Chân dung nhà văn Dư Hoa
Sinh
tại Hàng Châu, thủ phủ tỉnh Triết Giang, ở tây nam Trung quốc. Lúc khởi đầu
cuộc Cách mạng văn hoá, Dư Hoa mới 6 tuổi, nhưng cũng kịp thấu chịu những hệ
luỵ của thời cuộc: cha ông là bác sĩ phải chuyển đến một thị trấn nhỏ, nghèo
nàn, lạc hậu, lúc này đang bị dịch bệnh sán máng. Tuổi thơ, do vậy, không để
lại cho ông nhiều kỷ niệm êm đẹp lắm. Học xong trung học, Dư Hoa được đào tạo
ngắn hạn để trở thành nha sĩ, và tuy chẳng mặn mà gì lắm với cái công việc
" ngày nào cũng phải nhìn vào mồm người ta ", ông vẫn phải làm nghề
này trong 5 năm. Từ nơi làm việc ( một thị trấn nhỏ giữa Thượng Hải và Hàng
Châu ), hàng ngày ông nhìn thấy các nhân viên cơ quan văn hoá địa phương nhàn
nhã qua lại khiến ông muốn bỏ nghề. Theo lời khuyên của những người này, ông thử
viết và công bố một truyện ngắn, đủ để ông trở thành đồng nghiệp của họ. Năm
1988, ông đến Bắc Kinh theo học ở Viện Văn học Lỗ Tấn.
Suốt
thời kỳ Cách mạng văn hoá, Dư Hoa chẳng được đọc gì khác những tờ áp phích viết
chữ to, gọi là Đại tự báo, trên đó ông bỏ qua những khẩu hiệu mà chỉ quan tâm
đến những câu chuyện người dân tố cáo láng giềng và thân nhân của mình với đủ
tình tiết ly kỳ, hấp dẫn, như một loại truyện ký ghi truyện thường ngày. Cuối
thập niên 80, một số tác phẩm văn học được xuất bản trở lại, nhất là tác phẩm
dịch văn học nước ngoài, giúp ông làm quen với những tác giả phương Tây như
Kafka, Borges..., ảnh hưởng đến những trang viết đầu tiên của ông. Ban đầu ông
viết truyện ngắn, đăng trên những tạp chí địa phương, không gây được sự chú ý
nào. Phải chờ đến lúc ông xuất bản cuốn truyện đầu tiên, " Thập bát tuế
xuất môn viễn hành " ( Mười tám tuổi ra khỏi nhà đi xa ), ông
mới bắt đầu nổi tiếng.
Thành
công này tạo đà cho Dư Hoa tiếp tục sáng tác. Năm 1993, ông viết
cuốn " Sống ", khắc hoạ hình ảnh xã hội Trung quốc suốt thời
gian từ thập niên 40 đến lúc khởi đầu chính sách cải cách và mở cửa cuối thập
niên 70, qua những bước thăng trầm trong cuộc đời nhân vật Từ Phúc Quý. Vốn con
nhà tư sản giàu có, sống trong nhung lụa, vung tiền trong cờ bạc đỏ đen, đến
thời Đại Nhảy Vọt và Cách mạng văn hoá, Từ Phúc Quý phải trắng tay,
khốn cùng, trở về làm nông dân. Cuối đời, Từ Phúc Quý sống cô quạnh với con
trâu già, nhưng vẫn nuôi khát vọng vượt qua nghịch cảnh để sống còn. Tác phẩm
trở thành " best- seller", được dịch sang tiếng Anh và càng nổi tiếng
hơn khi đạo diễn Trương Nghệ Mưu dựng thành phim với hai diễn viên ngôi sao:
Cát Ưu ( vai Từ Phúc Quý ) và Củng Lợi ( vai người vợ ). Cuốn phim đã đạt Giải
thưởng lớn của Ban Giám khảo tại Liên hoan Phim Cannes và Cát Ưu Giải Nam diễn
viên chính xuất sắc.
Năm
1995, Dư Hoa xuất bản tiếp cuốn " Hứa Tam Quan mại huyết ký " (
Truyện Hứa Tam Quan bán máu ). Vẫn là hoàn cảnh bi thảm của người dân ( nghèo
túng phải bán máu để kiếm sống và ... để dành tiền cưới vợ. Và vẫn là ước mơ
cháy bỏng muốn vượt qua số phận.
Năm
2003, cuốn truyện dài hai tập " Huynh đệ ", thuật lại cuộc đời của
hai anh em Lý Trọc và Tống Cương qua hai thời kỳ, từ Cách mạng văn hoá đến thời
hiện đại, cũng gây được tiếng vang lớn.
Sau
thời gian này, Dư Hoa ngừng sáng tác để đi du lịch và diễn thuyết theo lời mời
của các nhà xuất bản. Mãi đến năm 2010 ông mới cho ra mắt cuốn tiểu thuyết mới
với nhan đề gợi trí tò mò : " Trung quốc trong 10 chữ ". Có thể xem
đây là tác phẩm tổng hợp tất cả quan điểm của Dư Hoa trong các sách ông đã viết
từ trước đến nay. Bằng cách tóm tắt trong mười chữ: Nhân dân, Lãnh tụ, Đọc,
Viết, Lỗ Tấn, Cách mạng, Chênh lệch, Dân quèn, Bắt chước, Lường gạt, Dư Hoa đã
nêu lên nhận định về hiện thực xã hội Trung quốc qua cách nhìn phê phán, thẳng
thắn và có phần châm biếm.
Cuốn
sách mới nhất của ông là " Đệ thất thiên " ( Ngày thứ bảy ), ra mắt
vào tháng 6 năm 2013. Với bút pháp huyền ảo, Dư Hoa thuật lại những điều tai
nghe mắt thấy của nhân vật Dương Phi, sau khi chết được bảy ngày, tức là từ góc
độ của thế giới người chết để miêu tả thế giới hiện thực. Tác phẩm đã làm dấy
lên nhiều ý kiến tranh luận, khen chê trái ngược nhau.
Tác
phẩm của Dư Hoa đã được dịch ra nhiều thứ tiếng ( Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật bản,
Hàn quốc... ). Cuốn " Sống " được Giải thưởng Grinzane Cavour Prize,
một giải thưởng văn học uy tín của Ý, năm 1998. Cuốn " Huynh đệ ",
được giải thưởng Prix Courrier international của Pháp, năm 2008.
Truyện
" Thằng bé trong hoàng hôn " giới thiệu sau đây phần nào cho thấy sự
ám ảnh của Dư Hoa về những cảnh tàn bạo ông từng chứng kiến hồi nhỏ, dưới thời
Cách mạng văn hoá.
Buổi
trưa ngày mùa thu, người đàn ông tên Tôn Phúc đang ngồi cạnh sạp hàng bày đầy
trái cây.
Ánh
nắng chói chang khiến ông phải nheo mắt, đôi mắt với cả năm mươi năm đàng sau.
Ông chống hai bàn tay lên đầu gối, tư thế làm ông chồm về trước, trên đôi cánh
tay. Dưới ánh sáng mặt trời, mái tóc hoa râm của ông trông ra màu tro, giống
như con đường trước mặt ông. Con đường thăm thẳm, ngút ngàn trải dài đến tận
chỗ ông và sau đó còn chạy xa tít tắp. Đã ba năm rồi ông vẫn ngồi ở đấy, cạnh
bến cảng nơi các chuyến tàu lửa đường xa chở khách dừng lại, kiếm sống bằng
việc bán trái cây. Một chiếc xe chạy qua gần chỗ ông ngồi, tung những cuộn bụi
nhấn chìm ông, tưởng chừng như một bầu trời đen nghịt trùm lên
người, rồi sau đó cả người lẫn trái cây lại hiện ra, như trong ánh
sáng lúc bình minh.
Khi
đám mây bụi mờ đã tan , ông nhìn thấy trước mặt mình một đứa bé giương đôi mắt
đen sáng ngời nhìn ông chằm chặp. Ông nhìn thẳng đứa bé áo quần dơ dáy, bàn tay
đặt lên một trái cây của ông. Ông nhìn bàn tay thằng bé, móng tay đen và dài sờ
vào trái táo đỏ bóng, ông đưa tay lên, vẫy ra trước như muốn đuổi ruồi, bảo
thằng bé:
"
Cút đi! "
Thằng
bé rút bàn tay đen như than lại, thân hình lắc nhẹ, rồi bỏ đi. Nó chậm rãi bước
tới, đôi tay đu đưa, cái đầu có vẻ quá to trên thân hình ốm tong teo của nó.
Ngay
lúc này có mấy người đến gần sạp hàng, Tôn Phúc quay sang nhìn họ, không quan
tâm đến thằng bé đang bỏ đi nữa. Những người này đến trước mặt Tôn Phúc, phía
bên ngoài sạp hàng, và hỏi ông:
"
Táo bán bao nhiêu đây? Còn chuối, nửa ký bao nhiêu? "
Tôn
Phúc đứng dậy, lấy cái cân, cân táo và chuối, cầm lấy tiền những người khách
đưa, rồi lại chống tay lên đầu gối, và ông thấy thằng bé hồi nãy. Nó trở lại.
Lần
này nó không đứng trước mặt mà ngay bên cạnh ông, đôi mắt đen ngời sáng nhìn
chăm chú mấy trái táo trái chuối của Tôn Phúc, trong khi ông cũng nhìn lại nó.
Nhìn trái cây một lát, thằng bé ngẩng đầu lên phía Tôn Phúc và nói:
"
Cháu đói lắm. "
Tôn
Phúc vẫn nhìn nó mà không trả lời. Thằng bé nhắc lại:
"
Cháu đói lắm. "
Nghe
giọng nói trong trẻo, Tôn Phúc vẫn không rời mắt khỏi thằng bé dơ dáy, nhíu mày
nói:
"
Cút đi! "
Thằng
bé khẽ run lên, Tôn Phúc nhắc lại to hơn:
"
Cút đi! "
Thằng
bé giật mình, hoảng sợ, nó ngập ngừng, hai chân đong đưa, rồi quyết định nhúc
nhích. Tôn Phúc thôi không nhìn nó nữa mà quay sang nhìn ra đường, ông nghe
tiếng tàu lửa ngừng lại phía bên kia, trên tàu, có người đứng dậy, qua khung
cửa kính, ông thấy một đám người lấn nhau chen ra phía cửa. Một lúc sau cả một
làn sóng người đổ ra hai đầu. Đúng lúc đó, Tôn Phúc quay đầu lại và thấy thằng
bé hồi nãy chuồn thật lẹ. Thấy nó chạy ông không hiểu tại sao. Ông nhìn đôi bàn
tay nó vung vẫy khi chạy, và nhận ra bàn tay phải của nó đang cầm một vật gì
đó, một vật hình tròn mà ông biết ngay: nó đang cầm trái táo. Tôn Phúc đứng
dậy, chạy đuổi theo thằng bé, miệng hét lớn:
"
Ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp, kia kìa, đàng trước đó! "
Lúc
này đã sang chiều. Thằng bé chạy làm tung bụi mù. Nó nghe tiếng la phía sau,
quay đầu lui nhìn, thấy ông Tôn Phúc đang đuổi theo. Nó chạy đến hụt hơi, thở
hổn hển, đôi chân yếu dần, cảm thấy không thể chạy xa được nữa, quay đầu nhìn
lui lần nữa, nó thấy Tôn Phúc vung tay lên và hét lớn, biết thế nào ông cũng
bắt được . Rồi nó dừng lại, quay lui ngẩng đầu lên, và thấy Tôn Phúc đã đuổi
kịp. Trước khi ông bắt được, nó đưa trái táo lên miệng và ra sức ngoạm một
miếng to.
Khi
Tôn Phúc chạy tới, ông hất rơi trái táo trong tay nó, và tát vào mặt . Trúng
đòn, nó lảo đảo té xuống. Nằm dưới đất nó lấy tay che đầu và cương quyết nhai
miếng ngậm trong miệng. Nghe tiếng nhai, Tôn Phúc nắm lấy cổ áo nhấc thằng bé
lên. Bị chẹt cổ, nó không nhai được, mở to đôi mắt lồi, trái táo làm hai má
phồng lên. Tôn Phúc một tay nắm lấy cổ áo, một tay bóp cổ và hét lớn:
"
Nhả ra! Nhả ra! "
Thấy
có đám đông tụ họp lại xung quanh, ông nói lớn:
"
Nó tưởng còn ăn được nữa ! Nó ăn cắp trái táo của tôi, cắn trái táo và tưởng là
ăn hết được! "
Rồi
ông dang tay tát thằng bé và thét lên:
"
Nhả ra cho tao!"
Thằng
bé vẫn ngậm chặt miệng, Tôn Phúc cứ bóp cổ nó:
"
Nhả ra! "
Miệng
thằng bé há ra, Tôn Phúc thấy miếng táo nó đã cắn, ông bóp cổ nó mạnh hơn,
thằng bé trợn mắt. Có người nói:
"
Tôn Phúc, nhìn mắt thằng nhỏ kìa, chúng sắp lộn ngược ra đó, ông làm nó ngạt
thở mất."
"
Đáng đời nó. Tôi làm nó ngạt thở thì nó sẽ không ăn cắp nữa."
Rồi
ông buông lỏng tay đang siết thằng bé ra, và chỉ lên trời mà nói:
"
Trên đời này tôi ghét nhất phường ăn cắp... Nhả ra! "
Thằng
bé bắt đầu nhả những miếng táo ngậm trong miệng ra, nhả từng miếng một, như
kiểu một kẻ bị kết án chịu nhục hình phải tự thú, và những miếng táo nó nhả rớt
xuống áo quần nó. Khi thằng bé ngậm miệng lại, Tôn Phúc lấy hai tay banh miệng
nó ra rồi ngồi xổm xuống nhìn vào bên trong:
"
Vẫn còn, mày chưa nhả ra hết."
Vậy
là thằng bé lại khạc tiếp, khạc cả nước bọt, lẩn trong đó vài mẩu táo nhỏ.
Thằng
bé không khạc ra nữa, tiếng khạc nghe khô khốc, không còn cả nước bọt để khạc.
Lúc này Tôn Phúc mới nói:
"
Thôi được rồi."
Tôn
Phúc nhìn đám đông vây quanh, nhận ra vài người quen, ông lên tiếng:
"
Ngày xưa chẳng ai cần lắp ổ khoá cửa cả. Trong làng này cũng không ai phải khoá
cửa , đúng vậy không? ".
Thấy
vài người lắc đầu, ông nói tiếp:
"
Bây giờ chẳng những phải khoá cửa mà còn lắp thêm ổ khoá nữa. Tại sao vậy? Thì
tại mấy thằng ăn cắp này đây. Bởi lẽ đó mà trên đời này tôi ghét nhất là phường
ăn cắp."
Tôn
Phúc quay sang thằng bé, nó ngước lên ông, ông thấy thằng bé mặt dính đất, thẫn
thờ nhìn ông, ngây dại trước những lời ông vừa nói. Nhìn vẻ mặt đó, ông dằn
giọng nói tiếp:
"
Theo luật lệ ngày xưa là phải chặt tay, cái tay ăn cắp là phải chặt..."
Tôn
Phúc cúi xuống thằng bé và thét lên: " Tay nào? "
Thằng
bé run lẩy bẩy cả người và thu vội bàn tay phải sau lưng. Tôn Phúc chộp lấy bàn
tay phải của nó, chìa ra cho mọi người xem và nói:
"
Chính bàn tay này đây, nếu không tại sao nó giấu lẹ thế? "
Thằng
bé bật khóc: " Không phải tay này."
"
Vậy thì tay kia." Tôn Phúc vừa nói vừa nắm lấy bàn tay trái.
"
Không! " Thằng bé rút bàn tay lại và la lớn, Tôn Phúc tát nó một cái làm
nó lảo đảo, ông tát thêm cái nữa, thằng bé không nhúc nhích được nữa. Tôn Phúc
nắm lấy tóc nó, hất đầu nó lên và thét vào mặt:
"
Vậy thì tay nào? "
Thằng
bé giương mắt nhìn, một lát sau, chìa bàn tay phải ra. Tôn Phúc nắm lấy cổ tay,
rồi lấy tay kia nắm lấy ngón giữa, và tuyên bố với mọi người:
"
Luật lệ ngày xưa là phải chặt tay, thời
nay không như vậy nữa, mà quan trọng là giáo dục, vậy thì làm thế nào để giáo
dục? "
Nhìn
thật lâu thằng bé, ông mới nói: " Đây này, làm thế này đây..."
Lấy
hết sức lực, Tôn Phúc vặn ngón tay giữa của thằng bé, nghe một tiếng
rắc khô khốc. Thằng bé đau đớn kêu một tiếng sắc lẻm như lưỡi dao,
nhìn ngón tay gãy gập trên lưng bàn tay, đổ sập người xuống đất.
Tôn
Phúc nói với mấy người xung quanh: " Phải đối xử với bọn ăn cắp như vậy
đó!"
Nói
xong ông đưa tay ra đỡ thằng bé dậy, thằng bé quá đau đớn, nhắm nghiền mắt, ông
hét nó:
"
Mở mắt ra, mở to mắt ra!"
Thằng
bé cố giương to mắt, nhưng cơn đau làm nó méo miệng. Tôn Phúc đá cho nó mấy cái
rồi ra lệnh:
"
Đứng dậy! "
Tôn
Phúc nắm lấy cổ áo thằng bé, đẩy nó đến trước sạp hàng. Ông lấy trong chiếc hộp
giấy ra một sợi giây thừng và trói thằng bé trước sạp hàng. Thấy có mấy người
đi theo, ông bảo thằng bé:
"
Bây giờ mày la lên, la to lên : Tôi là thằng ăn cắp. "
Thằng
bé nhìn Tôn Phúc nhưng không la lên, Tôn Phúc nắm lấy bàn tay trái của nó, cầm
ngón giữa, thằng bé vội vàng la : " Tôi là thằng ăn cắp!"
Tôn
Phúc bảo nó: " Giọng mày yếu quá. La to nữa lên!"
Thằng
bé nhìn ông, ngưỡng cổ ra và cố hết sức la: Tôi là thằng ăn cắp!
Tôn
Phúc thấy gân cổ thằng bé nổi lên, ông lắc lắc cái đầu và nói:
"
Đấy, phải la to như vậy đó! "
Chiều
hôm đó, tia nắng mặt trời mùa thu soi rõ thằng bé, tay nó quặt lui sau lưng,
giây buộc ở cổ, thật chặt, không sao cúi đầu xuống được, nó chỉ có
thể ngước lên nhìn con đường, cạnh bên nó là những trái cây đã làm
nó thèm, nhưng bây giờ nó không thể cúi đầu nhìn được vì giây buộc quá chặt ở
cổ.
Khi
thấy có người đi ngang qua trước đường, Tôn Phúc lại bắt nó la: Tôi là thằng ăn
cắp.
Ngồi
trên chiếc ghế tựa, đàng sau sạp hàng, Tôn Phúc nhìn thằng bé, có vẻ hài lòng
lắm. Cơn giận vì mất trái táo đã nguôi, ông bắt đầu cảm thấy thoả mãn vì đã bắt
được thằng bé ăn cắp táo và đã trừng phạt nó, ông còn bằng lòng là sự trừng
phạt chưa xong. Ông buộc nó phải la lớn, chỉ cần thấy có người đi ngang là ông
bắt nó phải la thật to, ông nhận thấy là tiếng la làm mọi người chú ý, và dòng
người trước sạp hàng cứ lần lượt đông mãi không dứt. Nhiều người tò mò nhìn
thằng bé bị trói đang la, ra sức la thật to tôi là thằng ăn cắp. Họ thấy lạ
lùng quá. Tôn Phúc lại bắt đầu giải thích là thằng bé ăn cắp của ông trái táo,
kể chuyện ông rượt bắt nó và trừng phạt nó ra làm sao, rồi kết luận: " Tôi
làm thế này là tốt cho nó thôi."
Ông
biện bạch: " Tôi muốn nó hiểu ra, để rồi từ rày về sau không ăn cắp
nữa."
Thuyết
giảng đến đây, ông quay sang nói với thằng bé với cái giọng rõ ràng, trong
trẻo: " Sau chuyện này mày vẫn ăn cắp hay chừa rồi?
Thằng
bé ráng hết sức lắc đầu ra dấu. Giây buộc vào cổ chặt quá nên động tác này cũng
không rõ, chỉ thoáng nhanh qua thôi. Tôn Phúc kiêu hãnh bảo mọi người "
Các ông bà thấy chưa! "
Suốt
buổi chiều, thằng bé không ngừng la lớn như thế, nắng làm môi nó khô đến nứt
ra, giọng khàn đi. Đến gần chiều tối, nó không đủ sức la được nữa, chỉ còn phát
ra tiếng lạo xạo của vật gì đang chà xát.
Tuy
vậy nó vẫn phải la: Tôi là thằng ăn cắp.
Người
qua đường không hiểu nó nói gì, Tôn Phúc giải thích:
"
Nó nói: Tôi là thằng ăn cắp".
Sau
đó, Tôn Phúc nới lỏng sợi giây. Trời dần tối, ông chất trái cây vào xe chở hàng
và tháo sợi giây. Cất giây vào xe, ông nghe đàng sau một tiếng " uỵch
". Quay lui ông thấy thằng bé ngã nhoài xuống đất, ông bảo nó:
"
Mày nói đi, mày còn dám ăn cắp nữa không? "
Nói
xong, ông trèo lên xe, bỏ đi theo con đường dài thăm thẳm, bỏ mặc thằng bé nằm
dưới đất. Thằng bé đã đói nay lại thêm khát, kiệt sức rồi. Nó đã té khi Tôn
Phúc tháo sợi giây ra, và vẫn nằm dài dưới đất khi Tôn Phúc bỏ đi. Nó mở hé
mắt, chừng như không nhìn thấy gì trên đường. Nằm bất động như thế
một lát, nó cố gượng dậy, đứng tựa vào gốc cây, rồi dò dẫm từng bước trên đường,
đi về hướng tây.
Đi
về hướng tây, trong ánh hoàng hôn, thân hình nhỏ nhắn mảnh khảnh của nó lắc lư
theo bước chân, thằng bé rời bỏ thị trấn nhỏ này. Một vài người nhìn thấy nó bỏ
đi biết rằng đây là thằng bé mà Tôn Phúc đã bắt lúc chiều, nhưng không ai biết
nó tên gì, từ đâu đến và nhất là không biết nó sẽ đi đâu. Điều làm họ để ý là
cái bàn tay phải với ngón giữa bẻ quặp vào lưng bàn tay. Họ nhìn thằng bé đi xa
dần trong hoàng hôn và biến mất tăm.
Tối
hôm đó, như thường lệ, Tôn Phúc đến cửa hàng nhỏ cạnh nhà, mua
nửa lít rượu, làm hai dĩa rau trộn nhỏ, xong đến ngồi
nơi chiếc bàn vuông. Vào thời điểm này, những tia nắng chiều còn sót
lại len qua cửa sổ, mang lại cảm giác ấm áp dễ chịu ở bên trong gian phòng. Tôn
Phúc ngồi đấy, trong ánh hoàng hôn, trước cửa sổ, chậm rãi nhắm nháp rượu.
Nhiều
năm trước, cũng trong gian phòng này, còn có một phụ nữ xinh đẹp và một đứa bé
lên năm. Thời đó, phòng này lúc nào cũng rộn rã sống động. Vợ chồng ông, và đứa
con trai nữa, thường xuyên chuyện trò với nhau. Ông thường ngồi ở chiếc ghế bên
trong, chăm chú nhìn ra ngoài, nơi vợ ông đang nhóm bếp lửa than, đứa con không
rời nửa bước, bám vào áo mẹ, vợ ông nói thật nhỏ điều gì đó để ông
khỏi nghe.
Thế
rồi, một ngày hè, lúc giữa trưa, mấy đứa trẻ con chạy đến gọi Tôn Phúc, báo tin
con trai ông chết đuối ngoài ao cạnh nhà. Vậy là, ngay lúc giữa trưa một ngày
hè, Tôn Phúc hối hả lao ra như một kẻ điên. Sau lưng ông, người vợ nước mắt đầm
đìa gào lên thảm thiết. Cả hai ý thức được rằng thế là mình mãi mãi mất đi đứa
con. Đêm
về, trong bóng tối ngột ngạt, họ lặng lẽ ngồi nhìn nhau, thổn thức.
Dần
dà họ cũng bình tâm trở lại, với cuộc sống tĩnh lặng như trước đây. Năm tháng
trôi qua nhanh. Một ngày mùa đông, một anh thợ hớt tóc dạo đi ngang qua nhà, vợ
Tôn Phúc bước ra, ngồi lên chiếc ghế anh ta mang đến, dưới ánh nắng, khẽ nhắm
mắt khi anh ta cắt tóc, gội đầu, và cả ráy tai, cuối cùng bà còn để anh ta xoa
bóp vai và cánh tay. Chưa bao giờ bà cảm thấy sảng khoái đến như thế, tưởng
chừng như sắp buông thả. Và thế là, lúc đêm về, bà gói quần áo bỏ Tôn Phúc đi
theo anh thợ hớt tóc.
Tôn
Phúc còn lại một mình, cả cuộc đời nay gom lại trong tấm ảnh đen trắng
đã ngả màu vàng treo trên tường, với chân dung vợ, con và
chính ông. Ngay giữa là hình đứa con đội chiếc mũ vải bông to quá khổ. Bên trái
là vợ ông với hai bím tóc chảy dài trên vai, mỉm cười vẻ mãn nguyện. Còn ông,
phía bên phải, khuôn mặt trẻ trung, tràn đầy sức sống.
THÂN TRỌNG SƠN
Dịch
theo bản tiếng Pháp của Brigitte Duzan
(
Nguồn : www.chinest-shortstories.com )