Tôi trở
về ngôi nhà của gia đình sau hơn hai mươi năm xa cách. Ngôi nhà chừng như không
thay đổi mấy ở mặt tiền. Vẫn ba gian tường quét vôi trắng, điểm một vài khung
cửa khép hờ, một chái bếp ở hiên sau và mảnh sân con vuông vức nơi lối ra vào.
Dấu tích của thời gian chỉ ẩn hiện lờ mờ từng đốm ố trên vách tường cũ, đã ngả
màu cháo lòng và loang lổ đây đó như những vệt mụt nhọt thâm sâu. Ngôi nhà vẫn
giữ được màu ngói đỏ mà Thầy tôi thuê người lợp trước ngày Nhật chiếm Đông
Dương. Vẫn còn nguyên một mảnh ngói mẻ nằm ở hàng ngói thứ mười từ máng xối đếm
lên. Cả lớp rêu xanh rì bám vào bờ tường chạy viền theo bên hông nhà ra đến
chân hàng giậu hoa dâm bụt nơi Thầy tôi đang đứng.
- Kìa
cái Nụ về đấy à? Đi đâu mãi thế? Đến gần Thầy xem, mắt Thầy lòa rồi không nom
rõ...
Lòng
tôi vụt xốn xang, bồi hồi. Cái thời khắc hồi hộp chờ đợi gặp lại người thân sau
bao năm chia cách. Tôi lóng cóng đặt xắc hành lý, hấp tấp bước như chạy vào
trong sân. Tôi muốn ôm choàng lấy thân thể mảnh dẻ của Thầy, nói cho người hiểu
rằng tôi luôn luôn thương kính người. Nhưng ở lúc tôi xúc động nhất, Thầy tôi
bình thản tự nhiên ngồi xuống tấm phản gỗ kê ở gần bên. Hai cánh tay vốn yếu
của người chậm chạp lần tìm mẩu vải nhung nâu, mà từ ngày khôn lớn tôi chưa bao
giờ thấy người rời ra. Người cong cánh tay xanh mướt, khẽ đỡ cặp kính thuốc
xuống lau chùi. Cặp mắt Thầy tôi bỗng dại hẳn đi khi người tháo được đôi kính.
Người ngồi yên như thế ở tấm phản trước mặt tôi, tia nhìn ngây thơ như đứa trẻ,
ngây dại như là người không còn trông thấy gì, kể cả tôi. Như thể cái con người
vừa vồn vã chào mừng tôi trở về nhà tức thời, không phải là thầy. Thầy tôi ngồi
ngơ ngác trong sân, chìm đắm vào một thế giới mà chỉ mình người biết. Người
không thấy cả hòn non bộ quý mà người đặt mua tận bên Tàu, bây giờ vẫn còn đây,
đã cạn nước nằm trơ trẽn phơi xác nơi cuối vườn.
Thầy
tôi im lặng, lâu lâu cúi xuống mải miết với mẩu vải nhung sờn cũ. Những đường
chỉ sợi viền vàng thêu tên họ chữ lót của người đã tả tơi, như mảnh di vật của
một thời phú túc. Người mân mê lau chùi hai tròng kiếng dầy trầy trụa, không
còn nghe thấy bất cứ một âm thanh hay thứ tiếng động nào khác.
Tôi
không rõ Thầy tôi lòa và yếu thần kinh đến mức độ nào, song cái hình ảnh thực
tế đầy đủ từng đường nét, chi tiết cảnh Thầy ngồi thẩn thờ hàng giờ tẩn mẩn sờ
mó mày mò gọng kính thuốc cong queo, tỉ mỉ xếp gấp cái khăn nhung cáu bẩn và
nâng niu cây gậy chống kiểu Tây thuở xưa, cái hình ảnh bệ rạc suy nhược đó rằng
cái Nụ – như người thường gọi tôi bằng cái tên tấm bé – đã ra khỏi cuộc đời
người từ lâu lắm rồi.
Lúc tôi
theo Mợ tôi bước vào nhà, Cố đang nằm trên sập gụ. Vẫn tủ chè Tàu kê nơi góc,
vẫn bàn thờ gia tiên với một nén hương sắp tàn, và mùi hương trầm phảng phất
trong không khí tịch mịch yên lặng vây lấy sập gụ. Cố vẫn nằm đó, thiêm thiếp,
khò khè, như chưa hề dời đi đâu hai mươi năm nay. Mợ tôi mở hé một tấm phên
liếp cho ánh sáng rọi chiếu thêm vào gian buồng. Nghe tiếng động, thân hình Cố
bỗng lúc lắc, cái đầu hình sọ rung rung muốn xoay lại. Cố cũng bị yếu thần
kinh, nhưng khác với Thầy là Cố không lòa. Bàn chân tôi đột ngột chôn xuống nền
đất đã gỡ mất phần gạch lát nơi ngạch cửa, vì trời ơi — đôi mắt Cố mới tóe lửa
dữ dội làm sao khi Cố xoay được đầu đăm đăm nhìn trừng về hướng tôi. Cố giương
cặp mắt lớn quá khổ trên khuôn mặt xọm khô nhão nhoẹt. Đôi con ngươi muốn vỡ ra
ở hai hố mắt đầy tròng trắng, lăn tăn lia tia nhiều gân máu. Ánh mắt nhìn trắng
dã mà hai mươi năm nay tôi trốn tránh, lúc này hiển hiện phừng phừng lửa giận
trong gian nhà. Cố bị bán thân bất toại nên hai chân và nửa người dưới bất
động, song nửa người trên với mười lóng tay co giật cào cấu, chụp bắt liên hồi
vào chiếu giường như muốn dựng dậy cái xác thân đã tàn phế. Một chuỗi âm thanh
không rõ tiếng, líu ríu thoát ra từ lỗ miệng móm méo. Mợ tôi đè mạnh Cố nằm
xuống. Đắp thêm chăn cho người. Bà vuốt vầng trán nhăn nheo của cái thân xác
còn đang co giật như bị động kinh, thì thầm à ơi như ru con. Đứng ở bậc cửa,
tôi thu tiếp trọn vẹn vùng ánh sáng của nắng vàng hoe, loe từ phên cửa, lờ mờ
lớp bụi giăng giăng theo từng chập Mợ tôi phe phẩy quạt mây. Bà dấp dấp khăn
ướt đắp lên mặt Cố, chăm sóc cho cụ bằng những động tác nhẫn nại đến điên
người. Không gian đặc quánh quanh cái sập gụ của Cố bằng gỗ cẩm lai. Thời gian
ngừng hẳn ở bát nước vối Mợ tôi đút từng thìa nhỏ vào giữa cặp môi nhăn nhúm.
Phải lâu lắm Cố mới húp hết bát nước vối. Chờ đến khi Cố nằm yên thiu thiu ngủ,
bà mới đứng lên.
- Chị
đừng chọc Cố, để yên cho cụ ngủ. Cụ bị liệt không đi đứng được nên thường hay
lên cơn uất. Thôi chị vào buồng trong thay áo, để tôi làm việc. Tỵ nữa họ hàng
có ghé, tôi sẽ bảo chị ra chào.
Mợ chỉ
chuyện trò với tôi ngần ấy. Không có đến một lời thăm hỏi. Hai mươi năm mà bà
không hề thay đổi. Vẫn ngần ấy dáng vẻ, từng ấy cử chỉ cứng rắn cùng lời nói
không khi nào biểu lộ tình thương. Giống Thầy tôi, bà không mấy vồn vã khi hay
tin tôi về thăm nhà. Tôi rỡ hành lý, lẳng lặng đem cất vào buồng trong, và cẩn
thận tránh đi ngang giường cụ Cố. Buổi chiều, con đường Hàng Cháo lặng lẽ như
tờ. Một vài phiến lá bay rơi lao xao, xào xạc, vô hồn.
*
Đêm đầu
tiên ở trong ngôi nhà mình đã sống qua thời hoa niên cách đây hai mươi năm tôi
không sao chợp mắt được. Tôi thao thức hết nhìn gian buồng nhỏ đơn sơ, một kệ
tủ đóng bụi mờ, một cánh riềm cửa phập phồng tung bay lên xuống ở đầu nằm, rồi
lại nhìn ngắm hàng cây trầu bà giồng ngoài ô cửa sổ trông ra phía Văn Miếu. Tâm
thần tôi cũng phập phồng kỳ lạ, nửa tỉnh táo nghe tiếng ngáy khò khè của Cố ở
buồng bên, nửa đuối vào vùng tâm thức của cảnh trí cũ. Tiếng gió đưa những
chiếc lá bàng khua rời rạc trên mặt đường như tiếng cánh cửa tâm linh ở trong
tôi chợt mở, chợt khép kẽo kẹt lần lữa dằng co với thực tại và quá khứ. Gian
buồng tôi ở giữa, hai bên là buồng của Thầy Mợ tôi và cụ Cố. Tôi như bị vây lấy
bởi tiếng thở đều đều của những người thân thuộc. Nửa đêm có tiếng mớ của Thầy
tôi mê sảng từng chập rồi tắt lịm vào bóng trăng đong đưa chơi vơi giữa hai tàu
lá. Không gian lại chìm vào trong cái khuya khoắt của đêm Hà Nội u trầm tịch
lặng. Không phải cái yên lặng thanh bình của Hà Nội thời tiền chiến, mà là cái
không khí trừ tịch, cô quạnh vắng vẻ, đìu hiu của vũ trụ đã có từ ngàn năm
trước. Có một thoáng tôi lờ mờ tuởng mình trông thấy những bóng người đi khuya
về ngang Văn Miếu, tuởng nghe được tiếng chuyện trò của họ lúc rõ lúc câm, tôi
rùng mình đến mấy lần vì vẻ lạnh lẽo, toát ra từ ánh trăng tròn mọc cao vút.
Đúng lúc đó tôi nghe được rõ ràng những tiếng động sệt sệt sau gian bếp.
Tôi gặp
Nhài lần đầu tiên buổi tối ấy. Lúc tôi xuống bếp, Nhài đang vần những bao than
lớn mở trút vào bồ. Thứ tiếng động nặng sền sệt mà tôi nghe khi nãy, là tiếng
động của mấy bao tải than mà Nhài kéo lê từ sân sau vào bếp. Nhài còn trẻ lắm,
chỉ vào độ đôi tám. Trông thấy tôi, Nhài nở nụ cười cầu thân, tươi cười như thể
tôi và Nhài đã quen biết nhau từ trước. Song, ở dáng vẻ tự nhiên không kiểu cọ,
vừa rỡ than vừa mời tôi bát nước vối, vừa kể chuyện của Nhài làm tôi có cảm
tình với Nhài ngay. Chái bếp khuya, tù mù khói bay tỏa bốc tự đám than hồng
Nhài vừa nhóm để nấu xôi. Hai cánh tay Nhài thoăn thoắt, khều tro lửa, giở nắp
nồi xem xôi, tước củi nhỏ, sàng gạo ăn cho vào lu, vừa sửa lại búi tóc mỗi khi
trễ xuống gáy. Nhài không đẹp lắm, không có nét thanh lịch của thiếu nữ Hà Nội,
đôi bàn tay hơi thô vì làm việc nặng, ngực vú đầy căng so với lứa tuổi dậy thì.
Nhưng bù lại Nhài có khuôn mặt duyên dáng, nụ cười tươi hàm tiếu, ánh mắt sắc
lẻm đưa tình và thân hình đầy đặn. Nhài còn có giọng nói truyền cảm, dù có hơi
sắc ở những thanh cao.
- Có chị
làm bạn, em mừng quá. Cả ngày giời đụt mưa nắng, tối về quần quật sau chái bếp,
em đến mà chết mất!
- Nhài
đi đâu cả ngày, mình về nhà từ buổi trưa mà không gặp?
- Ra
chợ Đồng Xuân chứ đi đâu! Đáng nhẽ đã về sớm kia, tại cái nhà anh Đoàn dớ dẩn!
- Chắc Nhài
thích đi chơi lắm nhỉ? Có hay dạo phố ở hàng Đào không?
- Ấy,
đi gánh than ấy chứ! Chơi gì!
Nhài
bĩu môi trả lời, hai bắp tay vẫn thoăn thoắt xúc than cho vào bồ. Búi tóc con
gái đong đưa từng chặp mỗi lúc Nhài xoay mình với cái này, lấy cái nọ. Nhìn những
bao tải than trong lúc ở Hà Nội “gạo châu, củi quế”, tôi mừng cho Thầy Mợ tôi
hãy còn phong lưu khá giả, chưa đến nỗi phải đun củi như nhiều gia đình khác.
- Sao
mua được than nhiều thế? Mình tưởng ngoài này hiếm lắm chứ?
Nghe
tôi hỏi, Nhài quay lại ngó chăm chăm vào mặt tôi rất ngạc nhiên.
- Than
đá ấy à?
- Ừ,
chứ không phải mua theo phiếu ở cửa hàng cung cấp chất đốt à?
- Tem
phiếu gì, ngoài chợ ấy ra mua mà vác về! Tháng nào mà em chẳng đi gánh về cho
Mợ.
Nói rồi
Nhài vui vẻ đi ngâm nếp, bảo để thổi cơm rượu ngày mai cho Cố. Nhài về ở với
Thầy Mợ tôi mười mấy năm rồi. Giọng kể của Nhài đều đều gần như độc thoại.
- Bố đẻ
em mất sớm. Bu em lấy chồng khác. Thầy Mợ nhận em về làm con nuôi vì khi ấy chị
vào Nam rồi nhà cửa cô quạnh quá.
Ngồi
sau lưng Nhài, tôi trông rõ những giọt mồ hôi ẩm lấm tấm bám vào ngấn cổ trắng
ngần của Nhài, rồi chảy lăn xuống lưng áo. Hơi nóng tỏa ở ngọn lửa than làm cho
chái bếp nóng rực. Làn vải nội hóa mỏng dán sát vào da thịt Nhài phô bày tấm
lưng chắc khỏe. Lâu lâu Nhài lơi tay việc, quay nhìn tôi cười khoe hàm răng hột
bắp nhỏ đều. Thỉnh thoảng Nhài vuốt lại lọn tóc kẹp không kỹ, buông lẳng lơ
trước trán. Đêm trong ngôi nhà sau lưng Văn Miếu khuya vắng, tịch mịch, chỉ có
tiếng lửa than tịch tạch từng lúc, và tiếng kể chuyện của Nhài thì thầm đôi lúc
lanh lảnh lên giọng. Nhài kể về ngôi nhà nhiều khí âm của Thầy Mợ tôi, về những
cơn điên loạn bất chợt của cụ Cố, về bệnh đãng trí mất hồn của Thầy, và về tánh
tình mỗi ngày một lãnh đạm của Mợ. Nhài cũng nhắc về Đoàn, gã thanh niên theo
đuổi Nhài, thường hay tìm cớ đụng chạm vào tay chân, ngực Nhài.
- Mà lạ
lắm chị Nụ, em cũng thích để cho cái nhà anh Đoàn rờ rẫm...
Khi nói
câu ấy Nhài tránh nhìn mắt tôi, mặt hơi nghiêng về bếp lửa. Những ngọn lửa than
hồng cháy rạo rực trong mắt Nhài lúc đó. Mười ngón tay Nhài mân mê đôi đũa bếp,
di di trên mặt đất phẳng phiu vẽ những hình vật vô hình. Hai chúng tôi chuyện
trò khuya lắm, đến khi Nhài làm xong hết việc, cả hai mới trở lên nhà. Căn
buồng của tôi cũng là căn buồng của Nhài. Lúc thổi tắt ngọn đèn dầu tờ mờ, Nhài
cười khúc khích tỏ ý muốn ngủ chung với tôi. Gian buồng chỉ có một chiếc giường
tre mỏng manh, tôi lại không nỡ để Nhài nằm đất, dầu sao đây cũng là buồng của
Nhài từ sau khi tôi bỏ nhà đi. Trong giấc ngủ dầy đặc bóng mây đen của quá khứ,
tôi mường tượng một bàn tay Nhài luồn vào trong áo mình, từng làn hơi thở của
Nhài phà vào cổ tôi. Những cơn trăn trở khiến thân thể của Nhài chạm vào mặt,
vào ngực, vào bụng tôi, và tiếng phên cửa kẽo kẹt cùng ánh bạch lạp thắp suốt
đêm bên buồng cụ Cố.
*
Khi tôi
tỉnh giấc, phên cửa đã thôi kẽo kẹt. Ánh bạch lạp cũng đã tắt. Chỉ có tiếng một
vòng bánh xe đạp mệt nhọc, đang rướn mình trên con dốc trước nhà. Tiếng động
phọc phạch của một túi đồ nào đó buộc không kỹ trên yên xe, len lỏi được vào
nhà, không đủ phá tan bầu không khí vây trùm yên lặng. Khung cửa sổ hâm hấp
nắng trưa, rọi vào chỗ nằm làm tôi nặng đầu váng vất. Nhài đã ra khỏi buồng từ
khi nào. Bộ áo cánh khi đêm Nhài mặc, treo ở cánh cửa tủ đong đưa, phất phơ...
Tôi nằm bất động trên giường, thân thể nặng nề như vừa qua cơn bóng đè. Mãi tôi
mới ngồi dậy được và bước xuống nhà dưới rửa mặt.
Lúc tôi
chải đầu xong trở lên nhà trên, Cố vẫn còn nằm thiêm thiếp nơi sập gụ.
Tiếng thở khò khè vang lên từng chập, gần như rên rỉ. Thầy tôi đã ra ngồi ngoài
sân, nơi tấm phản kê gần giậu hoa dâm bụt. Hai cánh tay người yếu ớt lau chùi
tròng kính, như cố gắng tuyệt vọng sau cùng muốn tìm lại sư tinh anh cho đôi
mắt. Thầy không hề trông thấy tôi. Dưới màu nắng lấp lánh, cảnh tượng của ngày
hôm qua hiện ra trở lại, với ngần ấy cử chỉ, động tác của người. Tia mắt người
còn nguyên sự ngây dại, ở đôi môi run rẩy lâu lâu lắp bắp một câu nói tỉnh
táo... của cách đây mấy mươi năm về trước.
- Anh
phu đâu rồi? Đánh xe đi rước cụ Phan sang chơi tổ tôm xem nào!
- Không
có nhà à? Thôi được rồi cất xe đi...
Cứ như
thế, từng lúc bất chợt người to tiếng hầu chuyện một mình, rồi bỗng nhiên ngừng
bặt rơi vào một vùng yên lặng sâu thẳm. Tôi đứng chôn chân trên bậc tam cấp,
chứng kiến hình ảnh tiều tụy của người cho đến lúc Mợ tôi từ phiên chợ sớm trở
về. Bà ném cho tôi cái nhìn không mấy yêu thương, lẳng lặng đến bên Thầy lùa
mười ngón tay gầy guộc vào trong mái tóc đã bạc trắng của người, săm soi nhổ
từng sợi tóc ngứa. Bà âu yếm vuốt vai Thầy, phủi dăm hạt bụi dính vu vơ trước
khi rời ra để vào hẳn nhà trong chăm sóc cho cụ Cố. Tôi vẫn đứng đó, thấy mình
thừa thãi, muốn phụ giúp bà nhưng không dám. Có một phiến chắn vô hình, kinh
khủng giữa tôi và bà, khiến tôi không thể mở lời làm bất cứ điều gì trước khi
bà lên tiếng. Cũng như hôm qua, tôi đứng nhìn bà bồng Cố xuống sập gụ, cho đi
tiêu đi tiểu, lau mình mẩy Cố rồi cho ăn uống. Ngần ấy công việc làm xong thì
trời đã quá trưa. Mợ tôi xuống bếp hâm thức ăn, những món mà Nhài đã làm sẵn
hồi tối.
- Thầy
Mợ xơi cơm...
- Không
dám, mời chị.
Mợ tôi
lạnh lùng cầm đôi đũa, gắp bỏ từng cọng rau đay vào bát của Thầy, chan thêm ít
canh cua. Thầy lặng lẽ ăn, ngơ ngác vô hồn như một con đười ươi được tập luyện
thuần thục.
Buổi
chiều, tôi đi làm giấy cư trú tạm thời trở về thì gặp cô chú tôi đến thăm. Đi
cùng với cô chú còn có một vài người quen của Thầy Mợ tôi, nghe tin tôi về Bắc,
đến chào hỏi.
*
Tối ấy,
tôi lại mất ngủ. Bao nhiêu tiếng động, hình ảnh của đêm qua trở về trên cái nếp
màn cửa rung hờ, thả ánh trăng soi chập chờn lên trần nhà mờ đục. Tôi nằm im
thao thức nghe tiếng mớ của Thầy tôi mê sảng, hòa điệu vào tiếng thở khò khè
của cụ Cố chỉ còn là một thân xác gần kề miệng lỗ. Đến khi nghe tiếng lục đục
quen thuộc ở gian bếp, tôi trở dậy bước xuống nhà dưới thì gặp Nhài.
- Đi
đâu cả ngày nay không về?
- Ra
chợ, buôn cau cho Mợ, rồi lên ga hàng Cỏ đón người quen.
- Ai
thế?
- Nhà
anh Phú chứ ai vào! Gớm cái nhà anh này mới từ miền cao về đã táy máy!
- Này
quen ai mà ở tận miền cao?
-
Không, trước anh Phú ở Hà Nội, phồ hàng Buồm ấy chứ! Nhưng từ hồi anh ấy vào
khu, họ bắt đi công tác ở miền cao.
- Mấy
chục năm rồi mà vẫn vậy cơ à?
Tôi
ngạc nhiên hỏi Nhài, không ngờ từ ngày kháng chiến đánh Tây đến bây giờ ở ngoài
này vẫn không thay đổi mấy. Nhưng điều lạ lùng là Nhài ngạc nhiên còn hơn cả
tôi. Nhài tròn xoe mắt nhìn tôi không hiểu.
- Làm
gì mà mười mấy năm, chỉ mới gần đây thôi mà.
Nhài
trả lời rồi không chú ý đến câu chuyện nữa, trút cau từ trong thúng ra đất, lựa
năm trái một buộc túm vào nhau. Tôi phụ Nhài xếp những lá trầu và rỡ vôi tán
mỏng gói lại từng túm nhỏ. Nhài bảo để mai gánh ra chợ bán.
- Này
gặp Phú nói chuyện gì mà lắm thế, mãi giờ này mới về. Kể mình nghe xem nào.
Vừa
nghe tôi hỏi, Nhài đỏ mặt, cả hai đôi má ửng hồng và vụt lính quýnh. Nhài như
muốn lảng chuyện bằng cách cho thêm than vào bếp lửa đang sôi. Tối nay Nhài
thắt bím, hai bím tóc lẳng lơ đùa giỡn trước ngọn lửa bếp. Nhài quỳ gối làm
việc, nhưng rồi không giữ được tâm tình mình, Nhài tâm sự bằng giọng Bắc quê hơi
đỏng đảnh pha tiếng cười khúc khích.
- Chị
Nụ! Chị đừng khai với Thầy Mợ nhé, em có người yêu rồi!
Nhài
ngừng một chút, đôi mắt long lanh rồi tiếp.
- Không
phải cái anh nhà Đoàn đâu, ấm ớ dớ dẩn lắm. Phú đấy! Hồi chiều chúng em gửi
gánh rau ở nhà ga, đi bát phố. Phú thuê xe kéo đưa em đi dạo hồ Tây thích quá
chị Nụ ạ. Mà này chị Nụ, sao đàn ông con giai họ hay thích nắm tay, vuốt lưng
mình thế chị Nụ nhỉ?
- Chỉ
nắm tay thôi mà mãi tối mịt mới về cơ à?
Tôi hỏi
lại Nhài, chỉ để đùa chơi. Nào ngờ vẻ mặt Nhài thay đổi, nghiêm trọng hẳn. Đôi
má Nhài thêm đỏ hây hẩy ngọn lửa than.
- Chị
Nụ! Chị đã hôn ai chưa?
Nhài
nhìn sững mặt tôi không chớp mắt. Lúc đó tôi mới biết cuộc tình đối với Nhài
trầm trọng hơn tôi tưởng vì là mối tình đầu. Nhài ngó tôi bằng cặp mắt dễ sợ
của một thiếu nữ sẵn sàng chết sống vì tình. Cái cõi sống cũng như chết mà Nhài
dám tiến đến vì đã trao thân cho Phú.
Cánh
cửa gian bếp bỗng xịch mở. Bóng một người đàn ông lao vào, giọng khản đục hét
quá to trở thành chuỗi âm thanh vỡ rìn rịt.
- Mày
đi đâu cả ngày giời hôm nay, con khốn nạn! Mày theo giai đấy phỏng!
Thầy
tôi bất ngờ xuất hiện, tát trái vào giữa mặt Nhài. Cây gậy chống kiểu Tây mà
người nâng niu thường khi quất vùn vụt xuống người Nhài vừa ngã chúi xuống nền
đất. Diễn biến nhanh đến nỗi tôi không kịp có phản ứng, và Nhài thì nằm co quắp
giữa gian bếp chịu trận. Hai cánh tay, Thầy tôi mới ban sáng còn yếu ớt, bây
giờ mạnh mẽ khác thường, lên xuống vùn vụt quất tới tấp vào người Nhài.
- Ối,
con lạy Thầy!
- Con
khốn nạn, con đĩ rạc! Mày muốn làm nhục tao hay sao mà còn gọi tao bằng Thầy.
- Ối,
Thầy ơi! Con van Thầy, trăm lạy Thầy.
Thầy
tôi như không nghe thấy tiếng kêu van của Nhài, người lồng lên vun vút cây gậy
không ngừng tay vào người Nhài. Tôi thu rút người trong góc bếp, tê cứng rũ
liệt vì sợ hãi. Tôi muốn lăn vào chịu đòn thay cho Nhài, muốn can Thầy tôi ra,
nhưng chân tay dính chặt vào mặt đất. Trong đầu tôi có cái ý nghĩ kỳ lạ là Thầy
tôi mạnh kinh khủng, khác thường ngày nhiều lắm và Thầy dường như không để ý
nhận thấy sự có mặt của tôi nơi xó bếp. Phải, đêm đó Thầy tôi mạnh lắm, dẫu tôi
có xông vào cũng không ngăn nổi người. Hai cánh tay người tiếp tục quất xối xả
xuống tấm thân bầm dập tóe máu của Nhài, và tôi như một kẻ vô hình co rút trong
góc bếp chứng kiến một cảnh tượng ghê gớm mà không thể can thiệp. Thầy tôi đêm
ấy không đeo kính, nhưng đôi mắt người không có vẻ điên dại, chỉ đỏ ngầu vì tức
giận. Đến khi người bỏ lên nhà trên rồi thì Nhài hãy còn nằm co quắp, run lẩy
bẩy. Tôi ôm cứng lấy Nhài và cùng khóc thút thít theo từng tiếng khóc uất nghẹn
của Nhài.
Sau đó
tôi đỡ Nhài dậy, dìu lên buồng, thay quần áo cho Nhài. Hai chúng tôi ôm nhau
ngủ trên chiếc giường nan tre của Nhài, mà cũng là chiếc giường của tôi ngày
xưa. Nhài khóc tấm tức suốt đêm, tiếng khóc ứa ra từ những vết thương bật máu.
“Em chết mất chị Nụ ơi... đừng bỏ em, Phú ơi, anh ơi...”. Tiếng khóc tấm tức
của Nhài nhỏ dần, nhưng thân thể lằn roi vẫn oằn oại, dẫy dụa. Tôi thiếp vào
giấc ngủ rã rời, bải hoải cùng với tấm thân thương tích đó. Hình như tôi đã mê
đi với những vệt roi lằn đỏ, bầm tím, ăn sâu vào lưng Nhài. Tôi ôm cứng lấy
thân thể Nhài để tưởng là thân mình biết đau đớn. Đôi tay tôi hay đôi tay Nhài
lần xoa nắn làm dịu vết đau của cả hai. Tôi chỉ nhớ trong trạng thái nửa thức
nửa mê, đã ôm vòng lấy trọn vẹn và chạm vào từng vết roi trên da thịt Nhài hâm
hấp nóng.
*
Tôi
thức giấc, tấm chăn đay hất trễ duới đùi, phô bày một thân thể Nhài say ngủ mê
man gần như chết rồi. Trong giây phút thức giấc đầu tiên, ý nghĩ đến với tôi
trước tiên là Nhài chỉ là một hình ảnh bất động, được ghi nhận ăn sâu vào tiềm
thức và còn ở lại trên mặt giuờng. Nhưng Nhài vẫn nằm ở đó, cạnh tôi, say ngủ
bằn bặt. Đôi mắt Nhài khép hờ, bộ ngực rướn lên theo làn hơi thở và đầu gối khẽ
co về trước bụng. Phải mất nhiều phút tôi mới bình tâm và nhớ lại tất cả những
gì đã xảy ra.
Tôi
bước ra gian buồng khách, đang chìm mờ trong thứ ánh sáng ngày xao xác. Ngôi
nhà vẫn chìm trong cái không gian thênh vắng, tẻ lặng, không một tiếng động
mạnh và không có lấy một chút sinh khí. Tôi muốn nói chuyện với Mợ tôi về Nhài,
muốn nói với bà rằng Nhài đã lớn và tình trạng này không thể kéo dài. Tôi cũng
muốn hỏi Mợ tôi về thái độ kỳ quặc khác thường của Thầy đêm qua, nhưng ngôi nhà
hoàn toàn im vắng. Mợ tôi đã đi đâu mất biệt từ sớm, chỉ còn Cố nằm chờ chết
nơi sập gụ. Thầy tôi thì vẫn ngồi ở ngoài sân mân mê gọng kính thuốc, như thể
cái người đàn ông hung dữ đánh đập Nhài đêm qua không phải là người. Cố vẫn thở
khò khè và Thầy tôi chốc chốc lại ném vào nhà tia nhìn ngây dại vô hồ của
người. Tôi tự hỏi làm sao Mợ tôi có thể sống trong ngôi nhà này với hai người
đàn ông điên loạn bất bình thường. Một nặng một nhẹ, một tàn phế thể xác, một
tàn phế trí tuệ. Tôi đến thắp nén nhang đầu tiên từ khi về Hà Nội, trên bàn thờ
tổ. Những bức hình của Nội, của Cố bà, của tất cả những người đã chết trong gia
tộc nhìn tôi chằm chằm. Tôi chỉ giật mình thoát ra khỏi những tia nhìn rờn rợn
ấy khi nghe tiếng gọi của Nhài.
- Chị
Nụ ơi, em quyết định thoát ly thôi...
Nhài
thập thò ở cửa gian buồng khách, cầm nơi tay một bọc gói nhỏ. Bước chân Nhài
chần chừ chưa dám bước qua chỗ cụ Cố. Nhài nhìn tôi bằng ánh mắt van lơn sầu
héo.
- Em đi
chị Nụ ạ, ở đây Thầy đánh em chết mất. Chị lạy Thầy Mợ hộ em, chị Nụ... Em đội
ơn Nụ...
Nhài
vùng vằng gỡ tay tôi, sau tiếng nấc xăm xăm tiến ra cửa. Ánh sáng ngày đón Nhài
ở bàn thờ tổ, men dần trên nền lát đá hoa và dừng lại ở chỗ cụ Cố. Vì khi ấy...
trời ơi khi ấy, Cố bật dậy từ sập gụ hai tay bấu vào người Nhài. Đôi tròng mắt
trắng dã trong hai hố mắt đỏ lăn tăn tia máu hôm nào tôi về nhà phóng thẳng giữ
rịt lấy người Nhài. Chuỗi âm thanh líu ríu, gẫy vụn từng mảnh the thé vây lấy
Nhài. Cả nửa thân hình trên của Cố ngồi dựng dậy như muốn đứng thẳng người,
trong lúc mười móng tay dài cào cấu vào mặt Nhài. Cái cảnh tượng khủng khiếp đó
đóng đinh tôi tại chỗ. Tôi cảm giác rõ ràng như đêm qua rằng mình ở ngoài cảnh
tượng ấy, không thể can thiệp, không thể đến gần dằng lấy Nhài trong tay Cố. Rõ
ràng là Nhài và Cố ở gần tôi nhưng rất xa, diễn biến trước mắt nhưng tôi bất
lực không thể ngăn cản. Thầy tôi bước vào đúng lúc ấy. Tôi nghe mình gọi tên
người, van xin người giúp đỡ. Nhưng như tối hôm qua Thầy tôi hoàn toàn không
trông thấy tôi, hươi cây gậy chống quất tới tấp, xối xả vào mặt mũi lưng mình
Nhài. Họ chỉ ngưng tay khi Nhài đã ngất lịm trên mặt đất. Vẫn tôi là người bồng
ẳm Nhài vào buồng trong. Vẫn tôi là người lấy khăn ướt lau mặt cho Nhài và dỗ
dành an ủi, khóc với Nhài.
*
Những
ngày sau đó Nhài bị nhốt trong buồng không được phép ra ngoài. Giữa những cơn khóc
lóc vật vã, Nhài tỉnh táo nói bằng cặp mắt đầy căm phẫn, oán hận.
- Nụ
ơi, em không thể sống xa Phú. Rồi em sẽ trả thù! Cướp chính quyền rồi chúng nó
sẽ biết! Phú sẽ không tha đứa nào!
Những
lúc ấy tôi cảm tưởng rằng Nhài đã điên loạn. Bị đánh nhiều quá, Nhài đã mất đi
sự sáng suốt của một người bình thường.
- Nhài
ngủ đi, đừng nói nhảm. Cá không ăn muối cá ươn. Thầy Cố thương mới đánh.
-
Thương gì! Chúng xem em như con ở nhà này. Để rồi Nụ xem, cướp chính quyền nay
mai thôi!
- Cướp
gì? Chính quyền nào? Nhài lại lảm nhảm nữa rồi. Con gái lớn phải lo việc nhà,
có ai xem Nhài là tôi tớ đâu.
- Trời
ơi! Cả nước sôi sục dành độc lập mà Nụ không hay! Trời ơi, sao em khổ thế này,
cả Nụ cũng không hiểu. Để rồi Nụ xem, em thề với Nụ là em sẽ đấu tố bọn họ đến
dở sống dở chết.
Mắt
Nhài long lên, nhìn tôi dễ sợ lúc ấy. Sự hận thù của đứa con gái mới biết yêu
lần đầu bị tước đoạt tình yêu và nhục dục sinh lý. Nhưng Nhài cũng không gào
la, phẫn nộ được lâu. Thầy tôi thường xuất hiện ở ngưỡng cửa với cây gậy chống
vụt xối xả vào người Nhài. Nhiều lúc Cố cũng bước vào phòng tiếp tay Thầy đánh
phạt Nhài. Những khi đó, Cố không có vẻ gì là bán thân bất toại, lẩm bẩm chửi
rủa bằng thứ ngôn ngữ của cách đây ba mươi năm về trước. Cả Thầy và Cố đều tảng
lờ không công nhận sự hiện diện của tôi bên Nhài. Cả hai tỉnh táo và bình
thường đến độ tôi có cảm tưởng là họ giả điên, giả liệt để lừa dối Mợ tôi. Vì
mỗi khi bà có mặt ở nhà, cả hai lại trở về cái tình trạng mất trí, ngây dại và tàn
phế thường nhật. Mợ tôi làm như không hay biết chuyện của Nhài, ra vào làm công
chuyện nhà như không có gì xảy ra. Mỗi lần Mợ tôi có ở nhà là Thầy lại trở ra
ngồi ở tấm phản con kê ngoài sân, im lìm mải mê lau chùi gọng kính. Người thẫn
thờ với nụ cười trẻ thơ vô tội. Và Cố cũng trở thành tấm thân tàn phế, nhão
nhoẹt đang tan vữa vì bị thời gian ăn nhấm đến tủy.
Khoảng
thời gian trở về sống trong ngôi nhà của gia đình sau lưng Văn Miếu, tôi cũng
trở thành gần như yếu thần kinh, mang bệnh tâm thần, vì phải chứng kiến cuộc
đời ẩn ức của Nhài. Nhiều lần tôi muốn bảo Mợ tôi rằng bà đang bị Thầy và Cố
lừa dối, song cái ý chí muốn nói lên sự thật của tôi luôn bị ánh mắt lạnh như
băng của bà chặn lại. Tôi chạm mặt bà luôn với mặc cảm trốn tránh, không làm
tròn bổn phận, chưa trả hết nợ cho Nhài. Tuy thế, tôi biết rõ chỉ có mỗi mình
bà, người tỉnh táo duy nhất trong ngôi nhà này là có thể cứu vớt được Nhài. Một
buổi sáng, thu hết can đảm, lợi dụng lúc Thầy và Cố chưa thức, tôi kể chuyện
Nhài cho Mợ nghe. Bà ngó tôi đăm đăm khi tôi yêu cầu bà phải thương yêu Nhài,
đừng lãnh đạm lạnh nhạt với Nhài nữa. Đôi mắt Mợ tôi lạnh sắt, chằm bẳm đến lạ
lùng.
- Chị
vào thăm gia đình này như thế là đủ rồi. Liệu thu xếp mà trở ra ngoài ấy, đừng
về đây làm gì nữa.
Bà xua
đuổi tôi bất ngờ, không đả động gì đến chuyện của Nhài. Tôi chợt thấy mình run
rẩy bám víu vào sợi dây máu mủ tình mẫu tử đang muốn đứt lìa.
- Con
lạy Mợ, cho con về sống với Thầy Mợ. Anh ấy đã bỏ con rồi, con không biết đi
đâu bây giờ. Mợ cho phép con ở nhà này hầu Thầy Cố. Trăm lạy Mợ thương con gái
Mợ!
- Tôi
không có con gái, nên nhận lầm đứa con nuôi phản phúc! Bộ chị tưởng tôi quên
những bất hạnh chị đem đến cho gia đình này à? Tôi làm sao quên chị đã tố khổ
gia đình này, đã xui người tra tấn cụ Cố đến tê liệt nửa thân người, đã tra
điện chồng tôi đến mất trí.
Cũng
như lần thoát ly đầu tiên, tôi rời Hà Nội có một thân một mình. Phải, tôi chính
là con Nhài bỏ nhà trốn theo trai rồi gia nhập Việt Minh trở về cướp chính
quyền, đấu tố Thầy và Cố nuôi tôi đến dở sống dở chết, như lời thề độc sau lần
phải đòn vì đi ngủ với Phú. Nhưng Phú cũng đã bỏ rơi tôi sau khi giải phóng
miền Nam. Chỉ còn ngôi nhà nằm sau lưng Văn Miếu luôn ở đó, đời đời như một vết
nhơ./.
TRẦN VŨ
Khởi
viết tháng 12-1988 hoàn tất tháng 4-1989. Xem lại và hiệu đính ngày 5 tháng
12-2010.
Nguồn: hopluu.net