Tranh Đinh Trường Chinh
Trích từ tuyển tập
NHỮNG TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT
CỦA QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA,
NXB Sóng, Sài Gòn, 1973
Tôi trốn đơn vị chạy về nằm ở Cố Thổ vào cuối mùa thu cùng với
những cơn sốt rét cách nhật. Bà cô tôi thương sót mỗi ngày vào rừng nhặt những
lá, rễ cây về nấu cho tôi uống nhưng vô hiệu nên nghĩ đến chuyện trở về Hà Nội.
Ngày tôi rời Cố Thổ về Sơn Tây cô tôi gói cho một gói cơm trộn tám phần sắn khô
như củi, nhạt nhẽo. Cô tôi dặn về tìm một người quen ở đó giúp đỡ. Về tới nơi
họ cũng không giúp đỡ được gì ngoài những bữa cơm sắn ăn với rau tàu bay luộc
chấm muối. Những cơn sốt lại hành hạ. Người ta không thể xin được giấy cho tôi.
Nghe lời mách của người hàng xóm muốn cho khỏi rét nên nuốt những con giun đất.
Họ bảo có thể trị sốt rét được. Không còn cách gì hơn, tôi kiếm một con dao cùn
và chiếc gáo dừa vỡ đi đào giun, những con giun dài xanh đỏ ưa nằm chỗ ẩm, tôi
cứ việc lật những viên gạch vỡ ở bên vại nước, và đào ở các bờ rãnh hàng bát
giun mang rửa và nuốt. Những con giun còn sống nguyên, bò ngoi đầu lúc nhúc tôi
cầm từng vốc bỏ vào miệng cho nó trườn vào cổ họng. Những ngày đầu ghê tởm, nôn
mửa qua đi. Những ngày tiếp theo tôi nuốt thản nhiên. Những con giun sống ấy
vào trong bụng tôi đã nhiều nhưng những cơn sốt cách nhật vẫn hành hạ và dữ dội
thêm là khác, sức tôi yếu dần thêm nữa. Tôi chỉ còn tìm cách nào vào thành may
ra kiếm được ký ninh uống.
Không ai dám bảo đảm xin giấy thông hành cho tôi. Tôi vẫn liều
ngày ngày ra bến xe trèo lên để vào, nhưng dù ngồi yên chỗ rồi khi hỏi đến giấy
không có, chuyến xe lại bỏ tôi lại. Rất nhiều lần như thế, đến khi có xe cho đi
thì tôi lại không có một đồng. Hà Nội – Sơn Tây 43 cây số, với những cơn sốt
tôi không còn đủ sức để lê về. Mãi sau vì nài nỉ quá có chiếc xe chở củ nâu,
với người phu xe thương hại cho tôi đi bằng cách ấn tôi vào giữa những bao củ
nâu. Hắn bảo tôi trước là nếu vô phúc bị khám mà lộ ra thì chịu khó mà ở tù
đừng oán thán gì. Tôi hơi mỉm cười bảo:
- Thì sao mà cưỡng được...
Khi xếp những bao tải củ nâu lên xe hắn chừa lại một chỗ trống ở
giữa cho tôi ngồi vào đấy rồi hắn lấy thêm những bao khác lấp lên trên. Tôi
ngồi co rúm không thể cựa quậy, nhúc nhích. Mùi củ nâu, mùi bao tải hôi sì, mùi
xăng nhớt như muốn chết ngạt. Giữa trưa xe từ giã tỉnh Sơn vào con đường trở
về. Xe chạy nhanh như sóc trên những quãng đường gồ ghề, những bao củ nâu bị
lắc mạnh cứ dẹp mãi xuống, chung quanh tôi kín bưng chả thấy gì, tôi nghĩ như
mình bị bỏ vào quan tài đã đậy ván thiên lại chỉ có điều là tôi còn thở. Cơn
sốt lại đến với tôi giữa những quãng đường ấy, chân tay run rẩy, hai hàm răng
đánh vào nhau và tôi lả người đi vì mệt mỏi.
Khi tỉnh dậy thì xe đang dừng. Tôi lắng tai nghe tiếng giày đinh
lộp cộp, những bao củ nâu bị lay động và có tiếng chọc của một chiếc gậy sắt.
Tôi biết là xe đang bị khám, nên hai lần bị gậy sắt thọc vào lưng tôi không dám
nhúc nhích và thở mạnh, tôi nghiếng răng, nhắm mắt lại... Những chặng gác thoát
dần sự khám xét khiến cho xe về đến bến thì trời đã tối mịt. Bến xe Kim Mã
hoang vắng người phụ xe dở bao tải cho tôi chui ra, tôi nghe tiếng chuông xe
điện đổ dồn, tôi bước xuống mặt đường chân tay run lẩy bẩy vì đói vì lạnh. Tiếng
đầu tiên tôi được nghe là của người phụ xe:
- Tới rồi đấy, có thể đi về nhà được không? Không có giấy thì coi
chừng tụi ba tụi nó nhặt bỏ nhà tiền đấy.
Tôi cứng cả lưỡi không nói được. Tôi không biết về đâu cho qua đêm
để sáng mai có thể đi tìm kiếm, dù tôi chưa biết là sẽ tìm kiếm cái gì. Về nhà.
Người phụ xe nhìn tôi ái ngại. Hắn có khuôn mặt đen khắc khổ, đôi gò má cao làm
cho hai mắt đen sâu bóng tối. Tôi nói với hắn tình cảnh của tôi, tôi muốn hắn
cho tôi nằm ở trên xe cho đến sáng hôm sau. Nhưng hắn từ chối. Hắn nói với tôi
một ít điều phân trần không sao có thể giúp tôi được. Tôi cám ơn hắn. Hắn xếp
lại mấy bao củ nâu, đóng thùng xe rồi hắn quay lại nhìn tôi. Nghĩ thế nào hắn
móc túi dúi cho tôi mấy đồng bạc. Không nói thêm nửa lời hắn trèo lên phía
trước xe. Chuyến xe chạy vào con đường có đèn thắp sáng.
Tôi không thể đứng lâu hơn được nên ngã quỵ xuống. Quá mệt tôi
phải cố sức bò dần vào một túp lều bỏ không rồi lăn mình xuống đấy. Tôi nằm im
một lúc cho hồi tỉnh rồi cố dậy sờ soạng trong bóng tối xem có cái gì có thể ôm
vào người được cho đỡ cô đơn, nhưng sờ soạng mãi tôi mới nhận ra có một cái bàn
nhỏ và có một cái ghế dài nhỏ. Đó là đồ dùng của một quán nước, hoặc quà bánh
gì đó. Tôi không có gì để ôm vào người. Tôi sờ mặt đất nhớp nháp, vơ những rác
rưới ẩm nước hôi hám, những bã mía, lá bánh, giấy vụn. Tôi cố vơ thành một đống
rồi rúc mình vào cho đỡ lạnh và êm hơn mặt đất. Muỗi kêu vo ve, những con chuột
kêu thành tiếng chui vào đống rác kiếm ăn. Chúng cắn chân mà tôi không muốn
cựa, chúng cắn chán lại rúc, lại kêu. Tôi vớ những nắm lá chuối ướt nhép bỏ vào
mồm nhai cho đỡ buồn miệng. Tôi nghĩ chắc thịt tôi đã hết máu nên lũ chuột chả
thèm ăn, và chắc chúng nó nhiều máu hơn tôi là khác, nghĩ thế tôi há lớn miệng
tự nhủ: để chú nào vô phúc rúc vào mình sẽ ngậm miệng lại mà nhai một miếng cho
khoái bao tử. Bởi vì nếu có con nào đến gần tôi cũng khó chộp được, chúng khỏe
và nhanh lạ. Lũ chuột rúc mãi chắc cũng chả kiếm được gì nên bỏ đi dần cho tôi
nằm một mình nghe tiếng muỗi kêu vo ve.
Mãi tôi cảm thấy như có một con vật nào đó rất kỳ dị, to lớn tiến
đến ôm choàng lấy tôi, tôi bị nghẹt thở không kêu được, thân thể cứng đờ rồi
thiếp dần đi...
Tôi thức dậy khi trời đã sáng rõ, bụng đói cồn cào, chân tay rời
rã, nhưng đầu óc tỉnh táo kỳ lạ. Tôi nằm im cho mãi đến khi có một người đàn bà
bước vào lều. Khi bà ta đưa mắt nhìn đến đống rác thì kêu thét lên. Tôi ngọ
ngoạy rồi chui đầu ra. Chắc hẳn người đàn bà tưởng tôi là một con vật, như con
chó ốm ghẻ lở nào đấy. Khi thấy cả thân hình tôi ngồi dậy được thì trên khuôn
mặt bà ta hiện ra nhiều nét ngạc nhiên đầy kinh dị:
- Trời ơi tao tưởng mày là xác chết rồi chứ... thế mà đêm lính nó
không nhặt đi...
Tôi trở ra ngoài vươn vai, thở mạnh, phủi những rác rưởi bám trên
quần áo, mắt tôi kèm nhèm. Tôi nhổ một chút nước bọt ra bàn tay rồi chét vào
mắt mà dụi cho tỉnh táo. Những chuyến xe không, bắt đầu vào bến nằm. Mặt đường
nhựa rét cứng. Mùa đông vào thành phố, vẻ buồn thảm càng nhiều. Người đàn bà
dọn quán. Bà ta bán bún riêu, bánh đúc. Sau khi bầy bát đĩa, tôi ngồi vào tấm
ghế dài, kẹp tay vào giữa hai bắp đùi rồi nói với bà ta:
- Cho một bát bánh đúc.
Người đàn bà mãi mới nhìn lên dò xét, tôi biết bà ta đang nghĩ gì:
- Này người ta chưa bán mở hàng đâu đấy. Có tiền không mà ăn?
Tôi moi mấy đồng bạc của người phụ xe cho mà để lên bàn, tôi lên
giọng chững chạc:
- Cho hai đồng thôi...
Hai bát bánh đúc chan canh riêu nóng hổi vừa ăn vừa thổi làm tôi
tỉnh táo. Tôi ngốn rau chuối như lợn cốt đầy dạ dày. Tôi ăn thật nhiều ớt cho
tê cả miệng và ràn rụa nước mắt.
Nghĩ đến chuyện bị hỏi giấy, tôi đi vào phố xá lén lút như một kẻ
ăn cắp, như chú cừu đang lạc vào bầy sói tôi đang lẩn thân bên những xác ma
chập chờn lẩn quất. Trông người nào tôi cũng thấy họ hung ác ngay cả những đứa
trẻ con cũng vậy và lúc nào tôi cũng tưởng họ sắp thộp lấy gáy mình hỏi lăng
nhăng rồi bỏ vào nhà tù cho đông đảo thêm.
Việc đầu tiên tôi nghĩ đến là trở về nơi bãi Phúc Xá xem nhà cũ
thế nào. Thành phố xa lạ một cách không ngờ. Những dấu vết chiến tranh đang
được cố gắng lấp đầy để quên lãng. Tôi đứng ở đầu nhà máy đèn, nhìn xuống bãi
Phúc Xá vắng tanh chơ vơ vài bức tường đứng cô đơn. Cầu Long Biên xám đứng đằng
xa. Tôi không dám lần xuống bãi. Tôi cố nghĩ xem, quen ai, tìm ai, ở đâu, ăn
gì, uống gì. Tôi ngồi ở vỉa hè nhìn nền trời xám.
Tôi đi men theo nhà Ideo lên phía Yên Phụ. Những dặng cây trút lá
chạy dài. Những tên lính Tây la thét cười cợt hát hỏng ở phía trong bức tường
cao. Tôi thấy chúng vứt những ống bơ ra theo lối cửa sổ. Tôi đến những đống rác
ấy bới móc nhặt những chút vỏ bánh mì đen thui ấn vào mồm mà nhai mà nuốt. Tôi
bới hết đống này đến đống khác. Tôi vét vào mồm từng chút cặn thịt hộp đã thiu
thối, từng chút đầu hay đuôi cá tanh lợm còn sót lại trong những chiếc ống bơ.
Tôi nhặt cả từng miếng bánh mặn nhỏ ấn vào hai túi áo. Đi bới hết những đống
rác tôi ngồi nhai những mẩu bánh, khi cổ khô vì khát tôi tìm một cái máy nước
áp mặt vào nốc.
Tôi đi lang thang lẩn lút từ phố này sang phố khác. Chen vào đám
đông nhìn vào từng khuôn mặt xem có ai quen không. Nhưng suốt buổi tôi không
tìm kiếm được gì.
Đến buổi trưa tôi theo đường tàu điện ra tận Giám, ngồi trong Văn
Miếu bên những bia đá, nhà đổ, gạch ngói và cỏ hoang buồn buồn tôi lộn hai túi
áo ra nhặt nốt những vụn bánh còn sót lại bỏ vào mồm. Ngồi chán leo lên bức
tường đổ ra chợ Con Bò. Đang thơ thẩn bỗng nghe tiếng cười hỏi giật:
- Kìa cậu Kha, cậu mới hồi cư à? Ông bà ở đâu?... Cháu vẫn để ý
tìm mà không gặp – may quá... nhà cháu ấy...
Tôi ngạc nhiên phủi áo rồi nhìn vào mặt người đàn ông một lúc. Tôi
không nhận ra ai. Thấy tôi im lặng, người đàn ông lại nói tiếp:
- Cháu đây mà – cả Mạnh hồi xưa trông cửa hàng cho ông bà nhà...
Bây giờ thì tôi đã có người quen rồi cho dù tôi không nhận ra ai.
- Tôi nhớ, chết thật lâu ngày... tôi cũng đang đi kiếm...
- Thế ông bà nhà?
- Có mình tôi thôi... thầy đẻ tôi... Tôi đang đi tìm một chỗ ở.
- Thế ra có một mình cậu.
- Vâng...
- Thật rõ...
- Tôi muốn có một chỗ ở tạm – nhà bác?
Người đàn ông lưỡng lự. Bác ta vào độ 40 tuổi, mặt già nua đen
sạm, những vết nhăn chằng chịt trên trán. Một con mắt bị tật để lộ ra một mí đỏ
lòm và ít râu thưa mọc lởm chởm trên mép.
- Cho tôi ở tạm thôi...
- Nhà cháu cũng không có chỗ tử tế. Sợ cậu ở không được.
- Vẽ ra, đến có ổ chuột mà rúc vào cũng hay rồi đấy, loạn mà bác?
Sau cùng – bác Mạnh – bây giờ tôi có thể nhớ được tên bác – đưa
tôi về ngõ Thong Phong ở tận mãi chỗ Ô Chợ Dừa nơi con đường Hàng Bột. Vừa vào
đầu ngõ đã phải đi qua một xưởng thuộc da hôi thối và những ruộng muống tanh
lợm mùi bùn. Bác Mạnh làm nghề thổi thong phong cho một xưởng nhỏ ở luôn tại đó
làm người gác nữa. Bác có một chỗ ở bằng ba chiếc chiếu ngánh bằng mấy tấm tôn
vào cái lò nấu thủy tinh. Trong nhà chỉ có một cái gường tre độc nhất là chỗ
ăn, chỗ ngồi chơi hút thuốc lào và chỗ ngủ cho hai vợ chồng và một đứa con gái
hai tuổi gầy teo. Tiếng nó khóc như tiếng mèo kêu nhưng cũng nhờ tiếng khóc đó
tôi biết nó còn sống.
Tôi nói tình cảnh tôi cho bác Mạnh nghe. Bác tỏ vẻ ái ngại về chuyện
vật đổi sao dời làm tôi khó chịu. Tôi nhờ bác xin cho một việc làm ngay ở
xưởng. Ở đây người ta mua những mảnh vụn chai, kính vỡ về nấu rồi thổi thong
phong, những ve chai nhỏ để đóng thuốc cho mấy tiệm thuốc bắc. Tôi không biết
thổi nên nhận một chân đốt lò, khuân thủy tinh, quét dọn. Buổi tối tôi giải
chiếu ngay nơi cửa lò – chỗ làm việc của bọn thợ ban ngày mà ngủ cho ấm.
Bây giờ thì tôi đỡ lo là chưa chết ngay. Mùa đông kéo dài những
ngày rét mướt. Tôi vay tiền mua hai cái bao tải tối đến chui vào đó. Với những
ngày làm việc mệt nhọc những cơn sốt vẫn trở lại với tôi. Tôi lãnh tiền công
chỉ trả tiền cơm cho bác Mạnh và mua thuốc ký-ninh vàng về uống hoài. Uống mãi
những cơn sốt lui dần thì tôi hoá ra nghễnh ngãng, ù tai nghe không rõ. Người
ta sai bảo tôi chẳng nghe được, người chủ đuổi tôi không cho làm vì không thể
mượn một người điếc. Tôi buồn sao không điếc hẳn mà lại còn đủ sức để nghe
tiếng quát tháo. Theo lời khuyên của bác Mạnh. Tôi đeo lên vai một cái giỏ
rách, với một cái móc sắt đi theo những người móc rác đi nhặt mảnh chai, kính
vỡ, vụn sắt về bán.
Tôi tìm ra bãi đổ rác, bới những đống hôi thối, nhặt chai, kính...
từng chút sắt vụn, vỏ cam, rẻ rách. Khi chiều về lọc ra từng thứ bán cho bà Cả
Ới. Bà ta chuyên mua lại của những người đi nhặt rồi bán cân cho xưởng thổi
phong long, cho lò đúc, rẻ rách bán cho dân Bưởi làm giấy cho xưởng ô tô làm rẻ
lau. Vỏ cam vỏ quýt cho tiệm bào chế và cả lông vịt lông gà...
Tôi kiếm đủ ăn, tối về ngủ ở chỗ bác Mạnh như một con chó vô chủ.
Tôi bới chán ở đống rác lại đi tìm bới ở những căn nhà đổ nát chưa
có chủ về. Tôi nghĩ đến nhà tôi, và những thứ còn lại ở đấy chắc chưa ai nhặt
nên muốn mò về. Một bữa tôi lên đê Yên Phụ nhìn sang bãi Phúc Xá với ý nghĩ ấy
nhưng rồi không dám qua. Tôi đi dọc bờ sông lên chỗ xưởng dép cao su Con Hổ
chen vào một đám đông đảo tụ lại ở chân đê.
Tôi thấy người ta đang đào một cái hố lớn, họ đào sâu và vứt lên
vô kể những mảnh chai sắt vụn mà không ai nhặt thì mừng quá. Tôi nhặt lại từng
đống rồi thuê xe ba gác chở về. Tôi vớ được một món bất ngờ. Tôi không hiểu họ
đào gì mà chốc có người lại cúi xuống nhặt lên một mẩu xương, khi to khi nhỏ
rồi xem xét, truyền tay nhau. Khi thì xương bò, khi thì xương lợn, khi xương
gà, xương chó... Khi biết thế họ lại vứt đi và đào nữa – Sau tôi mới biết họ
tìm xương người. Toán người ở đó được một nhà giàu ở đây thuê đào tìm xương của
ông bố chết hồi chạy loạn mà người đó nghi là chết ở tăng-xê nơi chỗ này. Bởi
thế nên mỗi khi gặp một chút xương họ phải xem có phải là xương người không,
nhưng mỗi lần họ đều thất vọng, đào mãi cũng không thấy gì. Ngày thứ hai họ có
ý thôi, tôi nghĩ đến sắt vụn mảnh chai nên bảo:
- Tăng xê này sâu lắm, ở dưới nữa kia. Đào chưa tới đâu.
Thấy nói vậy họ tưởng tôi biết nên xúm lại hỏi, yên trí tôi biết.
Tôi bảo chính hồi Nhật thả bom tôi đã chui vào đây và có lẽ mẹ tôi cũng bị chôn
ở đây nữa. Họ tiếp tục đào và cho tôi kiếm ăn. Nhưng lẽ dĩ nhiên họ không tìm
ra một chút xương người nào. Khi họ yên trí bảo chắc ông cụ không chết ở đây.
Tôi vỗ tay vào trán như mới nhớ ra:
- À, nhưng chỗ này có những hai cái tăng-xê cơ – hay ông cụ chui ở
cái đằng này...
Tôi chỉ cho họ chỗ cách đó độ năm thước, tôi quả quyết còn một cái
nữa – và họ tiếp tục đào cho tôi nhặt mảnh chai, sắt vụn. Tôi nghĩ giá hồi xưa
biết vậy tôi chết quách chỗ này cho bây giờ họ nhặt lấy xương mà làm ma, làm
chay và cho là bố họ có hơn không. Rồi đào mãi họ cũng bỏ. Tôi nghiêm nét mặt
rồi nói lớn:
- Sao không đào cái đống thịt thối này của tao mà lấy đầu lâu và
xương cốt...
Lũ người bảo tôi là thằng điên họ tức bực muốn dần cho chết. Có
một đứa bông lơn cho cả lũ cười.
- Đến vứt cái xác mày cho chó nó cũng chả gặm nữa là xương cốt...
Tôi cất tiếng cười lớn theo đám đông xúm quanh làm họ thôi cười.
Số tiền kiếm được làm tôi phè phỡn. Một bữa tối tôi qua phố Hàng
Buồm mua hai con gà luộc sẵn về cho vợ chồng bác Mạnh một con, còn một con tôi
ngồi xé ra ngoạm.
Tôi đang ăn thì có đứa con gái đứng ở cửa nhìn vào. Tự nhiên tôi
nói lớn:
- Có ăn thì vào cho miếng chứ nhìn gì?
Nó vào ngồi ở bên cạnh rất thản nhiên. Tôi nghĩ chắc nó cũng sống
như tôi – thật tội nghiệp. Tôi nhìn vào mặt nó. Nó cũng chỉ độ tuổi tôi. Tóc
uốn quăn môi son và mặt chát phấn. Nó mặc quần áo trắng. Nó ăn hết rồi ngồi mút
mười đầu ngón tay còn vẻ thèm nhạt. Tôi hỏi:
- Ở đâu?
- Trong ngõ
- Có nhà à?
- Có
- Hạnh phúc, hạnh phúc.
- Còn anh?
Nó nói tiếng anh ngọt sớt. Tôi vứt bỏ mẩu xương cuối cùng rồi co
vạt áo lên chùi mồm.
- Không có gì cả... không có gì cả mà...
- Về ở với em...
Nó lại xưng em. Tối hôm đó tôi theo về nhà nó – một gian nhà lá
mãi trong cuối ngõ. Nó chỉ cho tôi nằm ở một cái chõng con và vứt cho tôi một
cái chăn đơn. Nó ngủ ở một cái gường có màn buông và hai cái gối. Lần đầu tiên
tôi được một chút êm ấm. Đêm nó thắp đèn kể chuyện tâm sự cho tôi nghe. Nó chả
có cha mẹ gì và nó làm nghề kiếm khách. Tôi về ở đó ngày ngày đi móc rác, đêm
về ngủ. Nó thì ban ngày ngủ, đêm đến mặc quần áo, đánh phấn chải đầu rồi đi
kiếm mối đem về nhà. Chúng nó cởi truồng ra đùa giỡn với nhau chán rồi ôm nhau
lên giường ngủ như không có tôi. Những ngày mùa đông rét mướt kéo dài mãi nền
trời xám và mưa đêm. Những ngày không có khách nó cho tôi sang ngủ chung cho
ấm. Có đêm cơn sốt rét lên nó thấy tôi run như sắp chết thì hoảng sợ.
- Ê chết sao mà rãy dữ vậy?
- Không.
- Đừng giỡn, chết làm sao ta chôn.
- Thì cứ vứt ra đường là xong
- Vứt sao được...
- Đùa chứ chết gì, ôm cho chặt vào thì không chết đâu, khỉ.
Nó cởi hết quần áo tôi ra mà đùa giỡn coi tôi như một khúc gỗ. Đêm
nào nó cũng cần ôm lấy một thân thể mới ngủ được. Tôi là một cái thân thể để
cho nó đắp vào những đêm không có khách. Có đêm tôi lên cơn rét, thân thể hoàn
toàn bất lực, nó cố vác bỏ tôi sang chõng rồi ngồi chờ thằng tầm quất đi qua.
Thằng tầm quất tới nó gọi vào rồi đóng cửa lại, nó bảo đấm bóp chán rồi ôm lấy.
Thằng tầm quất không cưỡng lại được, sáng hôm sau như lả đi. Nó bảo tôi giúp
sức kéo bỏ ra ngoài đường. Đến một hôm có một gã đàn ông khoẻ mạnh đến rồi ở
luôn lại. Tôi nằm một mình buồn tủi. Rồi đứa con gái bảo tôi:
- Em sắp lấy chồng.
- Gã đó?
- Chứ sao.
Tôi buồn rầu bảo:
- Lấy anh đi... tương lai mà...
Nó bĩu môi rồi tát vào mặt tôi một cái mà bảo:
- Ứ ừ... để rồi tao đi móc rác với mày à – Rồi con cái – rồi tuổi
già?...
- Đồ khỉ – Lại còn con cái? Lại còn tuổi già? Rồi sống được đến
già à?
Tôi ôm lấy nó như chưa ôm bao giờ.
- Đừng lấy gã đó. Ở với anh...
Mấy ngày sau chúng nó tống tôi đi với mấy chục bạc. Tôi ngày ngày
đi móc rác, chiều đến mò vào Văn Miếu nằm. Đêm đêm sờ soạng những bia đá, những
gạch ngói nằm im mà thấy tủi thân. Ôm vào lòng cũng chỉ thấy cứng ngắc. Buổi
sáng thức dậy soi mặt xuống làn nước hồ nghe tiếng quạ kêu trên những ngọn cây
khô già cỗi.
Đến một khuya kia tôi thức dậy vì ánh sáng đèn bin soi vào mặt.
Tôi mở mắt nhìn tụi lính chĩa súng vào người. Chúng hỏi giấy tờ tôi không có gì
nên bị điệu về bót. Chúng giam tôi đến sáng hôm sau mới dẫn lên hỏi:
- Tên gì?
- Con tên Kha.
- Thẻ căn cước?
- Con mới vào nên chưa có.
- Ở đâu?
- Con ở ngõ Thong Phong
- Số nhà?
- Con quên.
- Với ai?
- Với vợ con.
Chúng bắt tôi dẫn về ngõ Thong Phong, tôi đưa vào nhà đứa con gái.
Tôi chỉ vào nó mà bảo với tụi lính:
- Vợ con đây.
Tụi lính cất tiếng hỏi:
- Có phải bà là vợ nó không?
- Không, tôi có chồng.
- Bà biết nó không?
- Không – tôi không biết nó là ai cả.
- Nó là vợ tôi mà...
- Này thằng kia – mày trông rõ xem tao ngủ với mày bao giờ...
Tôi thấy yêu đứa con gái vô cùng. Tụi lính đánh tôi túi bụi.
- Khai láo, khai láo... quân lưu manh... đánh cho chết đi...
Đêm chúng đem tôi về nhận vào bể nước rồi đánh nữa. Khi tôi ngất
đi chúng lại phun nước cho tỉnh dậy và tiếp tục đánh như nhồi một trái banh –
rồi chúng lại bắt tôi cung khai. Tôi không còn biết mình nói gì:
- Mày mới ở ngoài vào phải không?
- Vâng... dạ
- Định phá hoại phải không?
- Dạ vâng...
- Với ai, tổ chức nào?
- Vâng...
- Ai?
- Dạ...
- Ai?
- Nguyễn-mạnh-Kha...
- Ở đâu?
- Số bảy, tám, chín Hàng Khay.
- Đúng không?
- Nó cho ở...
Tụi lính lại dẫn tôi đi, tới nơi tôi vừa tỉnh để bảo:
- Không, tôi nhầm. Tôi là Nguyễn-mạnh-Kha.
Tôi khai lung tung, bạ gì nói nấy. Chúng đánh chán tay rồi giam
tôi vào buồng tối như một con chó cho muỗi nó đốt. Chúng tra khảo tôi mãi cũng
chán nên giam tôi lại cùng với những người khác, mỗi ngày ném cho một nắm cơm.
Có một ngày lũ người bị giam được tập trung vào một khoảng sân ngó thấy nền
trời. Tay bị xích lại. Hôm đó có một viên cố đạo bảo là đến làm phép lành cho
lũ tù. Hắn nói những điều tôi chưa hề nghe bao giờ như: yêu mến chúa, thiên
đường, địa ngục, cứu rỗi, tội lỗi, xám hối, quỷ quái, thánh thần, yêu thương,
huynh đệ... Lũ lính vác súng bắt lũ tù ngồi yên nghe.
Viên cố đạo làm dấu nhìn chúng bị đánh đập. Nhưng tôi còn đủ sức
chửi bới và văng tục. Tụi lính lại tra khảo tôi mà không chịu buông tha:
- Mày tên gì?
- Con khỉ
- Ở đâu?
- Con khỉ... cởi truồng...
- Cha mẹ mày tên gì?
- Ai?...
- Cha mẹ mày?
Khi nghe rõ đến hai tiếng cha mẹ thì tôi khóc rống lên chúng tiếp
tục đánh đập tôi nữa:
- Mày tên gì?
- ... thịt thối...
- Ở đâu?
- Viên cố đạo
- Cha mẹ mày tên gì?
- A ha!... A ha!...
Đến một đêm tối lũ lính dồn tôi lên một chiếc xe bọc kín mang tới
một cánh đồng cùng mấy đứa nữa. Chúng bắt đào hố. Tôi biết là sắp được tự chôn
mình. Tôi nghe tiếng lên đạn lách cách, xong chúng bắt quay mặt vào hố. Tôi nhớ
đến câu hỏi và tự nhắc:
- Cha mẹ mày tên gì?
DƯƠNG NGHIỄM MẬU
1958