Trịnh Y Thư
DU TỬ LÊ,
CON NGƯỜI CÔ ĐƠN
Chân
dung Du Tử Lê
sơn
dầu trên giấy 18 x 20 in , đinhcường
Sinh sống trong cùng một khu vực, quanh
quẩn gồm chỉ mươi dãy phố xúm xít hàng quán và chợ búa người Việt nên tôi hay gặp
ông ngồi quán với những bằng hữu văn nghệ của ông. Cũng có khi tôi thấy ông ngồi
một mình. Những lần gặp gỡ, tôi lại bắt tay từng người, ngồi nói dăm ba câu
chuyện vãn rồi kiếu từ. Ông ít nói, chỉ hay cười, nụ cười rạng rỡ, lành, và khi
cười thì khuôn mặt hơi đen sạm nhiều vết nhăn ấy bỗng nhiên như sáng hẳn lên,
kéo theo đôi mắt cũng cười. Mặc dù biết tiếng ông và đọc thơ văn ông nhiều, từ
thời còn là thanh niên, nhưng tôi chỉ thật sự thân thiết với ông quãng một năm
trước ngày ông đột ngột ra đi, chính xác hơn là từ lúc tôi nhận in cho ông tập
thơ em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình.
(Hóa ra đó là thi phẩm cuối cùng của ông.)
Tôi để ý, tuy có nhiều bằng hữu xung quanh, nhưng trông ông lúc nào cũng
như xa vắng, cô đơn.
Tôi biết tiếng ông từ lúc ông làm tờ Quê
Hương tại vùng OC, thời gian cuối thập niên 70, khi cuộc sống tha hương vẫn
chưa thật sự ổn định, và sau đó là tờ Tay
Phải cùng quán cà phê Tay Trái.
(Tay phải viết, còn tay trái pha cà phê kiếm tiền nuôi tay phải.) Ông năng nổ,
quán xuyến một lúc nhiều việc. Ông có tài ăn nói trước công chúng, trí thức
nhưng ấm áp, rành mạch, trôi chảy, vừa phải, nên được đám đông mến mộ. Thời
gian gần đây, sức khỏe suy kém nhiều, nhưng ông vẫn nhiệt tình đi tham dự những
sinh hoạt văn hóa, văn nghệ. Triển lãm tranh họa sĩ Nguyễn
Đình Thuần, triển lãm tranh họa sĩ Trịnh Cung, đêm nhạc Trần Dạ Từ, ra mắt tập
thơ của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, v.v… lúc nào cũng thấy ông thân ái chia
sẻ điều gì đó với bằng hữu và mọi người xung quanh bằng những phát biểu ngắn gọn,
hàm súc; và với giọng nói tuy không sang sảng nhưng chắc, ấm, tiếng ông vừa cất
lên thì đám khách ồn ào thích đùa cợt vui nhộn giữa đám đông bên dưới phải hãm
bớt thanh quản mình, nghe ông nói.
Ông cũng đi nhiều, khắp nơi có cộng đồng người Việt, ra mắt sách, gặp gỡ
bằng hữu, tiệc tùng, cà phê, không ngớt. Bản tính ôn nhu, hòa hoãn, ân cần, điềm
đạm của ông làm người đối diện thấy thoải mái, dễ chịu khi tiếp xúc. Dạo sau
này, vì có sách xuất bản và tái bản ở Việt Nam, nên ông cũng hay về thăm, kết
thân với nhiều văn nghệ sĩ, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc.
Một người như vậy, làm sao có thể gọi là “cô đơn” được?
Từ lâu tôi tin rằng kẻ viết văn, làm
thơ là kẻ bị chứng psychosis nhũng
nhiễu, hắn sống trong thế giới tưởng tượng của riêng hắn, một thế giới chỉ hắn
chứ không ai khác có thể nhận thức. Kỳ thực, hắn sống cùng lúc hai thế giới.
Nơi thế giới ngoại tại có thể hắn là người không cô độc, nhưng bên trong thế giới
nội tại của riêng hắn, hắn là kẻ cực kỳ cô đơn.
Đây là một nghịch lý của văn chương. Viết là giao cảm với kẻ khác, với
ngoại cảnh, nhưng viết cũng là đối diện với cái cô đơn cùng cực, khiếp hãi của
chính mình. Vì cô đơn nên mới viết, và viết để “giao hòa” với thế giới bên
ngoài; có nghĩa là, bạn phải “cách ly” mình ra khỏi thế giới để trong tương lai
“hội nhập” vào nó qua một tương tác kỳ bí, kỳ diệu nào đó. Biện chứng của cô
đơn được nhà thơ Octavio Paz gói ghém trong câu nói “… Con người là hữu thể duy
nhất biết mình cô đơn, và chỉ con người mới đi tìm con người khác,” in trong cuốn
tiểu luận danh tiếng The Labyrinth of
Solitude.
Tôi nghĩ ông là người như thế.
Trọn đời ông sống trọn tình trọn nghĩa với chữ nghĩa của mình. Với ông,
chữ nghĩa là tất cả. Câu nói cuối cùng ông phát biểu trước mặt bằng hữu văn nghệ
hôm 5/10/2019 tại quán café Hạt Ngò (vỏn vẹn hai ngày trước khi ông qua đời),
tôi nhớ mãi, “… Chữ nghĩa là nhan sắc của
thơ…” Câu nói tuy đơn giản nhưng đầy hàm lượng, nó tóm gọn chủ đích và ý
nghĩa tinh tuyền nhất cho toàn bộ sự nghiệp thi ca đồ sộ của ông. Thơ vì chữ
nghĩa, chữ nghĩa vì thơ. Và, lúc cô đơn nhất, chỉ có “chữ nghĩa làm nhan sắc
thơ,” tuyệt đối không một thứ gì khác xen vào, là những giây phút hạnh phúc nhất
của ông.
Tôi nghĩ ông là kẻ biết tìm hạnh phúc. Tìm cho đến hơi thở cuối cùng cuộc
đời mình.
Vì thời gian quen biết quá ít ỏi nên
tôi không có nhiều kỷ niệm đáng nhớ với ông. Tuy vậy, ông cũng tặng tôi một bài
thơ và viết một bài nhận định khá dài về tập thơ của tôi xuất bản năm 2017.
(Ông là một trường hợp hiếm hoi của văn chương Việt Nam, nguồn lửa sáng tạo vẫn
sung mãn ở tuổi xế bóng, và ngòi bút không ngừng tuôn ra những câu chữ diệu kỳ.)
Một lần tôi đưa ông về nhà sau buổi cà phê sáng, xuống xe, thay vì bước
vào nhà, ông giữ tôi lại đứng trước cánh cổng sắt dềnh dàng chắn ngang khoảng
sân rộng, trời đang vào xuân, lá non hớn hở trên cành, nói chuyện khá lâu.
Nói lan man nhiều chuyện, nhiều đề tài, văn chương cũng như phi văn
chương. Về con người nghệ sĩ, ông bảo tôi xã hội có nới lỏng đường biên cho người
nghệ sĩ, ưu đãi hắn hơn mức bình thường, cho phép hắn làm một số những điều bị
xem là ta-bu, nhưng nếu hắn buông thả dây cương giẫm qua đường biên đã nới lỏng
ấy, làm nhiều điều xằng bậy thì chính hắn sẽ tự đào hố chôn vùi tên tuổi hắn.
Tôi nghĩ ông thật chí tình khi nói những điều này.
Không ngờ đó là lần nói chuyện thân mật, tương đắc duy nhất giữa ông và
tôi.
TRỊNH Y THƯ
– Trích Người về như bụi, Tuyển tập Tưởng niệm Thi sĩ Du Tử Lê.
|