Water,
water, everywhere,
Nor any drop to drink
Nước, nước, khắp nơi,
Không có giọt nước uống
[Samuel Taylor Coleridge 1772-1834]
Nor any drop to drink
Nước, nước, khắp nơi,
Không có giọt nước uống
[Samuel Taylor Coleridge 1772-1834]
Gửi
20 triệu cư dân ĐBSCL
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
NGÔ
THẾ VINH
HẠN MẶN VÀ Ô NHIỄM 13 TỈNH MIỀN TÂY
Trên
một chuyến phà lớn từ Đại Ngãi qua Cù lao Dung, sóng đánh tung tóe, khách như
cảm thấy được vị mặn bám đọng trên môi. Thấy nước khắp nơi nhưng là nước mặn đã
xâm nhập vào khắp các ngả sông rạch và người dân thì đang lao đao lùng kiếm tìm
mua từng lu nước ngọt để uống. Rồi còn phải kể tới những cánh đồng lúa cháy và
các vườn cây trái thối rễ do đất bị nhiễm mặn khiến nhiều nông gia mất trắng
tay.
Người
bạn đồng hành đứng bên, anh dạy Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên Đại
học Cần Thơ, nói với tôi: “Kể cả có lũ ngọt đổ về, nước hết mặn cũng không uống
được vì dòng sông quá ô nhiễm”. Do chất thải kỹ nghệ từ các nhà máy ven sông,
do phân bón hóa học từ đồng ruộng tràn ra, và tệ hại hơn nữa là rác rưởi từ các
khu gia cư.
Đó là tình cảnh của ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL, phải sống chung với những dòng sông ô nhiễm, và nay họ đang nhận thêm được những tín hiệu báo nguy về hạn mặn sẽ trầm trọng hơn năm 2016 và tới sớm hơn ngay từ hai tháng đầu năm 2020. Do đó, cho dù có thấy “nước, nước, khắp mọi nơi, vậy mà không có giọt nào để uống”. Cho dù ĐBSCL vẫn là nơi nhận nguồn nước cao nhất Việt Nam tính theo dân số. Tuy nước vây bủa xung quanh nhưng là nước bẩn hay nước mặn. Thách đố lớn nhất là làm sao thanh lọc được nguồn nước tạp ấy để có nước sạch đưa vào sử dụng.
Đó là tình cảnh của ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL, phải sống chung với những dòng sông ô nhiễm, và nay họ đang nhận thêm được những tín hiệu báo nguy về hạn mặn sẽ trầm trọng hơn năm 2016 và tới sớm hơn ngay từ hai tháng đầu năm 2020. Do đó, cho dù có thấy “nước, nước, khắp mọi nơi, vậy mà không có giọt nào để uống”. Cho dù ĐBSCL vẫn là nơi nhận nguồn nước cao nhất Việt Nam tính theo dân số. Tuy nước vây bủa xung quanh nhưng là nước bẩn hay nước mặn. Thách đố lớn nhất là làm sao thanh lọc được nguồn nước tạp ấy để có nước sạch đưa vào sử dụng.
Với
tầm nhìn qua lăng kính vệ tinh và biến đổi khí hậu, vùng châu thổ Mekong là
hình ảnh khúc phim quay chậm / slow motion của một con tàu đang đắm. Một cái chết
rất chậm nhưng chắc chắn của một dòng sông Mekong dũng mãnh – lớn thứ 11 trên
thế giới với hệ sinh thái phong phú chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon và cả
một vùng châu thổ ĐBSCL đang từ từ bị nhấn chìm.
NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI 2020
Không
thể tách rời vấn đề Nước và Biến đổi Khí hậu toàn cầu. Đó
cũng là quan điểm của Liên Hiệp Quốc, khi chọn chủ đề “Nước và Biến đổi Khí
hậu” cho Ngày Nước Thế giới 22/ 03/ 2020 năm nay.
Trước
những tình huống cực đoan và biến đổi bất thường về khí hậu có thể làm gia tăng
biến thiên chu kỳ nước – water cycle, khiến rất khó mà tiên đoán được về
nguồn nước có thể sử dụng – water availability, với những ảnh hưởng trên
phẩm chất nước, cả trên tính đa dạng sinh học / biodiversity, và đe dọa sự phát
triển bền vững trên nhiều lưu vực của các con sông.
Dân
số toàn cầu từ 7,2 tỷ năm 2015 đến nay 2020 – theo số liệu của Liên Hiệp Quốc,
đã vượt qua con số 7,7 tỷ người. Tăng dân số cũng có nghĩa là gia tăng nhu cầu
nước, kéo theo gia tăng nhu cầu năng lượng để bơm nước, vận chuyển và xử
lý nước – water treatment. Tận dụng nguồn nước cũng dẫn tới sự suy thoái các hồ
chứa carbon thiên nhiên – carbon sinks từ các vùng đất đầm lầy.
Tăng
cường mối quan tâm về nước để đáp ứng nhu cầu nước ngày một gia tăng trong
tương lai; điều ấy đòi hỏi phải có những quyết định mạnh mẽ, làm cách nào để
phân chia các nguồn tài nguyên nước – allocate water resources, thích
nghi với biến đổi khí hậu giữa những tranh chấp sử dụng nguồn nước giữa các địa
phương và các quốc gia.
Một
ví dụ điển hình: con sông Mekong dài hơn 4800 km chảy qua 7 quốc gia [Tây
Tạng*, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam] giữa mùa khô
hạn, đang bị tận lực khai thác bởi chuỗi những con đập thủy điện thượng nguồn,
và làm cách nào để chia sẻ và sử dụng công bằng nguồn nước từ con sông Mekong
đang là một “tranh chấp nóng” diễn ra hiện nay. Khi mà Cambodia và Việt
Nam là hai quốc gia cuối nguồn đang chịu những hậu quả tích lũy nặng nề nhất:
một Biển Hồ như trái tim của Cambodia đang thiếu nước, một ĐBSCL chịu hạn mặn
chưa bao giờ khốc liệt như thế. Chưa kể tới khả năng nước lớn Trung Quốc sử
dụng con sông Lancang-Mekong như một thứ vũ khí trong cuộc chiến tranh môi
sinh – ecological warfare trừng phạt Việt Nam và các nước hạ lưu
khác.
[*
Tây Tạng nơi phát nguồn con sông Mekong, về phương diện địa dư chính trị, bấy
lâu người viết vẫn ghi nhận như một quốc gia cho dù đang bị Trung Quốc xâm
chiếm.]
Chính
sách đối phó với biến đổi khí hậu không chỉ trên quy mô quốc gia mà cho toàn
lưu vực với mọi hoạch định cần theo một phương cách tích hợp – integrated
approach, đối với nhu cầu sử dụng và quản lý nguồn nước.
Để
phát triển và xây dựng một tương lai bền vững, cách làm ăn cũ bấy lâu với những
quy hoạch thủy lợi không hiệu quả; do đó từ nay mọi phương cách quản lý nước
cần được phân tích kỹ lưỡng qua lăng kính biến đổi khí hậu – through a
climate change lens. Chúng ta cần đầu tư nhiều hơn nữa để cải tiến và cập
nhật những dữ liệu thủy học – hydrological data, qua các học viện, qua các
chính phủ, qua giáo dục, cùng nhau chia sẻ mọi kiến thức, để có được khả năng
tiên lượng và đối phó với những rủi ro khan hiếm nước như hiện nay và chắc chắn
sẽ trầm trọng hơn nhiều trong tương lai.
Mọi
chính sách cần bảo đảm tính đại diện rộng rãi các thành phần tham gia, với thay
đổi tác phong ứng xử, tạo được sự tin cậy giữa nhà nước, các tổ chức xã hội dân
sự và lãnh vực tư nhân.
Những
kế hoạch thích ứng cần có chiến lược nêu rõ mục tiêu – targeted strategies, ưu
tiên trợ giúp các cộng đồng cư dân lợi tức thấp – họ là nhóm người chịu tác
động, dễ bị tổn thương và thiệt hại nhiều nhất do ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu. (1)
GIỚI THIỆU DRAGON MEKONG
DRAGON
là chữ viết tắt của Delta* Research And Global Observation
Network / Mạng lưới Nghiên cứu Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu.
DRAGON nhằm mục đích thiết lập một hệ thống thông tin toàn cầu, tăng cường quan
hệ hợp tác và cùng chia sẻ kinh nghiệm lâu dài giữa các vùng châu thổ trên thế
giới.
[Ghi
chú: Delta* thay vì quen gọi là đồng bằng, nay được gọi là châu thổ do được
hình thành từ phù sa của các con sông bồi đắp.]
Ủy
ban Liên Chính Phủ về Biến đổi Khí hậu / Intergovernmental
Panel on Climate Change (IPCC) do Tổ chức Khí tượng Thế giới (World
Meteorological) và Chương trình Môi sinh Liên Hiệp Quốc (United Nations
Environment Programme), bao gồm 195 quốc gia thành viên. Theo IPCC hiện có
khoảng 300 triệu cư dân sống trong 40 vùng châu thổ / Deltas trên toàn cầu. Các
vùng châu thổ là nơi được phù sa các con sông bồi đắp và IPCC đã đưa ra nhận
định: “Những vùng châu thổ đó rất dễ bị tổn thương do tác động của biến đổi
khí hậu, do nước biển dâng, do biến đổi dòng chảy, đồng thời với những chấn
động qua quá trình sử dụng đất đai, do chính con người gây ra trong lưu vực /
catchment area.”
Từ
năm 2007, IPCC đưa ra cảnh báo thêm: 13 vùng châu thổ lớn trên thế giới sẽ
bị ảnh hưởng do hậu quả của Biến đổi Khí hậu và nước biển dâng, trong đó có hai
vùng châu thổ sông Mekong Việt Nam và châu thổ sông Mississippi Hoa Kỳ
được xếp là vùng dễ bị tổn thương ở mức độ rất cao.
Do
tính tương đồng và tầm quan trọng về an ninh lương thực, kinh tế, xã hội và văn
hóa của hai vùng châu thổ Mekong và Mississippi, ngày 21 tháng 11 năm 2008, Đại
học Cần Thơ kết hợp với Cơ Quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ – US Geographical
Survey (USGS) và Trung tâm nghiên cứu Đất ngập nước quốc gia – National
Wetlands Research Center Hoa Kỳ (NWRC) đã tổ chức lễ thành lập Viện
Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Mekong với tên viết tắt tiếng Anh là DRAGON
Institute Mekong, thuộc Mạng DRAGON toàn cầu, có cơ sở tại Đại học
Cần Thơ, ĐBSCL. (4)
Hình 1_ Logo Viện Nghiên Cứu Biến Đổi Khí Hậu Mekong – Đại
học Cần Thơ. DRAGON là chữ viết tắt của Delta Research And Global
Observation Network – Mạng lưới Nghiên cứu Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu,
được thiết lập từ 2008, đến nay là 12 năm, có thể xem như một Viện Nghiên cứu
của Đại học Cần Thơ. (4)
Hình 2_ Đoàn khảo sát môi sinh ĐBSCL chụp hình trước cơ sở
đầu tiên của Viện Nghiên Cứu Biến đổi Khí hậu / DRAGON – Mekong
Institute, từ trái: TS Dương Văn Ni (Khoa Môi trường và Tài Nguyên Thiên nhiên ĐHCT), TS Lê Phát
Quới (Viện Tài Nguyên Môi Trường ĐHQG Tp. HCM), Ngô Thế Vinh, TS Lê Anh Tuấn
(Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí hậu ĐHCT), KS Phạm Phan Long (Hội Sinh Thái
Việt), Th.S Nguyễn Hữu Thiện (Chuyên gia Đất Ngập nước / Wetlands), BS Nguyễn
Văn Hưng. [tư liệu Ngô Thế Vinh 2017]
Xem
ra, ngoài nét tương đồng giữa 2 vùng: châu thổ Louisiana sông Mississippi –
Vịnh Mexico và châu thổ Mekong sông Mekong – Biển Đông trước ảnh hưởng của biến
đổi khí hậu và nước biển dâng, thì riêng ĐBSCL hiện đang phải đương đầu với
những thử thách khó khăn hơn nhiều. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây sự khác biệt
quan trọng giữa hai dòng sông: (1) Độ dốc thượng nguồn sông Mekong cao hơn gấp
12 lần sông Mississippi, nên có một tiềm năng thủy điện vô cùng hấp dẫn mà sông
Mississippi không có được; (2) Với 40 con đập cũ trên sông Mississippi phần lớn
được xây từ thập niên 1930, không sao có thể sánh được với chuỗi đập khổng lồ
trên sông Lancang-Mekong Vân Nam và các con đập dòng chính ở Lào; (3)
Sông Mississippi chỉ chảy trong lãnh thổ Hoa Kỳ, trong khi sông Mekong chảy qua
7 quốc gia: Tây Tạng, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam
với những mâu thuẫn về quyền lợi rất gay gắt. (3)
Hình 3_ Hình chụp cơ sở mới của DRAGON Mekong Institute,
với các thành viên tham dự Khóa Tập huấn Báo chí về “Biến đổi Khí hậu và
Năng lượng Bền vững” tổ chức từ ngày 22 tới 24 tháng 8, 2019, trong Dự
án Mạng lưới Báo chí Địa cầu / Earth Journalism Network. [nguồn:
CRUS.Vietnam, Aug 2019]
DRAGON
Institute-Mekong-CTU sẽ là điểm nối kết các hoạt động nghiên cứu, giáo dục và
chuyển giao kiến thức khoa học đến các nhà lãnh đạo, quản lý và cộng đồng các
cấp từ địa phương, quốc gia tới các vùng châu thổ khác trên thế giới nhằm mục
đích nâng cao năng lực thích nghi của cư dân đối với thiên tai; phát triển bền
vững kinh tế và xã hội, đồng thời bảo tồn các hệ sinh thái thiên nhiên.
Từ
khi được thành lập, Viện Biến đổi Khí hậu DRAGON-Mekong đã được nhiều tổ chức
trong và ngoài nước đến trao đổi, đề xuất các hướng hợp tác. Với vai trò là một
trung tâm dẫn đầu của ĐBSCL, Đại học Cần Thơ và Viện DRAGON-Mekong đang có các
bước đi tiên phong trong nghiên cứu các vấn đề liên quan tới Biến đổi Khí hậu
với một kế hoạch hành động trước mặt và lâu dài. (4)
DỰ BÁO MEKONG / FORECAST MEKONG
Qua
Sáng kiến Hạ lưu Sông Mekong – Lower Mekong Initiative 2020 được
khởi xướng từ 2009 do ngoại trưởng Mỹ Hillary Rodham Clinton cùng với các ngoại
trưởng 4 quốc gia Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam nhằm tăng cường cam kết
của Mỹ đối với các quốc gia hạ lưu sông Mekong trong các lãnh vực môi trường, y
tế, giáo dục và hạ tầng cơ sở.
Cơ
quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS chuyên nghiên cứu các vùng châu thổ, đã liên
kết / partnership với Viện DRAGON – Mạng lưới Nghiên cứu Đồng bằng
Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu áp dụng kinh nghiệm từ sông Mississippi với
chuyên môn về Mô hình Khoa học-Trái đất [Earth-science
modeling] sẽ hỗ trợ cho các quốc gia Mekong phương cách lượng giá biến đổi
khí hậu và hoạt động của con người có thể ảnh hưởng trên hệ sinh thái và an
ninh lương thực trong lưu vực sông Mekong.
KHÓA TẬP HUẤN DỰ BÁO MEKONG
Trong
ba ngày 9-10-11 tháng 12 năm 2009 cùng với viện DRAGON Đại học Cần Thơ, Việt
Nam, Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS và Bộ Ngoại Giao Mỹ, đã cùng bảo trợ
cho một khóa tập huấn / workshop nhan đề: “Tìm hiểu mối hiểm nguy / risk
và đặc tính dễ tổn thương/ Khí hậu và cách quản lý dòng của các
hệ sinh thái nước ngập / Wetlands Ecosystems nơi hai vùng châu thổ Mekong và
Mississippi do Biến đổi Khí hậu và Nước biển dâng.”
Hình 4_ Cho dù cách
nhau 12 múi giờ, hai vùng châu thổ Mekong (trái) và Mississippi (phải), có
những điểm tương đồng về sinh cảnh môi trường, kinh tế xã hội và văn hóa.
[Mô hình chụp từ vệ tinh của Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS ] (2)
Chương trình Dự báo Mekong được USGS thực hiện, không chỉ với ĐH Cần Thơ mà là
một kết hợp mở rộng với các chính phủ địa phương và các Đại học trong lưu vực
sông Mekong.
Khóa
tập huấn quy tụ được hơn 75 thành viên tham dự, đã cùng xác định những thiếu
sót về thông tin liên hệ tới vùng châu thổ Mekong / ĐBSCL và Biến đổi Khí hậu.
Những thành viên tham dự bao gồm các nhà khoa học, các viên chức chính phủ từ
các quốc gia Cambodia, Lào, Việt Nam, Thái Lan và cả Trung Quốc; đại diện Bộ
Ngoại giao Mỹ và các tổ chức NGOs phi chính phủ và dĩ nhiên với các chuyên gia
USGS. Nhiều vấn đề khoa học quan trọng được đặt ra, bao gồm phẩm chất nước,
lượng phù sa / sedimentation, những ảnh hưởng của các đập thủy điện trên sự đa
dạng sinh học / biodiversity, an ninh lương thực, sự thích nghi với biến đổi
khí hậu qua thời gian và mức nghiêm trọng của các mùa lũ lụt / seasonal floods,
và ảnh hưởng trên sản lượng cá.
Những
bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học
trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật để tạo thuận các bước
thu thập phân tích và tích hợp dữ kiện / data analysis & integration, theo
dõi môi trường / environmental monitoring, với các dụng cụ biểu đồ khoa học
/ science-visualization tools. Các thành viên tham dự cũng đã xác định nhu
cầu được huấn luyện và chuyển giao kỹ thuật, cùng với ước muốn thiết lập mối
quan hệ hợp tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.
Dự
án Dự Báo Mekong / The Forecast Mekong project cũng
sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối
liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc
nghiên cứu chung.
DRAGON
đã xây dựng được một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài
nguyên nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông
thế giới. Những cuộc nghiên cứu đối chiếu / comparative studies là cần
thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự
án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thủy học và những ảnh hưởng khác do
con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và dễ bị tổn thương.
Bằng
triển khai những mô hình đối chiếu / comparative models và với các dụng
cụ biểu đồ / visualization tools, mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp
thông tin cho những quyết định chính sách công / public policy decisions có ảnh
hưởng tới hệ sinh thái và các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu
thổ.
Cơ
quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ [USGS] đem tới những hiểu biết khoa học rộng rãi từ
châu thổ sông Mississippi tới một vùng châu thổ tương đồng, cách xa nửa vòng
trái đất đó là châu thổ sông Mekong [ĐBSCL].
Khóa
tập huấn này là một phần của dự án có tên “Dự báo Mekong – Forecast Mekong,”
một kết hợp dữ kiện hỗ tương, tạo mô hình / modeling, và hệ
thống biểu đồ / visualization system nhằm giúp các nhà hoạch định chính
sách / policy makers, các nhà quản lý tài nguyên / resources managers, và công
chúng am hiểu và tiên liệu được các tác động do biến đổi khí hậu và triển khai
những dự án trong lưu vực sông Mekong. (2)
Chương
trình này được thực hiện bởi USGS kết hợp với các chính phủ địa phương và các
Đại học trong lưu vực Mekong, Chương trình Dự Báo Mekong / Mekong Forecast
sẽ cung cấp một dụng cụ rất giá trị để nhận rõ những hậu quả của Biến đổi Khí
hậu và cách quản lý dòng sông / river management.
Những
bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học
trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật / technical expertise
để tạo thuận các bước phân tích và tích hợp dữ kiện / data analysis &
integration, hướng dẫn theo dõi môi trường / environmental monitoring, với
những dụng cụ biểu đồ khoa học / science-visualization tools. Các thành
viên tham dự cũng đã xác định nhu cầu được huấn luyện / training và chuyển giao
kỹ thuật / technological transfer, cùng với ước muốn thiết lập mối quan hệ hợp
tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.
Dự
án Dự Báo Mekong / The Forecast Mekong project cũng
sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối
liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc
nghiên cứu chung và chia sẻ các dữ kiện / data sharing.
Hình 5_ Một ĐBSCL đã và đang bị tổn thương do những nguyên
nhân: (1) do các con đập thượng nguồn, (2) do nạo vét cát dưới lòng sông, (3)
do nước biển dâng, (4) do ô nhiễm sông rạch, (5) còn phải kể tới những dự án
sai lầm ngăn mặn phá hủy sự cân bằng hệ sinh thái mong manh của vùng châu thổ
sông Mekong. Tính tới 2020, đã có 11 con đập dòng chính khổng lồ của Trung Quốc
trên khúc sông Lancang-Mekong thượng nguồn; có thêm 2 con đập dòng chính của
Lào (Xayaburi và Don Sahong) đã hoạt động từ 2019. Dự án Luang Prabang 1460 MW,
sẽ là con đập dòng chính lớn nhất trên sông Mekong của Lào và điều rất nghịch
lý là do Việt Nam làm chủ đầu tư, dự trù có thể được khởi công sớm trong năm
nay. [International River 2004, do Ngô Thế Vinh cập nhật 2020].
Một
ví dụ điển hình, USGS với kinh nghiệm về Trận Bão nhiệt đới Katrina 2005 của
thế kỷ trên vùng châu thổ Mississippi với tổn thất 1800 nhân mạng, đã để
lại những hậu quả tàn phá lớn nhất trong lịch sử thiên tai của Hoa Kỳ thiệt hại
vật chất lên tới 125 tỷ USD, đã cho thấy nhu cầu cấp thiết chia sẻ thông
tin và các dữ kiện với các vùng châu thổ trên toàn cầu.
DRAGON
đã tạo ra một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài nguyên
nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông thế
giới. Những cuộc nghiên cứu đối chiếu comparative studies là cần
thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự
án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thủy học và những ảnh hưởng khác do
con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và rất dễ bị tổn thương.
Bằng
triển khai những mô hình đối chiếu / comparative models cùng với các dụng cụ
biểu đồ / visualization tools, mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp thông
tin cho những hoạch định chính sách / public policy decisions có ảnh hưởng tới
hệ sinh thái và các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu thổ trên
hành tinh này.
Hình 6_ĐBSCL với những cánh đồng bị khô nứt – sa mạc
hóa / desertification, do trận hạn hán khốc liệt năm 2016. (trên) [VN
Express 3/11/2016]; Dự báo Mekong: trận hạn hán và nhiễm mặn 2020 sẽ trầm trọng
hơn năm 2016. Mekong Delta barbecue / ĐBSCL bị nướng do khô hạn. (dưới)
[tranh biếm họa của Babui, tặng Ngô Thế Vinh]
NƯỚC QUANH TA: GIẢI PHÁP DO THÁI
Khan
hiếm nước là một thực trạng đang diễn ra ở những mức độ khác nhau trên toàn
hành tinh này. Từ tiểu bang Vàng California giàu có tới các nước nghèo khó của
lục địa Phi châu. Khủng hoảng thiếu nước sạch nơi châu thổ Mekong cũng nằm
trong bối cảnh toàn cầu ấy.Đất lún, mặt bằng châu thổ Mekong thấp hơn mặt biển,
có bài học từ một đất nước Hòa Lan Vùng Đất Thấp vẫn cứ tồn tại và phát triển
qua nhiều thế kỷ.Thiếu nước ngọt: nước uống và nước tưới cho hoa màu, có bài
học từ một đất nước Do Thái mọc lên giữa sa mạc với đủ loại hoa màu xanh
tươi.Nước được khai thác từ nhiều nguồn, (1) từ giếng tới tầng nước ngầm, (2)
từ nước biển khử mặn, (3) từ nguồn nước thải được thanh lọc tái sinh, (4) chiết
xuất nước từ độ ẩm trong không khí…Ưu tiên giải quyết vấn đề nước là một quốc
sách của Do Thái ngay từ ngày lập quốc. Bằng trí tuệ sáng tạo và khoa học kỹ
thuật từ một sa mạc khô hạn, ngày nay Do Thái đã có đủ nước cho mọi nhu
cầu gia dụng, canh nông và kỹ nghệ. Nhưng trên hết, vẫn là ý thức tiết kiệm
nước của toàn dân – được giáo dục ngay từ bậc tiểu học qua mọi cấp trong mọi
lãnh vực sinh hoạt.Không chỉ như vậy, họ còn biết sử dụng tối ưu các nguồn nước
có được, tới mức còn dư nước viện trợ cho các quốc gia láng giềng thù nghịch và
cả chuyển giao kỹ thuật giải quyết vấn đề thiếu nước ra thế giới như một quyền
lực mềm trong ngoại giao. Kinh nghiệm Do Thái đã giúp nhiều quốc gia, trong đó
có Trung Quốc, kể cả quốc gia tiên tiến như Mỹ để giải quyết vấn nạn thiếu
nước.
Hình 7_ Nông gia Do Thái đã tiết kiệm được rất
nhiều nước trong canh tác; một ví dụ nhỏ, bằng cách tưới nhỏ giọt / drip
irrigation thay cho kỹ thuật tưới cổ điển tưới bằng vòi phun hay nước ngập
đồng. Tưới ngay gốc giảm được lượng nước bốc hơi, cây lớn mạnh hơn và năng suất
cũng cao hơn, thêm vào đó cách bón cây nhỏ giọt còn tránh được lượng nitrogen
tràn vào các nguồn nước và cả giảm thiểu được lượng hóa chất trên vùng canh
tác. [Let There Be Water. Seth M. Siegel 2017] (9)
ĐBSCL SẼ VẪN MÃI XANH TƯƠI
Rừng
vàng biển bạc đất phì nhiêu, câu thuộc nằm lòng ấy đã có từ một
nền giáo dục Quốc văn Giáo khoa thư từ buổi thiếu thời qua nhiều thế hệ. Và nay
thì thực sự không còn nữa và cũng đừng tiếp tục gieo vào đầu óc trẻ thơ câu
châm ngôn lỗi thời ấy.Kể từ sau 1975, những khu rừng nguyên sinh bị tàn phá.
Biển bị đầu độc không còn cá. Đất bị sa mạc hóa và xói mòn. Mọi nguồn tài
nguyên bị tận lực khai thác tới cạn kiệt. Cho đến cả một ngụm nước sạch
để uống và một bầu không khí trong lành để thở rồi cũng trở thành điều mơ ước.
Những điều cơ bản ấy cũng chính là quyền con người / human rights.
Với
những công trình phát triển tự hủy, và sắp tới đây, con đập thủy điện
Luang Prabang lớn nhất của Lào do Việt Nam đầu tư, rõ ràng Việt Nam đang
chọn những bước đi liều lĩnh trên những tảng băng mỏng – walks on thin ice,
với tiêu chuẩn nước đôi – double standards, và cũng từ nay Việt Nam sẽ
chẳng thể còn một tiếng nói chính nghĩa và thuyết phục nào đối với cộng đồng 70
triệu cư dân sống trong lưu vực sông Mekong và trước cả thế giới.
Với
tầm nhìn của thiên niên kỷ thứ ba, duy trì từng hệ sinh thái phong phú của hành
tinh này cũng là bảo vệ một nền văn minh rất đa dạng và lâu đời của con sông
Mekong, mà không có mối lợi lộc ngắn hạn nào có thể vội vàng đem ra đánh đổi.
Và cũng đã hơn một lần, trong hơn hai thập niên qua, người viết luôn luôn nhắc
tới một vấn đề rất cốt lõi: “Môi sinh và Dân chủ” sẽ mãi mãi là bộ đôi không
thể tách rời / Inseparable Duo.
THAY CHO LỜI KẾT
Nhân
Ngày Nước Thế Giới 22 tháng 3 năm nay 2020, với chủ đề “Nước và Biến đổi Khí
hậu”, trước tình cảnh một ĐBSCL đang ngày một suy thoái, người viết gửi tới các
bạn trẻ cùng với 20 triệu cư dân 13 tỉnh Miền Tây trích dẫn câu nói của Oded
Distel, một chuyên gia về nước của Do Thái: “Không có kỹ nghệ không gian các
quốc gia vẫn sống được, nhưng không thể sống nếu không có nước”. (9)
Nước theo cái nghĩa là “nguồn nước sạch” có thể sử dụng được. Oded
Distel muốn nhấn mạnh tới sự chọn lựa đâu là bước ưu tiên trong phát
triển.
NGÔ
THẾ VINH
California 21.02.2020
[Miền Tây, Cù Lao Dung 2017]
California 21.02.2020
[Miền Tây, Cù Lao Dung 2017]
THAM KHẢO:
1/ UN-Water Policy Brief on Climate Change and Water, 12 July 2019
https://www.unwater.org/publications/un-water-policy-brief-on-climate-change-and-water/
2/ A Different Delta Force – USGS and U.S. Department of State Assist in the Mekong Delta, By Gabrielle B. Bodin, March 2010 [revised Feb. 2013]
3/ The Mekong and Mississippi Sister-River Partnership, Similarities and Differences. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 01.15.2011
4/ Research Institute for Climate Change (DRAGON institute – Mekong)
https://dragon.ctu.edu.vn/
5/ Thăm Khu Nhà Máy Xử lý Nước Thải và Hệ thống Bổ sung Tầng Nước Ngầm tại Quận Cam. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 23.03 – 24.07.2017
6/ From A Mekong Delta Threatened by Salinization to the Carlsbad Desalination Plant. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 01.2020
7/Promising way to make fresh water for family use, 1.5 gallons per hour for each square meter of solar collecting area.
http://news.mit.edu/2020/passive-solar-powered-water-desalination-0207
8/ Creating Drinking Water from Air. Watergen Technology from Israel.
https://www.watergen.com
9/ Let There Be Water. Israel’s Solution for a Water-Starved World. Seth M. Siegel. Thomas Dunne Books. An imprint of St. Martin’s Press 2017.