Nhà văn Cung Tích Biền
Photo by Phạm Cao Hoàng - California, 10.2019
- Sao, mày có chịu
không?
- Cái gì vậy hả
chị?
- Thì ngủ với thằng
cha Lớp-Bơ chớ còn gì nữa.
- Thôi, em ớn lắm
chị.
- Ðồ ngu, sức mà ở
đó giữ trinh với tiết.
Chị Dĩ An nói với
tôi như vậy rồi bỏ đi ngay. Từ một năm nay chị Dĩ An bỏ nhà ra đi hàng tháng.
Mỗi lần trở về chị có tiền đưa cho mẹ tôi. Mẹ tôi hỏi chị, chị nói con đi làm
sở Mỹ tận Sài Gòn.
Lần này chị về nhà bảo thẳng với tôi cho ông Lớp-Bơ phá trinh lấy
ba trăm đô la. Chị bảo: “Mày ở cái xóm chó ghẻ này tới già cũng không có một xu
nhỏ bỏ vào hòm!” Tôi nghe cay đắng những lời nói của chị. Sống gần chị như sống
gần một bầu trời đầy giông bão. Tôi cũng không hiểu nguyên do nào làm con người
chị tôi mau thay đổi như vậy. Cả cái tên Dĩ An cũng không biết ai đặt cho chị.
Chỉ biết lần đầu chị đi Sàigòn về người chị có vẻ xanh xao. Gương mặt chị luôn
thảng thốt. Chị có cái nhìn đã hết tinh anh: lầm lì, liều, và hay khóc trong
bóng tối. Tôi gọi chị là Liêm – cái tên cha mẹ đặt cho chị – thì chị cãi lại
ngay. Chị nói: “Mày nhớ tao là con Dĩ An đây”.
Nhiều khi chị có vẻ bình tĩnh, và tâm sự với tôi: “Em này, chị
muốn trong đời đến sự khổ đau cũng phải có tên gọi. Người ta đã tìm ra chị nơi
cái xóm Dĩ An hèn mọn. Người ta thay nhau ngủ với chị, xem chị như mảnh đất có
hoa màu và cần phải đặt tên cho nó.”
Những buổi chiều nước sông dâng lên cao chị thường ra nhìn. Chị
nói mình thầm tiếc cái gì đây mà không biết được. Chị thích đi ngược chiều gió.
Có khi chị ngủ suốt cả ngày. Chị ăn uống thất thường. Nhận xét của chị về cuộc
đời đầy vẻ chua chát.
Dĩ An là chị ruột của tôi. Năm nay chị hai
mươi tuổi. Trước đây hai năm chị là một nữ sinh có nhan sắc, tính tình hiền hậu
nhất trường. Ngày đó cha tôi thường nói mai sau thằng nào gặp con Liêm (Dĩ An
đó) là có phúc lắm. Và cha mẹ tôi đã cho chị Dĩ An tới trường với tất cả cố
gắng về vật chất của mình.
“Em
biết không, nhà mình nghèo lắm”. Chị thường nói với tôi như vậy. Năm học đệ tứ
có tháng chị đứng đầu lớp. Cha tôi đạp xích lô. Ai không biết điều đó. Nhưng
hầu hết ai cũng thương và kính trọng chị. Bạn trai của chị trong đó có Lân là
người theo đuổi chị.
Lân lớn người, học sinh đệ nhất cùng trường. Anh thi trượt hai năm. Buồn, xin vào Thủ
Ðức, mãn khóa về ngành Thiết giáp. Mỗi lần về phép Lân đều thăm chị. Có lần anh
xin cưới chị, chị từ chối nhưng chị buồn.
Cái xóm lao động của chúng tôi là một
ngoại ô đầy bùn lầy và dấu chân bò. Những mái nhà tôn nóng bức nằm san sát
nhau. Từ cái sân nhỏ, con hẻm chật hẹp, hàng cây, nước sơn, cánh cửa sổ đến
những ngọn đèn thầm cháy về đêm, cái gì ở nơi đây cũng biểu lộ một vẻ khiêm
nhường đáng thương.
Cha tôi thường đẩy xe về nhà khoảng mười
giờ đêm. Cái bóng lặng lẽ tiến vào đầu hẻm đúng lúc chị Dĩ An múc nước vào chậu
thau chờ sẵn. Sau đó chị dọn mâm cơm ra bàn. Khi xe được đẩy vào hiên nhà chị
mang chiếc khăn ra lau chùi. Chị thường bỏ học nửa giờ để săn sóc cha tôi lẫn
chiếc xe.
Mẹ tôi về nhà khuya hơn với đôi chân mỏi
mệt và gánh chè có khi mười một giờ đêm bán chưa hết. Một đêm trời mưa lớn, các
em tôi đã ngủ yên, mẹ tôi vẫn còn đi giữa đường phố. Hôm sau về nhà mẹ đau
nặng. Lần đó chị tôi khóc nhiều nhất.
Chị Dĩ An giàu tình cảm. Với ai chị cũng đem
lòng giúp đỡ được. Chị lớn hơn tôi hai tuổi nhưng chị khôn hơn tôi rất nhiều.
Bây giờ chị đau khổ nhiều cũng vì chị có suy tư và tình cảm.
Chúng tôi sinh ra và lớn lên từ ngoại ô.
Ngoại ô là bức tranh nghèo nàn. Nhưng tôi không xem mình là kẻ bị lưu đày. Tôi
mến ngoại ô này như mến thân thể tôi. Thành phố ngoài kia có gì nhiều tôi không
cần biết đến. Chị Dĩ An ạ, làm sao những người ngoại ô có thể là con chim quên
tổ ấm phải không chị? Tôi nói với chị Dĩ An như vậy. Chị mỉm cười. Những buổi chiều
xuống mau, những tia sáng vàng vọt đượm màu thần thoại của tuổi thơ tôi hãy còn
đây.
Rồi chiến tranh mỗi ngày một lan rộng.
Chiến tranh trên quê hương này là vết thương khó cứu chữa. Thành phố mở cửa đón
những đoàn quân nước bạn. Ngoại ô tôi bắt đầu có những chàng Mỹ trắng Mỹ đen
lùng lội tìm của lạ. Linh cảm cho tôi biết ngoại ô này cũng theo thân phận của
đất nước. Mọi nếp sống sẽ đổi thay. Mọi tâm hồn sẽ bị lung lay trước sự lung
lạc của vật chất. Con sông mở rộng. Sáng hôm đó chuyến tàu đầu tiên rẽ sóng
chạy vào. Những người lính viễn chinh lên bờ mang theo tấm thân lực lưỡng,
những thèm muốn và tiền bạc. Một chiếc khăn tay nhỏ một đô la. Một cuốc xe ngắn
một đô la. Nói được một tiếng Hello, chỉ được con đường tới xóm bình khang một
đô la. Tiền bạc tràn ngập. Ðô la đắp lên thành phố khô cằn này. Ngoại ô tôi
chìm trong giấc ngủ bỗng thức giấc xao xuyến. Những ngày đầu tiên chị em tôi
không dám đi phố. Thôi, nhường cho họ những buổi chiều đại lộ.
Ngoại ô tôi mất dần những cô gái hiền từ.
Con Hiền lấy ông trung sĩ Mỹ, ông ấy cho cha mẹ cô ta một trăm nghìn. Con Tuyết
đã bỏ học đi bán bar. Gớm, chị Thuyên thế mà cũng nhảy dù chồng kiếm thêm đô
la. Ngoại ô tôi đêm ngày sống trong sự bàn tán xôn xao. Nhiều gia đình nghĩ đến
lúc con gái mình cầm lòng không đậu, hư thân mất nết rồi lặn ngụp trong tội
lỗi.
Một hôm Lân từ Peiku về thăm chị Dĩ An.
Tình yêu nở ra mãnh liệt. Hôm lên đường đáo nhận đơn vị anh mang theo cái niềm
vui chị Dĩ An đã nhận lời làm vợ chưa cưới của anh. Nhưng một tuần sau thì Lân
tử trận trong một cuộc hành quân lớn. Thi hài anh Lân được chở về thành phố
tràn ngập cuộc vui của gái điếm và du đãng. Lân chết trong rừng để thành phố
được tiếp tục cơn động kinh của thời đại.
Chị Dĩ An như người bị cướp linh hồn: buổi
chiều ra thăm mộ anh, buổi tối khóc, sáng đi thơ thẩn. Chị bắt đầu lập cái vạch
nối giữa sự thất vọng cùng những cuộc trác táng. Năm đó chị tôi thi hỏng. Cha
tôi đi làm được nhiều tiền, nhưng chị lại không chịu đi học nữa. Những đứa em
tôi được vào học trường lớn trong thành phố. Chị Dĩ An mặc đjupe. Tôi dùng dù
che mỗi khi ra phố. Xuống đại lộ chúng tôi lẫn lộn trong biển người thời đại.
Chúng tôi bị lôi cuốn ngấm ngầm như một người nghiện.
Ngoại ô thân yêu của chúng tôi năm xưa
không còn cái vẻ nghèo nàn nữa. Nhưng nó vươn lên một cách học đòi, quê mùa giả
tạo. Những chiếc jupe chật, những chiếc áo dài lòe loẹt, những chiếc dù sặc sỡ
thấp thoáng trong các con hẻm xưa kia đàn bò lội qua. Mùa xuân đến càng làm cho
người ngoại ô tôi sang trọng một cách đáng thương. Lính Mỹ và trẻ em có một thứ
ngôn ngữ riêng, có những con lộ riêng, có những xã giao với nhau đầy bí mật.
Người Sàigòn cũng thèm đời sống dễ dàng của thành phố này. Những người đến lập
nghiệp đầu tiên vẫn là con gái. Họ đều âm thầm tôn thờ một thứ triết lý sống
thật là đặc biệt: đi đến thành phố xa làm ăn, khi có tiền trở về quê hương lấy
chồng.
Mãi đến bây giờ tôi vẫn tin nhiều con bạn
của tôi đi theo con đường đó. Cũng như dạo nào con gái chủ trương nên yêu một
người mà không bao giờ lấy họ làm chồng. Người chồng phải là người lớn tuổi và
có tiền. Con gái, nghĩ mà buồn. Sao họ rắc rối lắm vậy.
Gia đình tôi bắt đầu vượt qua cảnh sống
nghèo khó thì cha tôi lâm bịnh nặng. Cha tôi chết trong bệnh viện khi những cơn
mưa vẫn kéo dài đến thành phố. Ðêm hôm đó tôi trả tôi về với ngoại ô nước mắt.
Chiếc quan tài của cha tôi lướt qua những con đường nóng sốt. Và nghĩa địa đầy
vỏ chai la-de, hộp thiết vất bừa, là nơi an nghĩ cuối cùng của một đời người.
Chúng tôi thấy bơ vơ trước hoàn cảnh thiếu người che chở. Mẹ tôi khóc suốt
ngày. Chị Dĩ An như cánh bèo trôi giạt. Mấy đứa em sắp phải nghỉ học. Những đêm
nằm nước mắt tôi ràn rụa. Tôi biết mẹ, chị Dĩ An, em tôi, những linh hồn mai
đây không nơi đậu, những chiếc lá đã vàng trên cành. Chiều ngoại ô đã trả tôi
nỗi buồn, mái nhà cho tôi nhìn thấy cô đơn; và con đường mùa đông này đã cho
tôi những bước đi khó khăn.
“Chị Liêm – tên cũ chị Dĩ An – em phải xin
việc làm thôi”. “Thôi đi em, chị lớn để chị lo”. Mặc dù chị trả lời với tôi như
vậy, tôi vẫn đem cái bằng trung học đến các sở xin việc. Nơi nào cũng không
nhận vì tôi còn nhỏ tuổi. Có một ông thầu khoán nhận cho tôi làm thơ ký riêng.
Nội chiều hôm đó ông đã hôn tôi trong phòng. Tôi tát vào cái mặt dơ bẩn đó, về
nhà nghĩ mà thương cho mình.
Chị Dĩ An thì không có bằng cấp. Với cái
chứng chỉ đệ tứ chị chỉ được làm ở sở Mỹ nhờ một người quen bảo lãnh. Nội cái
việc bảo lãnh cũng phải trả một giá quá đắt rồi. Thằng khốn nạn nói bóng gió
nhưng chị Dĩ An thừa hiểu một cách cay đắng rằng: cho nó ngủ một đêm.
Làm công như chị Dĩ An sao mà nhiều tiền
quá. Mẹ tôi vốn hiền từ tin ở con mình. Riêng tôi, tôi vẫn có một linh cảm chua
xót về chị Dĩ An của tôi.
- Thực tình mày không chịu ngủ với thằng cha Lớp-Bơ
hả? Ðồ con chó, sao mày dại vậy?
Chị Dĩ An vừa đắp phấn lên mặt vừa nói
như vậy. Chị mặc đồ lót đứng trước gương soi không chút ngại ngùng. Tôi nói:
- Thôi chị, em không thể làm được.
- Nghèo mà ham, ở đó thờ phụng cuộc đời.
Mày có bồ rồi hả?
- Em không có bồ bịch nào hết nhưng em
chẳng thể nghe theo lời chị được, mặc dù em vẫn thương chị như bao giờ.
- Sức mấy mà thương với ghét.
Chị Dĩ An trả lời như xối gáo nước lã, đi
lại giường nằm dang hai tay ra như người chờ đợi. Buổi tối ông Lớp-Bơ đến. Cửa
phòng chị đóng kín đến gần hai giờ sáng mới mở ra. Khi xe đưa ông Lớp-Bơ về
rồi, tôi nghe thấy chị khóc nhỏ. Sáng hôm sau Dĩ An thức dậy trễ. Trong dáng
điệu mệt mỏi chị nói với tôi:
- Em đi phố với chị nghe. Bữa nay chị cho
em tha hồ mua sắm.
Tôi đi với chị. Ðại lộ từng làn sóng
người. Chị Dĩ An trang điểm kỹ lưỡng. Chưa bao giờ tôi thấy chị đẹp như hôm
nay. Nhưng thành phố không dành cho chị cái cảm tình nào nữa. Họ xem chị như
một món thời đại nặn sinh ra. “Em Bích Ty ạ, miền Trung mình đã quá cực khổ
rồi”. Chị Dĩ An nói như thế với giọng bồn chồn khắc khoải.
Mua sắm xong chúng tôi xuống bến tàu ngồi.
Ngọn núi Sơn Trà dựng lên bên kia sông. Xa Xa năm ngọn Ngũ Hành Sơn chìm trong
làn mây mờ. Biển ăn sâu vào thành phố mang theo cơn gió ngọt. Chúng tôi ngồi
ghế đá yên lặng. Chị Dĩ An thỉnh thoảng thở ra nhè nhẹ. Dĩ An nói:
- Em có nghĩ một con đĩ có tâm sự buồn là
một con đĩ đau khổ nhiều nhất không?
Tôi không trả lời được. Dĩ An tiếp:
- Chị bán linh hồn chị rồi. Em thương chị
không? Dĩ An nói rất nhiều trên bờ sông thầm lặng.
Tối hôm đó nước mắt tôi ràn rụa. Tôi
thương chị Dĩ An, thương cha mẹ tôi, thương bầy em nhỏ dại không ai nuôi dưỡng.
Tôi thương xót hết thảy. Ôi ngoại ô, quê hương, linh hồn tôi. Các em tôi vẫn
tiếp tục học hành nhờ đồng tiền của chị Dĩ An. Mẹ tôi sống nhàn rỗi hơn những
ngày trước. Tuy nhiên tôi vẫn thấy một cái gì đè nặng lên đời sống mình. Tôi
chán ngán. Thực tại là một giấc mơ kinh hoàng. Chị Dĩ An bây giờ đã thay đổi
quá nhiều. Tính tình chị thất thường. Khi vui khi buồn. Chị khóc tự nhiên. Nụ
cười hết tinh anh. Lớp-Bơ vẫn đến mỗi tối. Lớp-Bơ cỡ người cao lớn. Ông đeo
kính cận, tóc quăn, khuôn mặt đẹp, trông thông minh. Lớp-Bơ yêu thương chị,
muốn cưới chị mang về Hoa kỳ. Dĩ An từ chối. Nhiều khi tôi nghĩ sau lưng chị
còn mồ mả cha ông và bầy em không cơm áo. Chị như mảnh đất nghèo nàn nằm trên
quê hương này để nuôi dưỡng những người mới lớn. Em tôi sẽ nghĩ như thế nào nếu
mai sau nó biết được nó sống nhờ vào những tờ giấy trăm sột soạt trao nhau
trong phòng tối. Chúng nó có thương những người chị tàn phai nhan sắc vì cơn
gió thổi đến quá phũ phàng hôm nay.
Anh Lân đã chết. Cha tôi đã chết. Ðến lượt
mẹ tôi già. Em tôi lớn. Những hàng cây ngoại ô đổi thay. Bãi biển thêm những
ngày cát bồi và gió mặn. Tôi cảm thấy bơ vơ giữa biển đời sâu rộng. Chị Dĩ An
trôi chơi vơi trong dòng băng rã cuồn cuộn. Không một tiếng gọi nào có thể làm
cho thành phố này chú ý. Những người bạn trai đã bỏ đi xa. Cuộc sống ồn ào
nhưng thê thiết lạ lùng. Một buổi tối chị Dĩ An lại bảo tôi:
- Bích Ty ạ, mày nên có chồng đi là vừa.
- Em ngán lắm chị ơi.
- Mày thì cái gì cũng ngán với ngao. Một
nước có thể có hai anh hùng nhưng trong nhà hai chị em không nên làm đĩ cả hai
mày hiểu chưa?
- Thôi mà chị, cay đắng với em làm gì.
Chị Dĩ An bỗng quay phắt lại:
- Ðồ con chó này sao cứ xem ta như kẻ chán
đời.
Chị Dĩ An ngồi xuống giường mình, ngã tới
phía trước, tay cầm bàn chải đưa tới trước mặt tôi, chị tiếp:
- Này, em phải lấy chồng. Thằng nào cũng
được. Có gia đình là tự nhiên có hạnh phúc. Gia đình, nơi đó em trốn được nỗi
buồn con gái.
Tôi cúi mặt yên lặng. Tôi thương chị tôi,
người trôi dạt cần một chiếc phao. Chị đã chán chường những đêm ái ân qua
đường, chán những ngày không đợi chờ mà khoái lạc vẫn đến. Khoái lạc như ngọn
lửa lan trên da thịt. Nhiều chàng trai đã ôm chị tôi trong lòng. Họ hôn chị sau
đêm hành quân về. Họ hỏi chị về quá khứ, khen chị đẹp, ve vãn chị nhiều, nhiều
lắm. Nhưng tất cả những âu yếm tạm bợ là những nhát chém xuống đời chị tôi. Từ
ngày anh Lân chết đi không ai chịu nhận chị Dĩ An làm vợ nữa. Không ai quỳ
xuống để ca ngợi một sắc đẹp trong bùn lầy.
Từ ngày anh Lân chết đi, thành phố này đối
với chị là một nghĩa trang. Chị thường ra sân ga nhìn những toa tàu nằm chết
trong đường. Cây cầu hoen rĩ không dấu xe qua. Chị đến bãi biển ngồi thầm lặng.
Hoàng hôn xuống buồn. Có khi khuya lắm chị mới trở về nhà. Chuyến xe trở về
ngoại ô lặng lẽ làm chị nhớ tới ba tôi. Tội nghiệp chị, một đời nước mắt.
Tôi đi trên con đường lầy lội đêm mưa này
không biết gọi tên ai. Chị Dĩ An đã vào trong biệt thự. Anh Lân, cha tôi, đã có
cuộc hành trình riêng lẻ. Thằng em tôi lớn lên mỗi ngày nó càng lầm lì. Nó muốn
tìm hiểu chị Dĩ An nhưng nó làm sao hiểu. Một hôm nó về hỏi thẳng với tôi: “Chị
Dĩ An làm đĩ hả?” Tôi không trả lời được. Em tôi gắt gỏng: “Ai đặt cho chị Liêm
cái tên Dĩ An đó?” Tôi cúi mặt đi vào phòng, nước mắt ràn rụa. Em tôi bỏ đi.
Buổi chiều tôi thấy nó uống la-de say mềm trong quán. Nó đập lộn với bạn bị
cảnh sát bắt về đồn. Tôi đến đồn. Ông đồn trưởng nói thẳng vào mặt tôi:
- Cái gia đình này bầm dập lắm, con thì
làm đĩ, thằng thì du đãng.
Tôi trả lời:
- Ông không nên bôi nhọ kẻ khác một cách
vô cớ như vậy.
- Cô là chị thằng cao bồi này hả?
- Em tôi không như ông tưởng. Nó là học
sinh.
- Học sinh như cô vậy phải không?
Viên đồn trưởng nói xong nhe răng cười
với bọn cảnh sát. Họ thúc cùi chỏ với nhau làm như đã thấy tôi ở đâu trong xóm
bình khang. Rồi em tôi đi lính. Một buổi chiều tôi tìm nó ở trại nhập ngũ. Tôi
van:
- Em ở nhà với chị. Nhà mình không còn ai
đâu.
- Em đã lập hồ sơ xong xuôi cả. Chị ơi,
cho em trăm bạc, hết tiền rồi.
Tôi cho nó một trăm đồng (tiền này vẫn là của
chị Dĩ An). Nó cầm lẹ rồi đi về phía quán nước làm như quên mất rằng có chị
đang đau khổ vì nó ở đây. Tôi đứng tựa vào thân cây bên cổng. Ánh nắng chói
chang, Một lát sau thằng em trở ra với điếu Ruby và nụ cười hiu hắt trên môi.
Tôi nói:
- Lâm, em buồn mấy chị phải không? Tụi chị
xin lỗi em đây.
- Chị Bích Ty ơi, sao chị ác vậy. Không
bao giờ em có ý nghĩ đó.
Lâm có vẻ buồn. Anh Lân ngày xưa nói thật
đúng. Theo anh, tuổi trẻ hôm nay có quá nhiều nỗi buồn. Tiếng cười của họ thay
tiếng khóc. Em tôi cười nhiều khi trông thật đáng thương.
Lần thứ hai tôi đến trại nhập ngũ thì
em tôi chuẩn bị lên đường. Tôi đứng ở cổng nhìn đoàn xe chạy qua. Lâm mặc bộ đồ
nhà binh màu vàng rộng xềnh xoàng, tóc hớt cao, vẫy tay chào tôi. Bụi đường bay
vút lại sau xe như sương mù.
Em tôi lên đường mà chi Dĩ An không tới
thăm nó. Chị đưa tôi hai chục nghìn đồng và nói: “Mày bảo nó vào trong ấy khi
nào cần tiền thì cứ viết thư về cho tao, còn việc đến trại nhập ngũ thì tao
không bao giờ”. Tôi thừa biết chị Dĩ An đã một lần tới đây tiễn đưa anh Lân
rồi. Bây giờ chị sợ khung cảnh ấy.
Nhà tôi vắng vẻ lại càng vắng vẻ thêm vì
thiếu Lâm. Dĩ An bắt đầu một sa đọa mới: đánh bạc. Tiền trong nhà băng được rút
ra để chị đốt trong sòng bài mỗi đêm có tới hàng chục nghìn. Ai cũng biết chị
nhiều tiền. Thời gian đầu có tháng chị kiếm ra trên trăm ngàn. Bây giờ đâu lại
bắt đầu vào đấy. Người chị trông xanh xao. Những thằng ma cô làm khó dễ chị. Họ
lăn lóc trong các vùng đam mê tàn lụi đó. Chúng nó có thừa nghệ thuật làm chị
bị kích thích, ngây ngất. Bao nhiêu tiền cũng về tay chúng nó.
Bây giờ Dĩ An như người không còn trí tuệ.
Chị không chú trọng tới nhân cách nữa. Gặp bạn đồng nghiệp với chị, chị văng
tục nghe mà xanh dờn.
Lâm từ quân trường viết thư về bảo tôi tìm cách giết
chị Dĩ An đi. Tôi đọc thư bằng nước mắt. Nghĩ mà thương cho hết thảy kiếp
người. Tại sao thân phận nào cũng dai dẳng những đau khổ triền miên, cũng vướng
lầy nợ nần trả trọn đời không hết.
Ngọai ô tôi bây giờ cũng mất linh hồn như chị.
Dĩ An tôi say sưa, đàng điếm, dối trá, sống theo những bản năng rừng rú không
bằng. Tôi muốn rời thành phố nhưng không đủ can đảm. Rồi Lâm từ quân trường trở
về với cái lon trung sĩ. Ở ngoài bước vào tôi không nhận ra. Lâm đen và mập hơn
xưa kia rất nhiều. Nỗi khắc khổ đã làm cho Lâm trở thành người lớn. Em tôi hỏi:
- Chị Dĩ An dạo này ở đâu?
Tôi nói:
- Chị không rõ lắm. Chị ấy hai tháng nay
không về nhà.
Rồi tôi òa lên khóc. Cái gì nức nở đau
thương vỡ ra trong tim tôi lênh láng. Lâm ôm lấy tôi nói:
- Em van chị, đừng làm em buồn.
Nói xong Lâm quay mặt đi, giấu những giọt
nước mắt lăn trên má. Ðứa em ngang tàng của tôi hôm nay trở về chứng kiến sự
tang tóc của gia đình.
Mấy tháng nay mẹ tôi phải đi rong phố
với gánh chè trên vai. Tôi đi làm để tìm đủ mọi cách cho mấy đứa nhỏ còn ngồi
được trong trường. Lâm lãnh mấy tháng lương đầu dành dụm gởi về cho tôi. Nhưng
trong lúc này chị Dĩ An đã tiêu phá đời mình, đã đốt hàng chục ngàn trong một
canh bài. Trong lúc này chị phải phiêu bạt phương trời. Chị có nhớ lại quá khứ
êm đềm của ngọai ô? Chị có tưởng đến kỷ niệm tuổi thơ? Chị Dĩ An, chị đã đánh
mất tương lai, mất cả quá khứ.
Sáu ngày phép trở lại thăm nhà Lâm dành
trọn để tìm kiếm chị Dĩ An. Chúng tôi không biết địa chỉ ông Lớp-Bơ. Gặp người
Mỹ nào quen với chị ngày trước họ cũng đều lắc đầu: “We don’t know.”
- Chị Bích Ty ạ, Dĩ An mà chết đi chắc
chúng ta phải ân hận suốt đời.
Tôi nghe câu nói của Lâm như nghe điệu buồn vô tận.
Mây ngoài trời vẫn bay mau. Những chiếc lá vẫn xanh trên cành. Riêng chị Dĩ An
đã lạc loài quá nhiều. Rồi Lâm lên đường. Người
lính trẻ tìm cuộc hành trình riêng cho mình. Tôi trả tôi về vớùi những ngày
tháng nay âu lo.
Ba tháng sau, một đêm trời mưa tầm tã, chị Dĩ An trở về. Mẹ tôi
mừng ôm chị khóc òa. Chị có vẻ khác xưa. Da tươi thắm hơn, gương mặt thầm lặng
chứa nét đẹp kín đáo như thuở nào. Ðặc biệt chị có dáng dấp của một người con
gái vừa mới sinh con đầu lòng. Chị ở nhà một đêm sáng hôm sau chị đi ngay.Trong
gia đình này không có mãnh lực nào giữ chị lại được hết. Chị đi Sàigòn sinh
con, cho cô nhi viện nuôi rồi trở về tiếp tục con đường cũ. Chỉ có trời xuống
đây mới lập lại được cuộc đời của chị Dĩ An. Tôi thấy mình mất hết cả rồi.
Không hy vọng gì ở chị Dĩ An nữa. “Bích Ty, cho mày hay tao không phải là con
cái gì trong cái nhà này nữa. Mày đi làm có tiền để nuôi các em mày nếu mày
muốn!”
Chị Dĩ An vất cho mẹ tôi một chục ngàn rồi đi luôn. Hình ảnh cuối
cùng của một người chị trong đời tôi như vậy đó. Tôi buồn và bắt đầu đi lang
thang trong những cánh rừng thông bãi biển. Chiều nay tôi âm thầm đạp xe đến
cổng một hotel mà cuộc đời chị ném sâu trong đó. Hoàng hôn xuống thành phố.
Trên từng lầu thứ ba đèn sáng qua các ô cửa. Chị Dĩ An tôi trên đó. Tiếng cười
điên loạn trên đó.
Ngọn đèn pha trên núi Sơn Trà vàng vọt cô đơn. Ðêm tối đã bắt đầu
trong vùng biển. Gió ngọt xua trên bãi cát vắng. Linh hồn tôi đã lạnh. Tôi lặng
lẽ đạp xe về. Ôi, ngoại ô một khung trời buồn.
CUNG
TÍCH BIỀN
Cần
Thơ 12/19/1965
DĨ
AN, NGOẠI Ô VÀ LINH HỒN TÔI là một trong những truyện ngắn hay nhất của nhà văn Cung
Tích Biền. Có thể nói đây là truyện ngắn đã tạo nên tên tuổi của ông. (PCH)