DU
TỬ LÊ
Trương Vũ, nhà văn nặng lòng
với Văn Học Nghệ Thuật đất nước
Trương Vũ, nhà văn nặng lòng
với Văn Học Nghệ Thuật đất nước
Chân dung nhà văn/họa sĩ Trương Vũ, photo by Phạm Cao Hoàng, 2016
Tôi
trộm nghĩ, độc giả của nhà văn Trương Vũ ít ai ngạc nhiên khi nhận ra ông vốn nặng
lòng với quê hương, nhất là ở lãnh vực văn học, nghệ thuật của đất nước. Xu hướng
này thể hiện rất rõ qua nhiều trang sách ở tác phẩm “Đuổi bóng hoàng hôn”. Cụ
thể những chương như “Nhìn lại phong trào văn nghệ phản kháng tại Việt Nam”;
“Chiến tranh Việt Nam, văn học Việt Nam hải ngoại và phía bên kia thiên đường”
hoặc “Vị trí của Sáng Tạo trong sự phát triển văn học miền Nam sau 1954”; vân
vân…
Mối
quan tâm của họ Trương không chỉ giới hạn ở cõi-giới văn chương miền Nam, nơi
ông lớn lên, trưởng thành, hay những năm tháng ông phải bỏ nước ra đi, mà tác
giả “Đuổi Bóng Hoàng Hôn” (ĐBHH) còn theo dõi sát sao những biến động của dòng
văn chương miền Bắc trong 20 năm chia cắt nữa. Điều này cho thấy, trái tim, tấm
lòng đau đáu với chữ, nghĩa của ông, đã vượt khỏi sự “khoanh vùng” bởi chia cắt
hay, vạch phấn chính trị. Nơi bất cứ tiểu luận nào, ở lãnh vực này, cũng được họ
Trương ghi nhận với tất cả trầm tĩnh, khách quan có được…
Cụ
thể, trong tiểu luận tựa đề “Nhìn lại phong trào văn nghệ phản kháng tại Việt
Nam”, Trương Vũ viết:
“… Trong
một tiểu luận tựa đề “Viết về chiến tranh” (Văn Nghệ Quân Đội, tháng 11 /
1978), Nguyễn Minh Châu đả kích tác phẩm của hầu hết những nhà văn thời kỳ đó
là họ chỉ viết về ‘những hiện thực mơ ước’ chứ không phải viết về những ‘hiện
thực đang tồn tại’. Tán đồng với nhận định của Nguyễn Minh Châu, nhà phê bình
Hoàng Ngọc Hiến viết bài nhan đề ‘Về một đặc điểm văn nghệ ở ta trong giai đoạn
vừa qua’, trong đó ông đề nghị nên gọi nền văn học nghệ thuật hiện đại của Việt
Nam là một nền văn học nghệ thuật ‘phải đạo’, có nghĩa là ‘quan tâm đến sự phải
đạo nhiều hơn là tính chân thật’. Cũng trong tháng đó, Nguyên Ngọc đề nghị một
đề cương về sáng tác văn học trong đó ông kịch liệt đả kích chất lượng yếu kém
của những tác phẩm văn học hiện đại. Đề cương này mãi chín năm sau mới được phổ
biến, nhưng chỉ phổ biến một phần trên tạp chí Langbian ở Đà Lạt…” (ĐBHH,
trang 22, 23)
Không
nương vào những lên tiếng minh bạch của một số nhà văn trong cuộc, để đưa trình
bày quan điểm của riêng mình, họ Trương chỉ tiếp tục ghi nhận phản ứng của
thành phần bảo thủ, của những “dư luận viên”, theo cách nói hôm nay của những
cây bút ủng hộ chế độ. Nhà văn Trương Vũ đề cập tới một bài viết trên tạp chí
Nghiên Cứu Nghệ Thuật (Tháng 1/1980) của tác giả Kiều Vân:
“Kiều
Vân biểu lộ một cách khá hằn học, dùng trường hợp của Lucas để ngụ ý những người
này đã ‘đòi hỏi một kiểu tự do vô lối trong sáng tác đối với xã hội chủ nghĩa,
tấn công một cách kiên trì vào nền văn học mang tính đảng và tính có khuynh hướng’.
Thế nhưng, từ phía đông đảo nhà văn, nghệ sĩ và trí thức, có một sự yên lặng
đáng ngạc nhiên, không giống như vào thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đa số đã nhẩy
vào đánh hùa theo với đảng…” (ĐBHH, trang 23).
Dõi
theo biến động bất ngờ, đáng kể của những nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Hoàng
Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc, họ Trương ghi nhận tiếp:
“… Hai
tháng sau, dưới áp lực của chính sách đổi mới ở Liên Xô và Đông Âu, Tổng Bí Thư
Nguyễn Văn Linh tuyên bố sẽ đổi mới chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 12/1987, nghị quyết số 5 về đổi mới trong văn học và nghệ thuật được ban
hành…” (ĐBHH, trang 24)
Vẫn
theo ghi nhận của tác giả ĐBHH thì, khởi từ nghị quyết vừa kể mà lãnh vực phê
bình, lý luận ở miền Bắc, có nhiều tác giả nổi bật như Hoàng Ngọc Hiến, Lại
Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà… Ở lãnh vực kịch nghệ, điển ảnh, người ta thấy họ Trương
nhắc đến những tên tuổi, như Lưu Quang Vũ, Tất Đạt, Trần Văn Thủy, Việt Linh. Về
thơ, Trương Vũ nói, phải kể tới Nguyễn Duy, Trần Vàng Sao…
Nhưng
theo họ Trương thì những tên tuổi được dư luận ghi nhận là sôi động, sáng rỡ nhất
phải là Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Trần Mạnh Hảo, Nhật
Tuấn, Nguyễn Quang Lập, Bảo Ninh, v.v…
Vẫn
theo nhà văn Trương Vũ thì, Nguyễn Huy Thiệp được coi là tài năng hàng đầu của
giai đoạn “cởi trói văn nghệ” này:
Nguyễn
Huy Thiệp “… nhìn xoáy vào từng điểm đen tối nhất của đời sống. Ông lôi ra ánh
sáng để đùa bỡn với những khúc mắc ghê rợn của một xã hội trong đó ông sống và
làm việc. Phong cách này được nhìn thấy rõ nhất trong các truyện ngắn như ‘Tướng
về hưu’ và ‘Không có vua’…” (ĐBHH, trang 25)
So
sánh nội dung tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp và Dương Thu Hương, nhà văn Trương
Vũ cho rằng truyện dài “Thiên đường Mù” của Dương Thu Hương “bao phủ một không
khí hoài niệm, tăm tối, sầu thảm. Cái thiên đường mà Dương Thu Hương ngụ ý ở
đây chỉ là một thiên đường của những kẻ đã đánh mất nhân tính hay của những kẻ
bị chà đạp, bóc lột, bị xem khinh. Một thứ thiên đường của nghèo đói, lạnh lẽo
và cô đơn. Một thứ thiên đường mù lòa.
Ở phần
trích dẫn tác phẩm “Thiên đường mù” của Dương Thu Hương, họ Trương chọn một
nhân vật trẻ, đầy tính người, Cậu Chính đại diện cho lớp người trẻ có “trí khôn
ngắn ngủi”:
“… Họ
là những kẻ đã phao phí gần hết đời sống của mình vào việc vẽ nên một thiên đường
dưới trần ai, nhưng trí khôn ngắn ngủi của họ lại không không đủ hiểu thiên đường
đó ra sao và con đường nào đưa tới nó. Vì thế, khi biết công việc đó hão huyền
thì họ hối hả tìm kiếm những miếng ăn thực, nhặt nhạnh những hạt ngũ cốc thực
trên mảnh đất bùn lầy. Họ làm việc ấy, bất kể bằng cách nào… Họ là tấn thảm kịch
cho chính họ, là tấn thảm kịch cho chúng ta.” (ĐBHH, trang 26)
Đề cập
tới nhà thơ Nguyễn Duy, Trương Vũ viết:
“Trong
một bài thơ gây nhiều phản ứng sôi nổi, Nguyễn Duy biểu lộ một thái độ khinh miệt
tận cùng về việc xây dựng thần tượng mà ông coi như chẳng khác gì xào nấu các
món ăn, trong bài thơ tựa đề “Nhìn từ xa… tổ quốc”:
“Thần
tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
Ợ
lên thùm thủm cả tim gan”
“Và
ông cũng biểu lộ sự hoài nghi về thiện chí đổi mới của Đảng qua sự hoài nghi về
chính bản chất của Đảng
“Đổi
mới thật chăng hay giả vờ đổi mới?
Máu
nhiễm trùng ta có thể thay chăng?”
“Những
gì xẩy ra vài năm sau đó chứng tỏ sự hoài nghi của Nguyễn Duy quả thật có cơ sở.
Đến khoảng cuối năm 1989, phong trào Văn Nghệ Phản Kháng bắt đầu gặp phản ứng mạnh
từ phía nhà cầm quyền và từ phía một số văn nghệ sĩ thuộc cấp lãnh đạo chính trị,
kể cả một số người lúc đầu có cảm tình với phong trào này…” (ĐBHH, trang 26,
27)
Chỉ
căn cứ vào một số những trang viết của chính các tác giả xuất thân từ miền Bắc,
Trương Vũ đã ghi những nét đậm nơi bài “Phong trào văn nghệ phản kháng tại Việt
Nam 1986-1989” trong cuốn ĐBHH của mình.
*
Sau
khi đọc hết ĐBHH, theo tôi, điều đáng kể nhất nơi nhà văn Trương Vũ vẫn là tinh
thần nhân bản của ông, trước mọi biến động hay bi kịch của hai dòng văn học,
nghệ thuật hải ngoại và trong nước sau tháng 4-1975.
Tinh
thần này dường là mẫu chung của đa số nhà văn, nhà thơ miền Nam trước đây.
Tinh
thần ấy, với những người từng giao tiếp với họ Trương, có thể đã “đọc” được qua
nụ cười đôn hậu và, ánh nhìn ân cần, thường trực xuất hiện trên gương mặt hiền
hòa của ông.
DTL,
(Garden Grove, July 2019)
Nguồn: dutule.com, 24.7.2019