Pete
Hamill sinh tại New York, gia đình gốc người Ireland di cư sang Hoa Kỳ từ năm
1929. Học xong, Hamill thử làm nhiều công việc khác nhau cho đến khi thấy niềm
đam mê nghề làm báo thôi thúc.
Mùa
hè năm 1960, ông làm phóng viên tại báo The New York Post và bắt đầu học nghề
từ đây. Những năm 1962-63, ông làm đặc phái viên cho tờ Saturday Evening Post và được cử sang châu Âu.
Thời gian này, ông rong ruổi qua nhiều nước, phỏng vấn các nghệ sĩ, đạo diễn,
nhà văn...
Đến
năm 1964, ông trở về New
York, làm tại báo New York Herald Tribune một
thời gian, rồi chuyển về New
York Post phụ trách một chuyên mục thường kỳ, đồng thời
cộng tác với nhiều báo khác. Ông viết nhiều đề tài ( chiến tranh, âm nhạc, đời
sống thị dân... ) và di chuyển nhiều nơi. Sau này, ông xuất bản hai tuyển tập
các tác phẩm báo chí ( Irrational Ravings và Piecework ).
Hamill
còn được biết đến như một nhà văn, tiểu thuyết đầu tiên là “ A Killing for
Christ “, nói về âm mưu ám sát Đức Giáo Hoàng vào dịp lễ Phục Sinh tại La Mã.
Sau đó là tiểu thuyết tự truyện The Gift, và vài cuốn khác. Ông còn viết hơn một
trăm truyện ngắn, đăng từng kỳ trên báo với chuyên mục mang tên “ The Eight
Million “ và “ Tales of New York “. Sau này ông tập hợp lại in trong hai cuốn “
The Invisible City: A New York Sketchbookm”, 1980, và “ Tokyo Sketches “ , 1992.
Truyện
ngắn Going Home giới thiệu dưới đây được đăng lần đầu trên báo The New York
Post ngày 14/10/1971. Ba tháng sau, truyện được đăng lại trên tạp chí Reader’s
Digest.
Cả
bọn cùng kéo về Fort Lauderdale, tiểu bang Florida. Tất cả gồm sáu người, ba
chàng trai, ba cô gái, họ lên xe ở đường số 34, mang theo bánh mì sandwich và
rượu vang, đựng trong những túi giấy. Họ đang mơ tưởng tới những bãi biển vàng
và sóng thuỷ triều, bỏ lại sau lưng không khí lạnh lẽo, u ám của mùa xuân thành
phố New York. Còn Vingo thì đã lên xe ngay từ đầu.
Khi
xe chạy ngang New Jersey để tiến vào Philia, họ bắt đầu để ý Vingo ngồi thù lù
một chỗ, không cựa quậy. Anh ngồi ngay trước mặt bọn trẻ, gương mặt bụi bặm khiến
khó đoán tuổi, mặc bộ đồ màu nâu trơn không vừa lắm. Các ngón tay cáu bẩn khói
thuốc lá, miệng mím lại. Anh ngồi lặng lẽ, chừng như chẳng quan tâm gì đến sự có
mặt của những người khác.
Đêm
về khuya, xe chạy ngang vòng ngoài Washington thì dừng lại tại quán ăn Howard
Johnson, mọi người đều xuống xe, ngoại trừ Vingo. Đám trẻ bắt đầu ngạc nhiên về
Vingo, cố tưởng tượng ra cuộc đời của anh, có lẽ anh là một thuyền trưởng tàu
biển, hoặc là người bỏ vợ, hay là cựu quân nhân trở về quê nhà? Khi cả bọn trở
lại xe, một cô gái trong nhóm không kìm được tò mò nên đến bắt chuyện với anh.
Cô đến ngồi cạnh và tự giới thiệu.
“
Tụi này đi Florida”, cô nói rõ giọng, “ anh cũng đi tới đó chứ? “
“
Tôi không biết nữa! “, Vingo đáp.
“
Tôi chưa hề tới đó. Nghe nói đẹp lắm. “
“
Đúng đó.”, anh khẽ nói, như muốn khêu lại điều đã cố quên.
“
Anh sống ở đó à? “
“
Trước tôi từng ở đó, khi còn trong hải quân, tôi ở căn cứ Jacksonville.”
“
Anh dùng chút rượu vang nhé!”
Anh
mỉm cười và cầm lấy chai rượu làm ngay một tợp. Anh cảm ơn và tiếp tục chìm
trong im lặng. Một lát sau, cô gái quay lại với nhóm bạn, anh lim dim ngù.
Đến
sáng, họ lại dừng ở một quán Howard Jackson khác, lần này Vingo cùng đi với
nhóm trẻ. Anh tỏ vẻ ngại ngùng, gọi ly cà phê đen và rít thuốc liên hồi, trong
khi đám trẻ vẫn huyên thuyên chuyện nằm ngủ trên bãi biển.
Khi
trở lại xe buýt, cô gái vẫn đến ngồi cạnh Vingo. Một lát sau, anh ngập ngừng chậm
rãi kể chuyện, giọng khổ sở. Đã bốn năm rồi anh bị giam ở New York và nay đang
trở về nhà.
“
Anh có gia đình chưa?”
“
Tôi cũng không chắc.”
“ Ủa,
anh không chắc sao?”
“
À, vâng, hồi còn trong tù, tôi có viết cho vợ. Martha à, anh sẽ thông cảm nếu
em không thể gắn bó với anh. Tôi nói là tôi vắng nhà lâu quá, nếu nàng không chịu
nổi, nếu lũ nhóc cứ dò hỏi thắc mắc này kia và nàng thấy đau đớn, nàng có thể
quên tôi đi. Cứ tìm một người đàn ông khác - nàng là một phụ nữ tuyệt vời, thực
sự rất đáng giá. Nàng có thể quên tôi đi. Tôi bảo là nàng không cần phải trả lời
thư tôi gì cả, và nàng đã không viết gì thật. Cũng đã ba năm rưỡi rồi.
“
Và bây giờ anh trở về nhà, vẫn không biết tình hình thế nào?”
Anh
ngại ngùng đáp:
“
Đúng vậy. Mới tuần trước thôi, khi biết chắc sẽ được phóng thích, tôi lại viết
cho nàng nữa. Tôi nói nếu nàng có người mới, tôi sẽ thông cảm thôi. Nhưng giả sử
nàng vẫn chưa có ai, nàng vẫn chờ đợi tôi về thì hãy cho tôi biết. Chúng tôi vẫn
sống ở thành phố Brunswick này, và ở lối vào thành phố có một cây sồi thật to,
hùng vĩ lắm, ai cũng biết. Tôi bảo nàng là nếu muốn đón tôi trở về, nàng hãy cột
chiếc khăn tay vàng trên cây, tôi nhìn thấy và sẽ xuống xe trở về nhà. Còn trái
lại, nàng không yêu tôi nữa thì quên chuyện đó đi. Không có khăn tay, tôi tự hiểu
và tiếp tục chuyến đi.
“Ôi,
cô gái nói, ôi!”
Cô
gái kể cho các bạn nghe chuyện và ngay lập tức cả bọn ùa đến khi xe gần tới
Brunswick, chăm chú nhìn Vingo cho xem ảnh vợ và ba đứa nhóc - người đàn bà đẹp
giản dị, ba đứa trẻ, chưa rõ nét trên tấm ảnh đã sờn.
Còn
20 dặm nữa là đến Brunswick, nhóm trẻ đổ xô về những chiếc ghế cạnh cửa sổ phía
bên phải, nóng lòng chờ nhìn cây sồi. Vingo không nhìn ra ngoài nữa, khuôn mặt
người cựu tù co rúm lại, cố gượng để khỏi chịu đựng sự thất vọng tiếp theo. Còn
10 dặm, rồi 5 dặm, cả chuyến xe đều im thin thít, ngập chìm trong cõi lặng
thinh của xa vắng, của những năm tháng mất mát, của khuôn mặt hiền lành người
phụ nữ, của lá thư không mong đợi trên bàn ăn điểm tâm, của bầy trẻ ngơ ngác, của
những chấn song sắt lạnh lẽo.
Và
đột nhiên, tất cả đều đứng bật dậy, reo hò, la hét, khóc thét, rồi ôm nhau nhảy
múa trong nỗi hân hoan, phấn khích. Chỉ trừ Vingo .
Vingo
vẫn ngồi đó, sững sờ nhìn ra cây sồi già. Cái cây có treo những chiếc khăn tay vàng, có đến 20, 30 chiếc,
có lẽ đến hàng trăm chiếc. Cái cây hiện
ra như tấm biểu ngữ chào mừng, cuồn cuộn, phất phơ trong gió, cây biến thành một
hình tượng rực rỡ khi xe buýt chạy ngang qua. Khi cả nhóm trẻ vẫn tiếp tục reo
hò, người cựu tù binh rời khỏi ghế, vươn mình bước dần ra phía trước xe, chuẩn
bị trở về nhà.
Nguồn:
Truyện
của Pete Hamill kết thúc ở đó. Tuy nhiên, vẫn còn thứ khác, tạm gọi là
TRỞ VỀ NHÀ
- NGOẠI TRUYỆN
Pete Hamill cho biết câu chuyện thú vị này anh từng nghe kể. Ít
lâu sau, một cuốn phim truyền hình do hãng ABC-TV công bố, lấy tên là TheYellow
Handkerchief, “Chiếc khăn tay màu vàng”, do diễn viên James Earl John
thủ vai người cựu tù binh.
Sau đó, đến lượt Irwin Levine và L. Russell Brown sáng tác bài
hát Tie a Yellow ‘ Round the Ole Oak Treevà lên tiếng cho biết họ nghe kể
chuyện này khi phục vụ trong quân đội. Nội dung bài hát tương tự như truyện ngắn
của Pete Hamill, chỉ khác ở chi tiết chiếc khăn tay ( handkerchief ) đổi
thành dải ruy- băng ( ribbon ), có thể để dễ hát hơn.
Bài hát nổi tiếng và được phổ biến rộng khắp rất nhanh ngay
trong năm 1973. Pete Hamill đâm đơn kiện hai đồng tác giả xâm phạm bản quyền,
biến truyện ngắn của ông thành bài hát mà không xin phép. Nhưng cuối cùng, bài
hát được minh oan vì câu chuyện của Pete Hamill thực ra chẳng có gì mới mẻ, nhiều
nhà nghiên cứu đã chứng minh nó đã tồn tại rất lâu dưới nhiều biến thể khác
nhau. Pete Hamill đành phải rút lại đơn kiện.
Với ca từ rõ ràng và xúc động, giai điệu vui tươi pha lẫn âm hưởng
nhạc đồng quê, Tie a yellow ribbon ‘ Round the Ole Oak Tree đã biến hình
ảnh dải ruy băng vàng trở thành một biểu tượng quốc gia. Năm 1980, vụ khủng hoảng
con tin ở Iran lên đến đỉnh điểm, dải ruy băng vàng tượng trưng cho sự trở về của
400 con tin người Mỹ, lúc này khắp nước Mỹ đi đâu cũng thấy dải băng vàng treo
đầy những hàng cây.
Bài hát đạt tới thành công tột đỉnh qua giọng ca của ca sĩ Tony
Orlando và nhóm nhạc Dawn. Ngay trong năm 1973, dĩa thu âm bài hát của nhóm nhạc
này đã bán được ba triệu bản trong ba tuần lễ.
Từ đó đến nay, Tie a yellow ribbon ‘ Round the Ole Oak Treevẫn
tiếp tục là bài hát tủ của rất nhiều ca sĩ, giai điệu của nó vẫn tiếp tục vang
lên, như một thông điệp về tình yêu chung thuỷ, về sự mong chờ ngày về của người
thân yêu đi xa.
TIE
A YELLOW RIBBON ‘ ROUND THE OLE OAK TREE.
I'm comin' home, I've done
my time
Now I've got to know what
is and isn't mine
If you received my letter
telling you I'd soon be free
Then you'll know just what
to do
If you still want me, if
you still want me
Whoa, tie a yellow ribbon
'round the ole oak tree
It's been three long
years, do you still want me?
If I don't see a ribbon
round the ole oak tree
I'll stay on the bus,
forget about us, put the blame on me
If I don't see a yellow
ribbon 'round the ole oak tree
Bus driver, please look
for me
'Cause I couldn't bear to
see what I might see
I'm really still in prison
and my love, she holds the key
A simple yellow ribbon's
what I need to set me free
And I wrote and told her
please
Whoa, tie a yellow ribbon
'round the ole oak tree
It's been three long
years, do you still want me?
If I don't see a ribbon
round the ole oak tree
I'll stay on the bus,
forget about us, put the blame on me
If I don't see a yellow
ribbon 'round the ole oak tree
Now the whole damned bus
is cheerin'
And I can't believe I see
A hundred yellow ribbons
round the ole oak tree
I'm comin' home
Tie a ribbon 'round the
ole oak tree
Tie a ribbon 'round the
ole oak tree
Tie a ribbon 'round the
ole oak tree
Tie a ribbon 'round the
ole oak tree
HÃY
BUỘC DẢI RUY - BĂNG VÀNG QUANH CÂY SỒI GIÀ
Anh
đang trên đường trở về nhà
Việc
thụ án vậy là đã xong
Anh
đã rõ chuyện nào thuộc về mình, chuyện nào không
Và
nếu em đã nhận thư anh báo
Sắp
đến ngày anh được tự do
Hẳn
em biết cần phải làm gì
Nếu
em vẫn một lòng một dạ yêu anh.
Nếu
em vẫn còn yêu anh, xin em hãy
Buộc
dải lụa vàng quanh cây sồi già em nhé.
Ba
năm dài đằng đẵng trôi qua
Em
vẫn còn yêu anh đấy chứ?
Còn
nếu như anh không nhìn thấy dải lụa nào
Thì
anh vẫn ngồi lặng yên trên xe buýt
Và
quên đi chuyện hai chúng ta
Rồi
chỉ tự trách mình mà thôi.
Bác
tài ơi, xin hãy nhìn giúp tôi,
Vì
tôi nào dám nhìn những gì sẽ xuất hiện trước mắt
Thực
ra tôi vẫn còn trong tù ngục
Mà
chính nàng, người tôi yêu, đang cầm giữ chìa khoá
Chỉ
một dải lụa vàng là thứ tôi cần để được tự do.
Tôi
đã gửi thư đi và kỹ lưỡng dặn dò
Em
ơi hãy buộc dải lụa vàng quanh cây sồi xưa.
Ba
năm dài đằng đẵng đã trôi qua
Em
có còn một lòng một dạ yêu anh?
Còn
nếu như anh không nhìn thấy dải lụa nào
Anh
sẽ ngồi lại trên xe buýt,
Quên
đi chuyện của hai ta
Và chỉ tự trách mình thôi
Nếu
như anh không nhìn thấy dải lụa vàng quanh cây sồi.
Nhưng
kìa, cả đám người chết tiệt trên xe đang mừng reo
Anh
không sao tin được những gì hiện ra trước mắt
Cả
trăm dải lụa vàng quanh gốc cây
Anh
đang về nhà đây!
Hãy
buộc dải ruy băng vàng quanh cây sồi già em nhé.
Hãy
buộc dải ruy băng vàng quanh cây sồi già em nhé
Hãy
buộc dải ruy băng vàng quanh cây sồi già em nhé,
Hãy
buộc dải ruy băng vàng quanh cây sồi già em nhé.
THÂN
TRỌNG SƠN
dịch
và giới thiệu