làm gì để xác minh
niềm tin đó. Anh ưa thích và ngưỡng mộ rất nhiều phụ nữ một cách chung chung và
không say đắm mà không chọn được một ai để tiến tới hôn nhân, chẳng khác gì có
người ngưỡng mộ dãy núi Alps mà không cảm thấy muốn có một đỉnh đặc biệt nào
như là tài sản của riêng mình. Việc anh thiếu chủ động trong vấn đề này khiến
cho đám phụ nữ giàu tình cảm chung quanh anh tỏ ra nôn nóng; bà mẹ, các chị em
gái, một bà dì ở chung nhà, và hai hay ba người bạn đoan trang thân thiết, tất
cả đều nhìn nhận việc anh xúc tiến chuyện hôn nhân chậm trễ thế kia với một
thái độ không bằng lòng chẳng chút che đậy.
Những
lần tán tỉnh vô tư nhất của anh được theo dõi với sự háo hức cuồng nhiệt, hệt
như cảnh mấy con chó săn chưa được rèn luyện tập trung vào từng cử động nhỏ của
một người có vẻ sắp dẫn chúng đi dạo chơi. Không một con người lương thiện nào
có thể cưỡng lại ánh mắt cầu khẩn của các chú chó. James Cushat - Prinkly cũng
không thể cố chấp, thản nhiên đối với ảnh hưởng của gia đình để lờ đi cái mong
muốn rõ ràng của cả nhà rằng anh nên say mê một cô gái dễ thương đến tuổi lấy
chồng. Và khi bác Jules của anh từ trần để lại cho anh một món thừa kế kha khá,
điều hợp lẽ lúc này là thu xếp để kiếm ra một người nào đó để cùng anh chia sẻ
tài sản.
Quá
trình tìm kiếm được thực hiện bằng sức mạnh của lời gợi ý và sức nặng của ý
kiến tập thể, nhiều hơn là bằng sự chủ động của chính anh. Nhóm đa số áp đảo
trong số bà con phái nữ và những người bạn nghiêm trang nói trên đã chọn cô
Joan Sebastable là một phụ nữ thích hợp giữa những mối quan hệ để anh cầu hôn.
Và James dần dà quen với ý tưởng rằng anh với Joan cùng nhau trải qua những màn
chúc tụng theo thủ tục, nhận quà, ở khách sạn tận Na Uy hay Địa Trung Hải và
cuộc sống gia đình sau rốt. Tuy nhiên, điều cần thiết là hỏi ý kiến cô gái xem
cô nghĩ thế nào về chuyện này, vì trước nay, gia đình đã hướng dẫn và chỉ đạo
việc tán tỉnh một cách khéo léo và thận trọng, nhưng lời cầu hôn thực sự phải
là một nỗ lực cá nhân chứ.
Cushat - Prinkly đi ngang qua công viên, hướng về phía dinh cơ nhà Sebastable trong tâm trạng phần nào tự mãn. Vì mọi việc sắp hoàn tất, anh vui cảm thấy rằng mình ổn được việc này và khỏi phải bận tâm nữa từ chiều nay. Việc cầu hôn, kể cả đối với một cô gái dễ thương như Joan, là một việc hơi tẻ nhạt, nhưng không ai có thể hưởng tuần trăng mật ở Minorca và một cuộc sống vợ chồng hạnh phúc sau đó mà không có bước mở đầu này. Anh tự hỏi Minorca nơi anh lưu lại sẽ như thế nào, trong đầu anh nghĩ nó là hòn đảo lúc nào cũng trầm buồn, với những con gà mái Minorca trắng và đen chạy quanh. Có lẽ nó sẽ chẳng giống như thế nếu đến tận nơi xem xét. Những người đã đi tới Nga cho anh biết họ cũng chẳng nhớ có nhìn thấy những con thiên nga ở đó không, vậy cũng có thể sẽ không có gà Minorca trên hòn đảo này.
Những
mơ màng về Địa Trung Hải của anh bị gián đoạn bởi tiếng chuông đồng hồ gõ mỗi
nửa tiếng. Bốn giờ rưỡi. Trên mặt anh thoáng một nét cau mày khó chịu. Anh sẽ
đến biệt thự Sebastable đúng vào giờ uống trà chiều. Joan sẽ ngồi ở bàn thấp,
dàn bày trước mặt những ấm bạc, hũ kem và tách trà sứ tinh xảo, bên sau nàng sẽ
cất giọng ngân nga vui vẻ với một loạt câu hỏi thân thiện về trà loãng hay đặc,
có muốn cho thêm, và thêm ít hay nhiều, đường, sữa hay kem, vân vân. " Một
viên đường phải không anh? Em quên mất. Anh có dùng sữa, phải vậy không? Anh có
cần thêm nước sôi nếu trà quá đặc không? ".
Cushat
- Prinkly đã đọc về những điều như thế trong hàng chục tiểu thuyết và hàng trăm
kinh nghiệm thực tế cho anh biết chúng đã thực sự đi vào cuộc sống. Hàng ngàn
phụ nữ, vào cái giờ buổi chiều trọng thể này, ngồi sau những đồ sứ và đồ
bạc thanh nhã, với giọng nói ngân nga vui tươi tuôn ra như thác một loạt câu
hỏi nhỏ ân cần như trên. Cushat - Prinkly ghét toàn thể hệ thống uống trà
chiều. Theo quan niệm sống của anh, một phụ nữ nên nằm ngả trên đi văng hay ghế
dài, chuyện trò với vẻ duyên dáng không thể so sánh được, hoặc chờ đợi những ý
nghĩ không bộc lộ rõ, hoặc chỉ lặng thinh như một hiện vật để ngắm nhìn, và từ
phía bên sau một bức màn lụa, một hầu gái Bắc Phi sẽ lặng lẽ mang ra chiếc khay
đựng tách và đồ ngọt, lặng lẽ chờ tiếp nhận, và đương nhiên là sẽ không có lời
lẽ huyên thuyên dai dẳng về kem và đường và nước nóng gì cả. Nếu linh hồn ai đó
đã thực sự bị khuất phục dưới chân một người tình, làm sao họ còn có thể nói
năng mạch lạc về trà pha loãng được?
Cushat
- Prinkly chưa bao giờ giải bày với mẹ quan điểm của anh về vấn đề này, suốt
đời bà chỉ quen với việc vui vẻ ngân nga trong bữa trà chiều, sau những đồ sứ
và đồ bạc xinh xắn, và nếu anh có nói với bà về những chiếc đi văng và hầu gái
Bắc Phi thì hẳn bà sẽ giục anh đi nghỉ cuối tuần ở bờ biển. Giờ đây, khi anh
đang đi qua một góc những con đường nhỏ quanh co dẫn đến khoảng sân Mayfair,
nơi anh định nhắm tới, ý nghĩ chạm trán với Joan Sebastable tại bàn uống trà
của cô khiến anh bất chợt thấy ghê sợ. Lối thoát tạm thời bỗng dưng xuất hiện,
Rhoda Ellam, một cô em họ xa, sống trên một tầng nhà nhỏ ở khu vực náo nhiệt
cuối đường Esquimault, cô ta kiếm sống bằng nghề làm mũ từ những vật liệu đắt
tiền. Những chiếc mũ trông giống như nhập về từ Paris, nhưng những tấm
sec thanh toán, tiếc thay, chẳng thấy đâu, chừng như đang bay về Paris cả vậy.
Tuy thế, Rhoda vẫn cứ vui vẻ và hài lòng với cuộc sống, mặc cho hoàn cảnh túng
thiếu. Cushat - Prinkly quyết định leo lên tầng lầu cô ở và trì hoãn việc quan
trọng phía trước chừng nửa tiếng gì đó. Bằng cách kéo dài cuộc thăm viếng này,
anh có thể xoay xở để đến biệt thự nhà Sebastian sau khi những vết tích cuối
cùng của đồ sứ tinh xảo đã được dọn sạch.
Rhoda
tiếp anh trong một căn phòng có vẻ như vừa là nơi làm việc, phòng khách và nhà
bếp kết hợp lại, và có vẻ sạch sẽ và thuận tiện tuyệt vời.
-
Em đang dùng bữa picnic, nàng thông báo. Có trứng cá muối trong cái lọ chỗ
khuỷu tay anh. Anh dùng tạm miếng bánh mì bơ nâu kia trong khi em cắt thêm. Anh
tự kiếm cái tách nhé, còn bình trà thì sau lưng anh đó. Xong rồi thì kể cho em
nghe đủ thứ chuyện đi.
Nàng
chẳng bóng gió gì thêm lời nào về thức ăn, nhưng nói chuyện vui vẻ, khiến cho
khách cũng vui vẻ nói chuyện. Cùng lúc, nàng cắt bánh mì bơ thành thạo, bày ớt
đỏ và chanh thái lát ra, trong khi nhiều phụ nữ sẽ viện ra những lý do và tỏ ra
tiếc nuối vì chẳng có gì đãi. Cushat - Prinkly nhận ra là mình đang thưởng thức
một tách trà tuyệt vời mà không phải trả lời nhiều câu hỏi như vị bộ trưởng
nông nghiệp phải trả lời nhân vụ bùng phát dịch gia
súc.
-
Bây giờ thì nói cho em nghe vì sao anh đến em, Rhoda bất ngờ nói. Anh khơi dậy
cả trí tò mò lẫn bản năng làm ăn của em nữa đó. Hy vọng anh đến vì mấy cái mũ.
Nghe nói anh mới được hưởng thừa kế, và tất nhiên em sẽ xúc động vì điều tuyệt
vời, đáng ao ước là anh ăn mừng sự kiện bằng cách mua những cái mũ đắt
tiền lộng lẫy cho tất cả chị em gái. Có thể họ chẳng nói gì nhưng em tin
chắc là họ đã nghĩ đến chuyện như thế. Tất nhiên lễ hội Goodwood
tới nơi rồi, chúng em sẽ phải chạy đua, nhưng trong nghề, chúng em đã quen như
thế rồi, lúc nào cũng như bị rượt đuổi.
-
Anh đến không vì chuyện mũ đâu, người khách nói. Thực sự anh không đến vì một
chuyện gì rõ ràng. Anh chỉ đi ngang qua, chợt nghĩ ra việc ghé vào thăm em. Tuy
nhiên vì chúng ta đã ngồi nói chuyện với nhau khá lâu, một ý tưởng khá quan
trọng đã đến với anh. Và nếu em quên đi lễ hội Goodwood trong giây lát và nghe
anh, anh sẽ cho em biết đó là chuyện gì.
Khoảng
40 phút sau, James Cushat Prinkly trở về với gia đình, mang theo một tin quan
trọng.
Anh
tuyên bố: " Con đã đính hôn! ".
Những
tiếng chúc tụng và tán thưởng mừng rỡ vỡ oà.
-
À, chúng ta biết mà. Biết là chuyện đang đến mà. Ta đã đoán trước mấy tuần nay
rồi!
-
Con cược là cả nhà không tiên đoán được. Nếu vào lúc ăn cơm trưa nay, có ai nói
với con là con sẽ cầu hôn Rhoda Ellam và cô ấy sẽ nhận lời, thì con sẽ cười vào
mũi người ấy!
Sự
bất ngờ lãng mạn của sự việc trong chừng mực nào đó đã đền bù cho những người
phụ nữ trong nhà James về việc anh bác bỏ hết những nỗ lực bền bĩ và tài
ngoại giao của họ. Cũng phải khá gay go mới chuyển sự nhiệt tình từ Joan
Sebastable sang Rhoda Ellam sau thông báo chớp nhoáng đó, nhưng dù sao, vấn đề
là vợ của James, ý thích của anh cũng là một yêu cầu để xem
xét chứ.
Vào
một chiều tháng chín cùng năm đó, sau khi tuần trăng mật ở Minorca kết thúc,
Cushat Prinkly bước vào căn phòng của ngôi nhà mới ở quảng trường Granchester.
Rhoda ngồi ở chiếc bàn thấp, sau bộ đồ sứ tinh xảo và đồ bạc bóng lộn. Có chút
âm vang thú vị trong giọng nói khi nàng đưa anh cái tách: " Anh thích
loãng hơn thế này, phải vậy không? Em thêm vào chút nước sôi nhé? Không à? "
THÂN TRỌNG SƠN
dịch
từ nguyên tác tiếng Anh
TEA
của H.H. Munro ( SAKI )